Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi bình minh huyện mỹ đức hà nội và thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.94 KB, 69 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH MẮC BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở ĐÀN LỢN NÁI
NGOẠI NUÔI TẠI TRANG TRẠI CHĂN NUÔI BÌNH MINH, HUYỆN MỸ
ĐỨC, HÀ NỘI VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ BỆNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính Quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa học: 2011 - 2016

THÁI NGUYÊN - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH MẮC BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở ĐÀN LỢN NÁI
NGOẠI NUÔI TẠI TRANG TRẠI CHĂN NUÔI BÌNH MINH, HUYỆN MỸ
ĐỨC, HÀ NỘI VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ BỆNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa: 2011 – 2016
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Phạm Thị Phƣơng Lan
Khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm

Thái Nguyên, năm 2015


i
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay tôi đã
hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp của mình. Trong suốt quá trình thực tập và
thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được rất
nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, các thầy giáo, cô
giáo đã giúp đỡ tôi trong sốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Th.S Phạm
Thị Phƣơng Lan đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành báo cáo đề tài
tốt nghiệp.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn chủ trại nái ngoại Ông Nguyễn Sĩ
Bình, các anh kỹ sư và toàn bộ công nhân viên trong trang trại đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành tốt công việc trong quá trình thực tập của mình.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, những người thân
yêu luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại trường cũng như trong
quá trình thực tập tốt nghiệp.
Trong quá trình thực tập, bản thân tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô để tôi được trưởng thành hơn trong

cuộc sống sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Phƣơng


ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1. Lịch sát trùng trại lợn nái ................................................................ 36
Bảng 4.2. Quy trình vắc xin tại trại ................................................................. 37
Bảng 4.3. Kết quả công tác phục vụ sản xuất ................................................. 44
Bảng 4.4. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ............................... 45
Bảng 4.5. Tỷ lệ lợn nái mắ c bê ̣nh viêm tử cung theo tháng theo dõi ............. 47
Bảng 4.6. Tỷ lệ lợn nái mắ c bê ̣nh viêm tử cung theo lứa đẻ .......................... 48
Bảng 4.7. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo giống lợn ..................... 50
Bảng 4.8. Ảnh hưởng của hình thức sinh đẻ đến tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung
......................................................................................................................... 51
Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung theo phác đồ điều trị .............. 52
Bảng 4.10. Một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của lợn nái sau điều trị............... 54


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

LH:

Lutein Hormone


PGF2α :

Prostaglandin F2α

MMA:

Mastitis - Metritis – Agalactic
(Hội chứng viêm vú, viêm tử cung và mất sữa)

FSH:

Follicle Stimulating Hormone

Ml:

Mililite

VNMTC:

Viêm nội mạc tử cung

VCTC:

Viêm cơ tử cung

VTMTC:

Viêm tương mạc tử cung


Nxb:

Nhà xuất bản

Cs:

Cộng sự


iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................0
DANH MỤC CÁC BẢNG......................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iv
Phần 1: MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài .............................................................................2
1.3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................................2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học ..............................................................................................2
13.2. Ý nghĩa trong thực tiễn ......................................................................................2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...........................................................................3
2.1. Cơ sở khoa học .....................................................................................................3
2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản của lợn cái ................................................................3
2.1.1.1. Bộ phận sinh dục bên ngoài ...........................................................................3
2.1.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong............................................................................5
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái..............................................................8
2.1.2.1. Sự thành thục về tính......................................................................................8
2.1.2.2. Chu kỳ động dục (chu kỳ tính) .......................................................................9
2.1.2.3. Sinh lý quá trình mang thai ..........................................................................12

2.1.2.4. Sinh lý quá trình đẻ .....................................................................................15
2.1.3. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái ...........................................................................19
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................25
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ..................................................................25
2.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước .....................................................................26
Phần 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......28
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................28
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành .........................................................................28


v
3.3. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................28
3.4. Chỉ tiêu nghiên cứu ............................................................................................28
3.5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................29
3.5.1. Phương pháp theo dõi thu thập thông tin ...........................................................29
3.5.2. Phương pháp xác định một số chỉ tiêu lâm sàng của nái khỏe và nái viêm tử
cung ...........................................................................................................................29
3.5.3. Phương pháp đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị .....................................30
3.5.4. Phương pháp tính toán các chỉ tiêu....................................................................32
3.6. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................................32
Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................................33
4.1. Công tác phục vụ sản xuất .................................................................................33
4.1.1. Công tác chăn nuôi ..........................................................................................33
4.1.2. Công tác thú y .................................................................................................35
4.1.2.1. Công tác vệ sinh thú y ..................................................................................35
4.1.2.2. Phòng bệnh bằng vắc xin .............................................................................37
4.1.2.3. Công tác chẩn đoán và điều trị bệnh ............................................................38
4.1.3. Các công tác khác............................................................................................43
4.2. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................45
4.2.1. Tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái sinh sản của trại .............45

4.2.2. Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm ửt cung theo tháng ...............................................46
4.2.3. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung theo lứa đẻ .......................................................48
4.2.4.Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm t ử cung theo giống lợn ......................................50
4.2.5. Ảnh hưởng của hình thức sinh đẻ đến tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ..............50
4.2.6. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung ....................51
4.2.7. Một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của lợn nái sau điều trị .................................54
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................55
5.1. Kết luận ..............................................................................................................55
5.2. Đề nghị ...............................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................57


1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ,
chất lượng và nhu cầu cuộc sống tăng lên không ngừng, kéo theo đó nhu cầu về số
lượng và chất lượng thịt cũng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngành chăn nuôi
lợn đang phát triển mạnh, sản phẩm của ngành không những phục vụ cho nhu cầu
trong nước mà còn mở rộng xuất khẩu.
Trước đây, năng suất chăn nuôi thấp là do người chăn nuôi quen với tập quán
nuôi lợn nội và tận dụng các phụ phẩm trong nông nghiệp để nuôi. Hiện nay, năng
suất chăn nuôi cao hơn rất nhiều lần do người chăn nuôi đã biết nuôi lợn ngoại theo
hình thức nuôi công nghiệp. Để chăn nuôi lợn ngoại đạt hiệu quả cao, bên cạnh các
yếu tố về thức ăn, chuồng trại, kỹ thuật chăn nuôi… thì yếu tố đầu tiên cần được
đảm bảo là có đàn giống tốt, điều này phụ thuộc rất lớn vào năng suất sinh sản của
đàn lợn nái ngoại. Đối với đàn lợn nái ngoại nuôi theo phương thức nuôi công
nghiệp thì bệnh sinh sản rất phổ biến và là nguyên nhân chính làm giảm năng suất
sinh sản, trong số đó bệnh viêm tử cung chiếm tỷ lệ khá cao. Bệnh viêm tử cung

không những làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ mà còn là
một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con đang
trong thời gian theo mẹ tăng cao, do đó chất lượng của đàn giống bị ảnh hưởng.
Nếu không điều trị kịp thời có thể kế phát viêm vú, mất sữa, nặng có thể dẫn tới rối
loạn sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc mạc… và chết. Bệnh viêm tử cung gây
ra thiệt hại rất lớn cho ngành chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn nái sinh sản,
nhưng các tài liệu hướng dẫn người chăn nuôi quy trình phòng và trị bệnh lại rất ít,
nhất là bệnh ở lợn nái. Vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và đưa ra
được biện pháp phòng, trị bệnh viêm tử cung là rất cần thiết. Do vậy, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái
ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi Bình Minh, huyện Mỹ Đức, Hà Nội và thử
nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh”.


2
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Điều tra tình hình chăn nuôi, vệ sinh phòng bệnh của trại.
- Điều tra tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trang trại.
- Thử nghiệm 2 phác đồ điều trị và đánh giá hiệu quả điều trị.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài xác định một số thông tin có giá trị khoa học bổ sung thêm những hiểu
biết về bệnh viêm tử cung ở lợn, là cơ sở khoa học cho những biện pháp phòng trị
bệnh có hiệu quả.
13.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Xác định được một số thuốc có hiệu lực và độ an toàn cao trong điều trị
- Hạn chế được những thiệt hại do bệnh gây ra bệnh viêm tử cung ở lợn, đề
phòng, hạn chế được mầm bệnh.



3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản của lợn cái
Cơ quan sinh sản của lợn cái bao gồm hai bộ phận: Bộ phận sinh dục bên
ngoài và bộ phận sinh dục bên trong.
2.1.1.1. Bộ phận sinh dục bên ngoài
Âm hộ (Vulva)
Bộ phận sinh dục ngoài của con cái nằm dưới hậu môn. Phía ngoài âm hộ có
hai môi (Labia vulva) nối liền hai môi bằng hai mép (Bimavulva), trên hai môi của
âm môn có sắc tố đen và nhiều tuyến tiết chất nhờn màu trắng và tuyến tiết mồ hôi.
Âm vật (Clitoris)
Âm vật của con cái giống như dương vật của con đực thu nhỏ lại, bên trong
có thể hổng. Trên âm vật có các nếp da tạo ra mũ âm vật (Praeputium clitoridis), ở
giữa âm vật xuống là chỗ tập trung của nhiều đầu mút thần kinh.
Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalis)
Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ. Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này
xếp theo hàng chéo, hướng quay về âm vật. Tiền đình gồm màng trinh, lỗ niệu đạo
và hành tiền đình. Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm
đạo, phía sau thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá
niêm mạc gấp lại thành một nếp. Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh. Hành tiền
đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể hổng ở bao dương vật
của con đực.
Tuyến vú
Tuyến vú có hình chùm nho phức tạp và có nguồn gốc từ da.
- Núm vú ở lợn có nhiều đôi vú từ vùng ngực đến vùng bẹn (thường có từ 5
đến 8 đôi). Mỗi núm vú có 2 tuyến sữa, đầu núm vú có 2 - 3 ống dẫn thông với các
ống dẫn sữa lớn. Đầu núm vú là thụ quan ngoài quan trọng góp phần điều hoà phản
xạ tiết sữa.



4
- Bao tuyến do những tế bào biểu mô phân tiết tạo thành, là nơi sản sinh ra
sữa. Các bao tuyến giống như những túi nhỏ và những ống dẫn nhỏ trực tiếp thông
với xoang bao tuyến.
- Ống dẫn sữa: Các ống dẫn sữa đầu tiên là các ống dẫn nhỏ, sau đó tập trung
thành các ống dẫn trung bình, ống dẫn lớn, ở lợn không có bể sữa. Theo Rzasa. A
và cs (2004) [22], ở lợn nái có số lượng ống dẫn sữa trong núm vú phân bố không
đều nhau. Cụ thể là 43% lợn nái trong núm vú có 2 ống dẫn, 43% lợn nái có núm vú
với 1 và 2 ống dẫn; 11,5% có 2 và 3 ống dẫn; 2,5% có cả 1, 2 và 3 ống dẫn.
Bao tuyến và các ống dẫn sữa nhỏ có các tế bào biểu mô bao bọc tầng bên
ngoài, những tế bào biểu mô đó co bóp để cho sữa ở trong xoang bao tuyến thải ra.
Ống dẫn sữa và bể sữa có các sợi cơ trơn bao bọc xung quanh, các sợi cơ này co
bóp để giúp cho quá trình thải sữa.
Các mô liên kết, mô mỡ bao quanh toàn bộ tuyến vú, đồng thời các mô này
đi sâu vào bên trong tạo thành các thuỳ nông, thùy sâu, chia tuyến vú thành nhiều
thuỳ nhỏ. Trong các thuỳ có nhiều sợi đàn hồi và khi sữa tích lại trong tuyến vú thì
toàn bộ bầu vú căng ra. Trong các bao tuyến có hệ thống mạch quản dày đặc, trong
đó hệ tĩnh mạch của tuyến vú phát triển hơn hệ động mạch nhiều lần. Hệ thống
mạch quản của tuyến vú có chức năng mang chất dinh dưỡng và oxy đến cung cấp
cho bao tuyến và là nguyên liệu để hình thành nên sữa.
Cũng theo Rzasa. A và cs (2004) [22], những núm vú có 1 ống dẫn cho ít
sữa hơn núm vú có 3 ống dẫn và ở lợn nái đẻ lứa đầu, tỉ lệ núm vú 1 ống dẫn nhiều
hơn so với lợn đã đẻ nhiều lứa. Gia súc còn non thì tuyến vú của con đực và con cái
đều giống nhau, khi gia súc cái sinh trưởng và phát dục thì các mô liên kết và mô
mỡ tuyến vú tăng dần làm cho thể tích tuyến vú tăng lên, đến khi gia súc đến giai
đoạn thành thục về tính thì tuyến vú của con cái phát triển: Các ống dẫn, sinh
trưởng nhanh và phát triển nhiều nhánh nhỏ phức tạp, đồng thời thể tích bầu vú và
đầu vú cũng to dần lên.



5
2.1.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong
Âm đạo (Vagina)
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối đồng thời
là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất dịch từ
tử cung. Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu sau
thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là màng trinh.
Âm đạo có cấu tạo gồm lớp liên kết ở ngoài, lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài,
cơ vòng bên trong và các lớp cơ âm đạo liên kết với các cơ ở cổ tử cung và lớp
niêm mạc âm đạo, trên bề mặt có nhiều thượng bì gấp nếp dọc. Âm đạo là cơ quan
giao cấu, nơi tinh dịch được phóng ra và đọng lại ở đó. Âm đạo lợn dài 10 – 12cm.
Tử cung (Uterus)
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu đạo
trong xoang chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ tại
chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm 2 sừng thông với 1 thân và cổ
tử cung. Sừng tử cung dài 50-100cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng. Thân
tử cung dài 3-5cm, nằm phía trong cổ tử cung và có rãnh giữa tử cung. Cổ tử cung
dài 10-18cm, có thành dầy, hình trụ, có các cột thịt xếp theo kiểu cài răng lược,
thông với âm đạo.
Cấu tạo tử cung gồm 3 lớp: Tương mạc, cơ trơn và nội mạc sắp xếp lần lượt
từ ngoài vào trong. Lớp tương mạc là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung
và nối tiếp vào các hệ thống các dây chằng. Lớp cơ trơn gồm cơ vòng rất dày ở
trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài. Giữa hai tầng cơ trơn chứa tổ chức liên kết sợi đàn
hồi và mạch quản, đặc biệt là nhiều tĩnh mạch lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan
vào nhau theo mọi hướng làm thành mạng vừa dày vừa chắc.
Lớp nội mạc tử cung là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế bào
biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhầy tử cung. Nhiều tế bào

biểu mô kéo dài thành lông nhung, khi lông rung động thì gạt những chất nhầy tiết
ra về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp, lớp niêm mạc tử cung có


6
nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển và duy trì sự
sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng
của oestrogen, các tuyến tử cung phát triển từ lớp màng nhầy xâm nhập vào lớp
dưới màng nhầy và cuộn lại. Tuy nhiên, các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết
tối đa khi có tác dụng của progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ
theo giai đoạn của chu kỳ lên giống (Trần Thị Dân, 2004) [4].
Ống dẫn trứng (Oviductus)
Ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mỡ ra
để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp xúc với
buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng, phần rộng chiếm 1/2 chiều
dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với
tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo tiếp nối với sừng tử cung, nó có thành dày hơn
phần rộng và ít nếp gấp hơn. Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn
và tinh trùng đến nơi thụ tinh (1/3 phía trên của ống dẫn trứng), tiết ra các chất để
nuôi dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết
các chất nuôi dưỡng phôi trong mấy ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp
giáp giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng đến
phần rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung. Ở lợn, sự co thắt
của nơi tiếp giáp eo - tử cung tạo thành cái cản đối với tinh trùng để không có quá
trình tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh được hiện tượng nhiều tinh trùng
xâm nhập noãn.
Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm
trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình
bầu dục hoặc hình ô van dẹt, không có lõm rụng trứng (Trần Thị Dân, 2004) [4]

Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo ra giao tử cái và tiết các
hormone: Oestrogen, progesterone, oxytoxin, relaxin và inhibin. Các hormone này
tham gia vào việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn nái. Oestrogen cần thiết cho sự
phát triển của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng


7
tiết ra giúp duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi
dưỡng thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú.
Oxytoxin được tiết chủ yếu của phần sau của tuyến yên nhưng cũng đươc tiết bởi
thể vàng của buồng trứng khi thú gần sinh, nó làm co thắt cơ tử cung trong lúc đẻ và
cũng làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Relaxin do thể vàng tiết ra để gây dãn
nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ tử cung, do đó mở rộng đường sinh dục khi gần
sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) từ tuyến yên, do đó
ức chế sự phát triển nang noãn theo chu kỳ.
Ở bề mặt ngoài của buồng trứng có một tổ chức liên kết được bao bọc bởi
lớp biểu mô hình lập phương. Bên dưới lớp này là lớp vỏ chứa các noãn nang, thể
vàng, thể trắng (thể vàng thoái hoá). Phần tuỷ của buồng trứng nằm ở giữa, gồm có
mạch máu, dây thần kinh, mạch bạch huyết và mô liên kết. Miền vỏ có tác dụng về
sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình trứng chín và rụng trứng. Trên buồng trứng có từ
70.000 – 100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những
noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang
sinh trưởng, khi noãn bào chín sẽ nổi lên bề mặt buồng trứng.
Có bốn loại noãn nang trong buồng trứng: Noãn nang nguyên thuỷ, noãn
nang bậc 1, noãn nang bậc 2, noãn nang bậc 3. Noãn nang nguyên thuỷ nhỏ nhất và
được bao bọc bởi một lớp tế bào vảy. Noãn nang nguyên thuỷ phát triển thành noãn
nang bậc một, nó được bao bọc bởi một lớp tế bào biểu mô hình lập phương (tế bào
nang). Khi cơ thể mới được sinh ra, buồng trứng đã có sẵn hai loại noãn nang này.
Noãn nang bậc một có thể bị thoái hoá hoặc phát triển thành noãn nang bậc 2. Noãn
nang bậc 2 hoặc nhiều lớp tế bào nang nhưng không có xoang nang (là khoảng

trống chứa dịch nang). Noãn nang có xoang được xem như noãn nang bậc 3, chứa
dịch nang và có thể trở nên trội hẳn để chuẩn bị xuất noãn (nang Graaf). Noãn nang
có xoang bao gồm ba lớp: Lớp bao ngoài, lớp bao trong và lớp tế bào hạt. Lớp bao
ngoài là mô liên kết lỏng lẻo. Lớp bao trong sản xuất androgen dưới tác dụng của
LH. Lớp tế bào hạt tách rời lớp bao trong bởi màng đáy mỏng. Tế bào hạt sản xuất
nhiều chất sinh học và trên bề mặt tế bào có thụ thể (receptor) tiếp nhận kích thích


8
tố LH. Những chất quan trọng được sản xuất bởi tế bào hạt là estrogen, inhibin và
dịch nang.
Khi nang Graaf xuất noãn, những mạch máu nhỏ bị vỡ và gây xuất huyết tại
chỗ. Sau khi xuất noãn, phần còn lại của nang noãn cùng với vết xuất huyết được
gọi là thể xuất huyết với kích thước nhỏ hơn nang noãn nhiều lần. Sau đó tế bào bao
trong và tế bào hạt biệt hoá thành tế bào thể vàng để tạo nên thể vàng.
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái
2.1.2.1. Sự thành thục về tính
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện,
buồng trứng có bao noãn chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử cung
biến đổi theo, đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung. Những dấu hiệu động
dục xuất hiện đối với gia súc như vậy gọi là sự thành thục về tính và sự thành thục
về tính thường đến sớm hơn sự thành thục về thể vóc.
Theo Xuxoep A.A (1985) [26], sự thành thục của gia súc được đặc trưng bởi
những thay đổi bên trong và bên ngoài cơ thể, đặc biệt là sự biến đổi bên trong của
cơ quan sinh dục. Tuỳ thuộc vào từng loài gia súc khác nhau mà thời gian thành
thục về tính khác nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn khoảng 6 tháng, giới hạn
dao động từ 4–8 tháng (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) [7]
Mặt khác, tuổi thành thục tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy, để
đảm bảo sự sinh trưởng và phẩm chất giống ở thế hệ sau nên cho gia súc giao phối
sau khi đã hoàn toàn thành thục về tính và trước thời gian thành thục về thể vóc.

Tuy nhiên, không nên cho lợn phối giống quá muộn vì nó ảnh hưởng đến thế hệ sau
của chúng. Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2000) [6], tuổi phối giống lần đầu cho lợn
cái tốt nhất là lúc 8 tháng tuổi và khối lượng là ≥ 70 kg hoặc ở 9 tháng tuổi với
khối lượng là 80 – 90 kg.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục tính:
* Giống: Các giống gia súc khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác
nhau, sự thành thục về tính ở những gia súc có tầm vóc nhỏ thường sớm hơn gia súc


9
có tầm vóc lớn. Các giống lợn nội tuổi thành thục về tính là 4 – 5 tháng, các giống
lợn Landrace, Yorkshire tuổi thành thục về tính là 6-7 tháng.
Theo Phạm Hữu Doanh (1985) [5], tuổi thành thục tính ở lợn lai muộn hơn
lợn cái nội thuần chủng (Ỉ, Móng Cái) thường ở tháng thứ 4, thứ 5 (120 – 150 ngày
tuổi). Lợn F1 thường động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi, lợn ngoại 6 – 8 tháng tuổi.
* Dinh dưỡng và cách thức nuôi dưỡng:
Nguyễn Tấn Anh và Nguyễn Duy Hoan (1998) [1] cho biết, kinh nghiệm từ
thực tiễn chăn nuôi Hoa Kỳ, để duy trì năng suất sinh sản cao thì cần chú ý tới nhu cầu
dinh dưỡng và cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi đạt khối lượng 80-90 kg,
sau đó cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3).
Hoặc có thể điều chỉnh để khối lượng cơ thể đạt 120 – 140 kg ở chu kỳ động
dục thứ 3 và cho phối giống. Trước phối giống 14 ngày cho ăn chế độ kích dục,
tăng lượng thức ăn từ 1 – 1,5 kg, có bổ sung khoáng và sinh tố chỉ trong 14 ngày, sẽ
giúp lợn nái ăn được nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 – 2,1 trứng/lần động
dục/nái.
* Sự kích thích của con đực ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của lợn
cái hậu bị:
Cách ly lợn cái hậu bị (ngoài 5 tháng tuổi) khỏi lợn đực sẽ dẫn đến làm chậm trễ
sự thành thục so với những lợn cái hậu bị cùng độ tuổi được tiếp xúc với con đực.
2.1.2.2. Chu kỳ động dục (chu kỳ tính)

Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái đặc biệt là cơ quan sinh dục
có sự biến đổi, đồng thời có rụng trứng, trứng phát triển nhờ quá trình điều khiển
của hormone thùy trước tuyến yên làm trứng chín và rụng một cách có chu kỳ, con
vật biểu hiện bằng những triệu trứng động dục theo chu kỳ được gọi là chu kỳ tính.
Chu kỳ tính có sự khác nhau giữa các loài, thời gian kéo dài chu kỳ giữa các
loài cũng có sụ khác nhau. Ở thời gian đầu, do mới có sự thành thục về tính nên chu
kỳ chưa ổn định, phải sau 2 – 3 chu kỳ tiếp sau mới có được sự ổn định. Theo Trần
Tiến Dũng và cs (2002) [7], lợn động dục không theo mùa, chu kỳ sinh dục thường
21 ngày, thời gian dao động từ 18 – 22 ngày. Chu kỳ động dục của lợn liên quan


10
chặt chẽ với quá trình điều hòa kích tố trong cơ thể và chịu sự điều khiển của hệ
thống thần kinh thể dịch. Chu kỳ động dục là khoảng thời gian giữa 2 lần động dục
và nó được chia làm 4 giai đoạn sau:
a. Giai đoạn trước động dục (preoestrus)
Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt động
về sinh lý, tính thành thục trong đó sự phát triển của noãn bao thành thục nổi rõ lên
bề mặt buồng trứng, buồng trứng to hơn bình thường, các tế bào của vách ống dẫn
trứng tăng sinh, số lượng lông nhung tăng lên. Đường sinh dục xung huyết, nhu
động sừng tử cung tăng, mạch quản trong màng nhầy tử cung tăng, các dịch nhày ở
âm đạo nhiều, niêm dịch cổ tử cung tiết ra, kích thích cho cổ tử cung hé mở, bộ
phận sinh dục phù thũng, niêm dịch ở đường sinh dục chảy ra nhiều, con vật bắt đầu
xuất hiện tính dục, giai đoạn này ở lợn dài từ 1–2 ngày. Tất cả những biến đổi đó tạo
điều kiện thuận lợi cho tinh trùng vào đường sinh dục cái để thụ tinh với tế bào trứng.
b. Giai đoạn động dục (0estrus)
Là giai đoạn tiếp theo thường kéo dài từ 2 – 3 ngày. Trong giai đoạn này
những biến đổi về sinh lý so với giai đoạn trước động dục càng rõ hơn. Bên ngoài
âm hộ phù thũng, niêm mạc xung huyết, niêm dịch trong suốt từ âm đạo chảy ra
nhiều. Cuối giai đoạn này tính hưng phấn của con vật cao độ, gia súc ở trạng thái

không yên tĩnh, ăn uống giảm rõ, kêu rống, phá chuồng, đứng ngẩn ngơ, nhảy lên
lưng con khác hay để con khác nhảy lên lưng, đái rắt, thích gần con đực, xuất hiện
các tư thế phản xạ giao phối. Sau đó, khoảng 20h thì trứng bắt đầu rụng. Thời gian
rụng trứng kéo dài từ 4 đến 6 giờ, số trứng rụng mỗi lần từ 8 đến 25 trứng hoặc hơn.
Giai đoạn này nếu tế bào trứng ra khỏi buồng trứng gặp tinh trùng và được
thụ thai thì chu kỳ sinh dục sẽ ngừng lại, gia súc cái ở giai đoạn có thai và đến một
thời gian sau khi sinh đẻ xong chu kỳ tính mới xuất hiện trở lại. Trường hợp tế bào
trứng không được thụ thai thì nó sẽ chuyển sang giai đoạn sau của chu kỳ.
c. Giai đoạn sau động dục (metoestrus)
Được tính từ khi kết thúc động dục, thường kéo dài từ 3 – 4 ngày, hoạt động
sinh lý bắt đầu lắng xuống, con vật dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường, rồi


11
chuyển sang giai đoạn yên tĩnh làm giảm tiết oestrogen, từ đó làm giảm hưng phấn
thần kinh, ức chế sự tăng và tiết thể dịch, làm cho con vật trở nên bình thường,
chuyển sang giai đoạn yên tĩnh.
d. Giai đoạn yên tĩnh (dioestrus)
Là giai đoạn dài nhất chiếm phần lớn chu kỳ động dục, bắt đầu từ ngày thứ 4
sau khi trứng rụng và không được thụ tinh, kết thúc sau khi thể vàng tiêu hủy không
còn biểu hiện gì về hành vi sinh dục. Đây là giai đoạn chuyển giao giữa hai lần
động dục. Trong quá trình động dục, nếu trứng được thụ tinh thì thể vàng tồn tại
suốt 2/3 thời gian mang thai và tiết ra progesteron có tác dụng an thai, ức chế quá
trình rụng trứng, kích thích tuyến vú phát triển. Thời kỳ yên tĩnh lúc này chính là
giai đoạn mang thai và thời kỳ sau đẻ. Ở giai đoạn nuôi con dưới tác dụng của
prolactin, oxytoxin, progesteron,… làm cho quá trình rụng trứng bị đình trệ, hiện
tượng động dục không xảy ra. Thường sau khi cai sữa thì chu kỳ tính dần được khôi
phục và xuất hiện trở lại sau cai sữa 4 – 8 ngày.
Nếu trong quá trình động dục, trứng rụng không được thụ tinh thì thể vàng
chỉ tồn tại được 3 – 10 ngày, sau đó teo đi làm ngừng tiết progesteron. Do đó, trứng

tiếp tục chín và rụng, xuất hiện chu kỳ tính tiếp theo.
Các yếu tố ảnh hưởng tới chu kỳ động dục:
* Yếu tố ngoại cảnh:
Khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng, mùa vụ, thức ăn…đều ảnh hưởng rõ rệt đến chu
kỳ tính của gia súc cái.
Theo Vũ Duy Giảng và cs (1999) [10], trong điều kiện thức ăn thiếu protein,
vitamin, khoáng, chu kỳ tính kéo dài, bao noãn thành thục chậm, thậm chí có bao
noãn quắt lại.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], ở lợn chu kỳ sinh dục trong suốt cả
năm nhưng thường khi khí hậu ấm áp thì nó xuất hiện rõ ràng và đầy đủ các đặc
điểm hơn so với điều kiện khí hậu lạnh. Trong điều kiện quá giá lạnh thì chu kỳ
sinh dục có thể ngừng lại hoàn toàn.


12

* Yếu tố thần kinh – thể dịch:
Quy luật và đặc điểm của chu kỳ sinh dục chịu sự điều khiển của hệ thần
kinh trung ương. Tất cả các kích thích bên ngoài và trong cơ thể như: Khí hậu, nhiệt
độ, ánh sáng, chế độ nuôi dưỡng quản lý, tác động xoa bóp, mùi vị con đực, tình
trạng cơ quan sinh dục và các bộ phận khác của cơ thể đều ảnh hưởng trực tiếp đến
chu kỳ tính một cách phản xạ theo phương thức thần kinh – thể dịch.
Ngoài ra, hệ thần kinh thực vật cũng có tác động đến chu kỳ sinh dục. Khi
thần kinh giao cảm hưng phấn thì sẽ ức chế chu kỳ sinh dục. Còn khi thần kinh phó
giao cảm hưng phấn thì lại kích thích chu kỳ động dục.
Tuyến yên có tác dụng trực tiếp lên cơ quan sinh dục cái. Nếu cắt bỏ
tuyến yên, noãn bao không phát triển, tế bào trứng không rụng, thể vàng không
hình thành, buồng trứng bị teo và các kích tố của buồng trứng cũng không được
hình thành.
2.1.2.3. Sinh lý quá trình mang thai

Có thai là một hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó được bắt đầu từ
khi trứng được thụ tinh cho đến khi sinh đẻ xong.
Thời gian có thai
Trong thực tế, sự có thai của gia súc được tính ngay từ ngày phối giống lần
cuối. Thời gian có thai phụ thuộc vào những điều kiện và các yếu tố khác nhau. Nó
dài hay ngắn tùy theo loài, giống gia súc, tuổi gia súc mẹ, lứa sinh sản, trạng thái
dinh dưỡng, sức khỏe…
Theo Đặng Đình Tín (1986) [19], Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], ở lợn
thời gian có thai xê dịch trung bình là 110 – 118 ngày, thời gian có thai trung
bình là 114 ngày.
Quá trình phát triển của phôi thai
Quá trình phát triển của bào thai có thể chia ra làm ba thời kỳ:
* Thời kỳ thứ nhất – thời kỳ trứng: Thời kỳ này bắt đầu từ khi tế bào trứng
được thụ tinh đến khi hình thành nang phôi – túi phôi.


13
* Thời kỳ thứ hai – thời kỳ phôi thai là thời kỳ hình thành nhau thai, hình thành
các tế bào và các cơ quan hệ thống của cơ thể. Ở gia súc lớn từ ngày thứ 11 – 40.
* Thời kỳ thứ ba – thời kỳ bào thai là thời kỳ cuối phôi thai cho đến khi sinh
đẻ. Là giai đoạn phân hóa những kết cấu cực tiểu của tế bào và cơ quan, là thời kỳ
bào thai phát triển nhanh.
Sự điều hòa thần kinh – thể dịch ở thời kỳ mang thai
Điều hòa sự phát triển của bào thai và đảm bảo sự thống nhất trong các hoạt
động chức năng giữa cơ thể mẹ và bào thai là một quá trình phức tạp do sự điều tiết
thần kinh – thể dịch.
Điều tiết thần kinh: Bắt đầu từ lúc thụ thai thì trong vỏ não xuất hiện vùng
hưng phấn trội để tiếp nhận những biến đổi hóa học và cơ học từ các điểm thụ cảm
ở tử cung, do đó đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của phôi
thai như: niêm mạc tử cung phát triển, mạch máu đến nhiều, tiết dịch tăng. Hưng

phấn tăng cường mạnh nhất ở tháng thứ hai, là một trong các yếu tố dễ gây sẩy thai
ở thời điểm này.
Điều tiết thể dịch: Progesteron là hormone an thai, duy trì quá trình mang thai,
được sản sinh ở thể vàng và nhau thai. Ở lợn, progesteron chủ yếu do thể vàng cung
cấp, vai trò của nhau thai là thứ yếu (Nguyễn Xuân Tịnh và cs, 1996) [20].
Những biến đổi sinh lý chủ yếu khi có thai
* Sự biến đổi toàn thân của cơ thể mẹ khi có thai
Khi gia súc có thai, kích tố của hoàng thể và nhau thai làm thay đổi cơ năng
hoạt động một số tuyến nội tiết khác. Vì vậy, hiện tượng ăn uống, trạng thái dinh
dưỡng, quá trình trao đổi chất,…của con mẹ được nâng cao cho nên thời kỳ đầu gia
súc có thai thường béo hơn khi chưa có thai.
Theo Vũ Duy Giảng và cs (1999) [10], trong thời kỳ có chửa, lợn nái tăng từ
15 – 25 kg (không kể các sản phẩm thai, trong đó khoảng 3 – 4 kg là protein). Nói
chung trong thời gian có chửa, lợn mẹ tăng từ 1,2 – 1,3 lần so với trước khi phối
giống, quan trọng đối với gia súc có thai là vitamin A. Nếu thiếu vitamin A, con mẹ
có hiện tượng thoái hóa thượng bì âm đạo và dạ con làm cho khả năng thụ thai kém


14
hoặc nếu con mẹ có thai thì cũng dễ xảy thai, sát nhau, con đẻ ra yếu. Ngoài ra cần
bổ sung thêm vitamin D, B1, B2.
Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7] cho rằng, trường hợp thiếu canxi và
photpho nghiêm trọng thì gia súc mẹ sẽ bị bại liệt trước khi đẻ, khung xoang chậu bị
lệch hay biến dạng, dẫn tới hiện tượng đẻ khó.
Vũ Duy Giảng và cs (1999) [10] nhận định canxi và photpho là 2 nguyên tố
không thể thiếu được đối với gia súc có thai. Nhu cầu canxi là 0,6%, photpho là
0,5% so với khối lượng vật chất khô khẩu phần.
Bào thai ngày càng phát triển, áp lực xoang chậu và xoang bụng thay đổi nên
ảnh hưởng đến sự hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp. Nhu cầu cung cấp oxy của
bào thai dần nâng cao ở thời gian có thai kỳ cuối nên tần số hô hấp của mẹ tăng lên

và có khi còn biểu hiện trạng thái thở dốc. Dưới tác dụng chèn ép cơ học của bào
thai kỳ cuối làm thay đổi tuần hoàn vùng xoang chậu nên gây hiện tượng phù thũng
ở hai chân sau. Mặt khác số lần đại tiểu tiện của gia súc mẹ tăng lên nhưng số lượng
mỗi lần ít.
* Sự thay đổi ở cơ quan sinh dục
Khi gia súc có thai, hai buồng trứng to nhỏ không đều nhau. Buồng trứng
phía sừng tử cung có thai thường lớn hơn buồng trứng bên kia. Trên mặt ngoài
buồng trứng xuất hiện thể vàng.
Với tử cung, toàn bộ tử cung xuất hiện những thay đổi về cấu tạo, tính chất,
vị trí, khối lượng, thể tích,…dây chằng tử cung dài ra nên đầu mút sừng tử cung và
buồng trứng được đưa về phía trước và phía dưới, xa vị trí cũ. Hệ tuần hoàn ở cơ
quan sinh dục được tăng cường, lượng máu đến cung cấp cho niêm mạc tử cung rất
nhiều nên niêm mạc được phát triển và dày lên. Các tuyến tử cung cũng được phát
triển mạnh mạnh và tăng cường tiết niêm dịch. Niêm mạc tử cung hình thành nhau
mẹ. Nghiên cứu của tác giả Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7] cho thấy, ở lợn mức độ
phát triển và tăng sinh của tử cung phụ thuộc vào số lượng của bào thai và thường là
phát triển ở cả hai sừng. Cuối thời kỳ có thai, khối lượng tử cung (không kể thai)


15
nặng tới 2,5 – 6kg, còn tử cung bình thường không có thai nặng 0,2 – 0,5kg, khi có
thai tử cung lợn mẹ nặng tới 3 – 4kg.
* Những thay đổi hormone sinh dục
Bào thai được phát triển bình thường dưới tác dụng điều hòa của các
hormone buồng trứng, nhau thai và tuyến yên. Nửa thời kỳ đầu có thai nhau thai
được hình thành và phát triển, tiết ra prolan B. Chất này có tính chất giống như LH
của thùy trước tuyến yên. Nó kích thích thể vàng phát triển và tăng tiết progesteron,
làm cho niêm mạc tử cung phát triển và dày thêm. Nhau thai ngoài việc tiết ra
prolan B, còn tiết ra progesteron và folliculin. Nửa thời kỳ sau có thai hàm lượng
progesteron giảm dần trong máu. Ngược lại, follicilin tăng dần đến mức tối đa.

Cuối thời kỳ có thai, progesteron giảm rất thấp trong máu. Progesteron có tác
dụng ức chế tử cung co bóp và follicilin kích thích co thắt tử cung, thuận lợi cho
quá trình sinh đẻ. Trong thời kỳ có thai, nhau thai đã dần thay thế chức năng nội tiết
của thùy trước tuyến yên, tiết ra Prolan A và Prolan B. Mặt khác, nó còn thay thế
buồng trứng tiết ra progesteron trong nửa thời kỳ đầu và folliculin được tiết liên tục
càng về sau càng nhiều.
2.1.2.4. Sinh lý quá trình đẻ
Gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định, khi bào thai đã phát
triển đầy đủ, gia súc mẹ đẩy thai ra ngoài cùng với màng nhau, dịch thai. Quá trình
đó gọi là đẻ.
Thời gian đẻ của gia súc
Thời gian đẻ của gia súc được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi
thai ra khỏi cơ thể mẹ và số lượng bào thai ra hết ở những loài gia súc đa thai, thời
gian đẻ của lợn từ 2-6h (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) [7].
Những biểu hiện của cơ thể mẹ trong thời gian gần sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ của gia súc là một quá trình sinh lý bình thường. Cho nên
cuối thời kỳ mang thai gia súc cái có những biểu hiện của quá trình sinh đẻ, chủ yếu
là đường sinh dục và bầu vú.


16
* Triệu chứng ở thời kỳ sắp đẻ
Trước thời gian đẻ 1 – 2 tuần, chất niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục
lỏng, sánh dính và chảy ra ngoài. Còn 1 – 2 ngày trước khi gia súc đẻ thì cơ quan
sinh dục bên ngoài có những thay đổi: Âm môn to phù, nhão ra và xung huyết nhẹ,
đầu núm vú to, bầu vú căng to, tĩnh mạch vú nổi rõ. Nhiệt độ cơ thể thường thay
đổi, trước khi đẻ thì nhiệt độ tăng lên cao hơn bình thường. Bên ngoài gia súc cái có
hiện tượng sụt mông. Lợn trước khi đẻ 10 – 15 ngày bầu vú căng. Giữa bầu vú và
thành bụng đã phân chia ranh giới rõ ràng (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) [7].
* Triệu chứng rặn đẻ

Khi đẻ gia súc mẹ phải dùng sức đẩy thai cùng với các khí quan trong đường
sinh dục để đưa thai ra ngoài. Sức rặn căn bản là do sự co bóp của tử cung, sự co
bóp này bắt đầu từ sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung, kết quả làm mở
rộng cổ tử cung.
Nhưng chỉ nhờ vào sức co bóp của tử cung thì không đủ đẩy thai ra ngoài mà
phải nhờ vào sự co bóp của cơ ở bụng, hoành cách mô và toàn thân. Đó mới là
“rặn” đẻ, mặt khác còn dựa vào sự co bóp của cơ âm đạo, chậu hông, sức. Khi có
triệu chứng đẻ thì tử cung bắt đầu co bóp, ban đầu yếu sau mạnh dần.
Quá trình sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ của gia súc cái do sự co bóp của tử cung, cơ thành bụng,
sức rặn toàn thân, thai, màng nhau thai cùng với nước thai được tống ra ngoài. Quá
trình sinh đẻ được chia ra làm 3 thời kỳ:
* Thời kỳ mở cổ tử cung
Thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp đầu tiên đến khi cổ tử cung
mở ra hoàn toàn. Tùy từng giống mà biểu hiện bên ngoài không giống nhau. Ở lợn
thường hay đứng nằm không yên, đi đi lại lại trong chuồng và có triệu chứng cắn ổ.
Động lực thúc đẩy cho quá trình sinh đẻ là sự co bóp của cơ quan sinh dục
được tiến hành từ mút sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung và đến âm
đạo, thời gian co bóp có những khoảng cách nên gọi là những cơn rặn.


17
Con vật xuất hiện cơn rặn đầu tiên trong thời kỳ 1 nhưng nói chung cơn rặn
này yếu về cường độ, thời gian cơn rặn ngắn, thời gian nghỉ giữa hai cơn rặn lại dài
từ 20 – 30 phút, mỗi cơn rặn thường từ 2 – 3 giây. Nếu con mẹ rặn liên tục thì mạch
máu của bào thai chèn ép, tuần hoàn đình trệ, dưỡng khí cung cấp cho thai thiếu,
thai ra chậm có thể bị ngạt.
Cường độ co bóp chuyển từ sừng tử cung xuống thân tử cung, đến cổ tử cung
ra ngoài âm đạo. Nước ở trong tử cung và màng thai dồn ép ra ngoài, cổ tử cung lúc
này đã mở, màng thai đã một phần lọt ra ngoài. Cùng với sức co bóp của tử cung

tăng lên, màng thai tiếp tục chui ra, ép vào cổ tử cung làm cho cổ tử cung càng mở
rộng. Khi cổ tử cung đã mở rộng thì một phần của thai chui ra, lúc này giữa cổ tử
cung và âm đạo không còn ranh giới nữa. Cùng lúc thai ra ngoài có hiện tượng vỡ
ối, màng ối và màng niệu vỡ ra. Thứ tự màng niệu vỡ trước, màng ối vỡ sau, nước
ối và nước niệu đều ra cùng với màng ối, màng niệu cũng góp phần cho cổ tử cung
mở rộng hoàn toàn đồng thời làm trơn đường sinh dục, cho thai đi ra ngoài dễ dàng.
* Thời kỳ đẻ (sổ thai)
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai lọt
ra ngoài. Ở thời kỳ này thai qua cổ tử cung và đi vào âm đạo. Nếu đẻ bình thường,
bộ phận ra trước nhất là đầu và chân. Lúc này gia súc cái bồn chồn, đứng nằm
không yên, có con chân sau đá vào bụng, lưng cong lên mà rặn.
Khi đầu của thai đã đi vào hố chậu, gia súc cái lại nằm xuống. Đặc điểm là
sức co bóp của tử cung trong thời kỳ này mạnh vì thân của thai tiếp xúc niêm mạc
âm đạo, gây ra một ma sát lớn. Trong lúc này gia súc thường kêu do bị đau vì dịch
ối, dịch niệu chảy ra hết, thân thai lại tiếp giáp vào niêm mạc âm đạo.
Bào thai đã đi ra đường sinh dục thì tăng kích thích cho cơ co bóp, lực co
bóp lúc này là tổng hợp giữa co bóp của đường sinh dục, sự co bóp của cơ thành
bụng, cơ hoành thành một lực mạnh và được kéo dài.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7] lợn rặn đẻ khác với loài gia súc khác,
tử cung co bóp đẩy thai theo chiều dọc và co bóp theo từng đoạn. Sự co bóp bắt đầu
từ gốc sừng tử cung, lan dần đến đầu nhọn của sừng tử cung, hai sừng tử cung thay


18
nhau co bóp. Trong cơn rặn đẻ lợn thường nằm nghiêng, cũng có khi đứng lên
nhưng lại nằm xuống ngay, màng thai của lợn không lòi ra ngoài âm hộ, nước ối ít,
thai lợn ra từng con một, sau mỗi lần rặn thường thai lợn ra dễ dàng.
* Thời kỳ sổ nhau (bong nhau)
Sau khi thai lọt ra khỏi đường sinh dục của gia súc mẹ một thời gian, con mẹ
trở lên yên tĩnh, nhưng tử cung vẫn co bóp và tiếp tục những cơn rặn, mỗi lần co

bóp từ 1,5 – 2 phút, thời gian giữa hai lần co bóp là 2 phút, nhưng cường độ lúc này
yếu hơn.
Sau khi sổ thai khoảng 2 – 3h tử cung co nhỏ lại, thành tử cung dày, trên bề
mặt có nhiều nếp nhăn, bên trong tử cung có nhiều núm nhau. Cơn rặn lúc này của
gia súc cái chủ yếu là đưa nhau thai ra ngoài.
Trong thời gian này tuần hoàn của núm nhau mẹ và núm nhau con đã giảm
nên nhau thai có thể tách ra được. Các nhung mao teo lại, tách núm nhau mẹ ra
khỏi nhau thai. Trong thời gian này tử cung tiếp tục co bóp và thu nhỏ lại dần thể
tích, nhưng màng niệu và màng nhung mao thì không co lại được nên tử cung
đẩy ra ngoài.
Trong quá trình đẩy màng nhau thai ra ngoài, do đặc tính của tử cung co bóp
từ mút sừng tử cung tới thân tử cung, nên màng nhau thai bong ra sẽ được lộn trái,
phần ở mút sừng tử cung ra trước, sau đó bong dần xuống sừng tử cung, thân tử
cung và ra ngoài.
Thời gian bong nhau thai của gia súc có khác nhau do đặc điểm cấu tạo của
núm nhau con và núm nhau mẹ trên niêm mạc tử cung.
Lợn nái đẻ sau khi thai ra hết toàn bộ, khoảng 10 – 50 phút nhau thai mới ra.
Nhau thai của lợn ra chia thành hai đống, mỗi đống gồm nhau thai của tất cả các
thai chứa trong một sừng tử cung (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) [7].
Trong sừng tử cung lợn có ít thai thì nhau thai không dính lại như vậy, mà ra từng
cái một, thai sau có thể đẩy nhau thai của thai trước ra. Nếu trong sừng tử cung lợn có
xen kẽ nhiều thai bình thường và thai bị chết khô thì nhau thai cũng ra thành nhiều đống.
Thường những thai chết khô trong sừng tử cung sẽ ra cùng với nhau thai.


×