Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 174 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .. 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .......................................... 8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc liên quan đến đề tài luận án ........................ 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc liên quan đến đề tài luận án....................... 13
1.2. Giả thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và kết quả nghiên cứu của đề tài
luận án ....................................................................................................................... 25
1.2.1. Giả thuyết nghiên cứu ..................................................................................... 25
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 26
1.2.3. Kết quả nghiên cứu ......................................................................................... 26
Kết luận chƣơng 1 ..................................................................................................... 26
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT THU NHẬP CỦA
NGƢỜI NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
THU NHẬP CỦA NGƢỜI NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN .......................... 28
2.1. Những vấn đề lý luận về kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập cá nhân ..... 28
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kiểm soát thu nhập cá nhân .................... 28
2.1.2. Những điều kiện để thực hiện kiểm soát thu nhập cá nhân ............................ 36
2.1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến việc kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế
trong quá trình thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân .......................................... 37
2.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu
nhập cá nhân và thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ..................................... 44
2.2.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu
nhập cá nhân .............................................................................................................. 44
2.2.2. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ............. 46
2.2.3. Một số mô hình điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kiểm soát thu
nhập cá nhân trên thế giới và bài học cho Việt Nam ................................................ 53


Kết luận chƣơng 2 ..................................................................................................... 70


Chƣơng 3: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT THU NHẬP CỦA NGƢỜI NỘP THUẾ
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................... 72
3.1. Cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập cá nhân
ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................. 72
3.1.1. Các quy định về chủ thể kiểm soát thu nhập cá nhân ..................................... 72
3.1.2. Các quy định về phạm vi kiểm soát thu nhập cá nhân .................................... 74
3.1.3. Các quy định về phƣơng thức kiểm soát thu nhập cá nhân ............................ 75
3.2. Những kết quả đạt đƣợc trong quá trình kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế
thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay ..................................................................... 77
3.2.1. Kết quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập cá nhân thông qua
việc thực hiện các thủ tục hành chính về thuế thu nhập cá nhân .............................. 77
3.2.2. Kết quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập cá nhân thông qua
việc thực hiện quy định về khấu trừ tại nguồn chi trả thu nhập ................................ 78
3.2.3. Kết quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thông qua quản lý mã số thuế
và xây dựng cơ sở dữ liệu ngƣời nộp thuế tập trung, thống nhất.............................. 80
3.2.4. Kết quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thông qua quy định hạn mức
sử dụng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt ............................................... 85
3.2.5. Kết quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thông qua việc thực hiện quy
định về kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập đối với những ngƣời nộp thuế là ngƣời
có chức vụ quyền hạn ................................................................................................ 91
3.2.6. Kết quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thông qua công cụ pháp luật
thuế tài sản ................................................................................................................. 92
3.3. Những hạn chế, bất cập trong kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập
cá nhân ở Việt Nam hiện nay .................................................................................... 94
3.3.2. Những hạn chế, bất cập của quy định về kiểm soát thu nhập thông qua cơ chế
tự khai, tự nộp và khấu trừ tại nguồn ......................................................................105

3.3.3. Những hạn chế, bất cập của quy định về kiểm soát thu nhập thông qua hạn
mức sử dụng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt .....................................107
3.3.6. Những hạn chế, bất cập trong quy định về kiểm soát thu nhập cá nhân từ tiền
lƣơng tiền công ........................................................................................................119
3.4. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân
về việc kiểm soát thu nhập chịu thuế ......................................................................126
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................130


Chƣơng 4: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT THU NHẬP
CỦA NGƢỜI NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM .....................132
4.1. Mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với việc kiểm soát thu nhập trong quá trình
thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam ..........................................132
4.1.1. Mục tiêu kiểm soát thu nhập trong quá trình thực thi pháp luật thuế thu nhập
cá nhân ở Việt Nam .................................................................................................132
4.1.2. Những yêu cầu cơ bản đối với việc kiểm soát thu nhập trong quá trình thực
hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam ..................................................133
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát thu nhập trong quá trình thực hiện
pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam ..........................................................136
4.2.1. Các giải pháp về phƣơng diện chính sách, pháp luật thuế thu nhập cá nhân và
kiểm soát thu nhập cá nhân .....................................................................................136
4.2.2. Các giải pháp về phƣơng diện tổ chức thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế trong quá trình thực thi pháp luật thuế
thu nhập cá nhân ở Việt Nam ..................................................................................151
Kết luận chƣơng 4 ...................................................................................................155
KẾT LUẬN .............................................................................................................156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau ba mƣơi năm đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế theo mô hình kinh tế
thị trƣờng định hƣớng XHCN, với phƣơng châm công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nƣớc cùng với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp, Việt Nam đã đạt đƣợc
những thành tựu to lớn, tạo nên hình ảnh đầy sức thuyết phục về một Việt Nam đổi
mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Đóng góp vào thành công chung đó, có một
phần không nhỏ từ công cuộc cải cách hệ thống thuế do Nhà nƣớc thực hiện. Các
sắc thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) nói riêng đã trở thành nguồn
thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo cơ
sở pháp lý để thực hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra. Trong tiến
trình cải cách hệ thống thuế, chính sách thuế TNCN đã ngày càng đƣợc cải tiến
theo hƣớng bao quát đối tƣợng nộp thuế, đối tƣợng chịu thuế, động viên hợp lý thu
nhập của dân cƣ, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo nguồn thu ngân
sách nhà nƣớc (NSNN) và góp phần kiểm soát thu nhập (KSTN) dân cƣ. Vai trò đó
càng đƣợc thể hiện rõ nét trong điều kiện hiện nay, khi kinh tế - xã hội phát triển,
đời sống của ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, phát sinh các dạng thu nhập từ
nhiều nguồn ngày càng phong phú và đa dạng.
Luật Thuế TNCN đƣợc Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007,
chính thức có hiệu lực từ 01/01/2009, đƣợc sửa đổi bổ sung một số điều năm 2012.
Quá trình này không chỉ đánh dấu sự hoàn thiện trong hệ thống pháp luật thuế mà
còn thể hiện bƣớc đổi mới quan trọng trong tƣ duy lập pháp ở Việt Nam theo
hƣớng ngày càng tiệm cận gần hơn với thông lệ quốc tế. Việc triển khai Luật thuế
TNCN vào thực tiễn cuộc sống đã bƣớc đầu góp phần kiểm soát đƣợc các nguồn
thu nhập của ngƣời dân, tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng có một công cụ
hữu hiệu để kiểm tra, kiểm soát thu nhập của dân cƣ. Thực tế áp dụng Luật Thuế

TNCN tại Việt Nam trong 6 năm qua cho thấy, để các quy định của pháp luật thuế
TNCN thực sự đi vào cuộc sống thì trƣớc hết các quy định của luật phải bắt nguồn
từ chính đời sống xã hội, phải có “hơi thở cuộc sống”. Trải qua hơn 6 năm thực
hiện, Luật thuế TNCN đã thu đƣợc những thành tựu và kết quả đáng khích lệ.
Trong công tác quản lý thuế, cơ sở dữ liệu quản lý thông tin ngƣời nộp thuế đã
đƣợc xây dựng. Số lƣợng ngƣời nộp thuế đƣợc cấp mã số thuế cá nhân cùng với số


2

tiền thuế TNCN thu đƣợc qua mỗi năm đều tăng cao [62], [95]. Về cơ bản, các
khoản thu nhập từ tiền công tiền lƣơng đã đƣợc kiểm soát… Tuy nhiên, hệ thống
thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay mới chỉ chủ yếu đánh thuế dựa trên thu nhập qua
bảng lƣơng của ngƣời lao động, trong khi thuế đánh trên vốn lại rất thấp [35].
Thực tế cho thấy, còn nhiều khoản thu nhập không phải là tiền lƣơng của
tầng lớp ngƣời giàu chƣa đƣợc kiểm soát hiệu quả để đánh thuế thu nhập cá nhân.
Điều này thể hiện rõ thông qua bản danh sách những ngƣời giàu nhất trên sàn
chứng khoán đƣợc công bố thƣờng niên ở Việt Nam lại không tƣơng thích với bản
danh sách do cơ quan quản lý thuế công bố về những ngƣời có đóng góp thuế
TNCN nhiều nhất [146]. Trên thực tế, tỷ lệ thất thoát NSNN do chƣa thể kiểm soát
đƣợc nguồn thu của cá nhân ngƣời nộp thuế TNCN vẫn còn không nhỏ. Dƣờng nhƣ
hiện nay các cơ quan chức năng ở Việt Nam mới chỉ có thể kiểm soát thu nhập
(KSTN) của những ngƣời làm công ăn lƣơng có thu nhập rõ ràng, ổn định thông
qua cơ quan chi trả thu nhập, còn một số lƣợng không nhỏ những cá nhân kinh
doanh ẩn thuế, tránh thuế do pháp luật thuế TNCN hiện tại mới chỉ có thể kiểm soát
đƣợc các khoản thu nhập trên bảng lƣơng (thu nhập danh nghĩa) mà chƣa thể kiểm
soát đƣợc tổng nguồn thu (thu nhập thực tế) của NNT. Thực tế này cho thấy hiện
đang tồn tại một khoảng trống lớn trong các quy định pháp luật về kiểm soát thu
nhập cá nhân (KSTNCN). Dù còn nhiều vấn đề gây tranh cãi xung quanh việc thực
thi đạo luật này nhƣng có lẽ việc KSTN của cá nhân ngƣời nộp thuế nhƣ thế nào để

khắc phục tình trạng trốn, lậu thuế, thông qua đó nhằm thu đúng, thu đủ số thuế
TNCN và đảm bảo công bằng giữa những ngƣời nộp thuế vẫn là vấn đề nổi cộm
nhất, cần đƣợc nghiên cứu một cách thấu đáo.
Một cách tổng quát, có thể khẳng định rằng “chìa khóa” quyết định thành
công trong thực thi pháp luật thuế TNCN ở mọi quốc gia trên thế giới chính là vấn
đề KSTN của cá nhân. Ở các nƣớc phát triển, do hầu hết các giao dịch dân sự, kinh
tế phát sinh trong đời sống kinh tế xã hội đều thực hiện thanh toán qua tài khoản
ngân hàng, hạn chế tối đa việc dùng tiền mặt nên vấn đề KSTN của cá nhân khá
thuận lợi và dễ dàng. Tuy nhiên, đối với một quốc gia mà ở đó tình trạng thanh
toán bằng tiền mặt trong các giao dịch dân sự, kinh tế vẫn còn phổ biến nhƣ Việt
Nam thì vấn đề KSTNCN sẽ trở lên khó khăn hơn rất nhiều. Đây chính là một
trong những “rào cản” lớn đối với quá trình thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt
Nam trong hiện tại cũng nhƣ tƣơng lai.


3

Những lý do nêu trên cho thấy sự cần thiết và cấp bách phải có những
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN, dƣới cả hai
giác độ lý luận và thực tiễn pháp lý. Xuất phát từ nhận thức nhƣ vậy, nghiên cứu
sinh cho rằng việc lựa chọn vấn đề “Kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế
trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” làm
đề tài luận án tiến sĩ là thực sự cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sinh tiến hành phân tích, đánh giá một cách toàn diện và có hệ
thống về mặt lý luận và thực tiễn những vấn đề pháp luật về KSTN của ngƣời nộp
thuế TNCN ở Việt Nam. Đƣa ra đƣợc những luận giải khoa học để xác định hƣớng
tiếp cận phù hợp đối với pháp luật về KSTNCN trong các hƣớng tiếp cận khác
nhau hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về KSTN của ngƣời nộp

thuế TNCN để từ đó tìm kiếm các giải pháp phù hợp hoàn thiện pháp luật về KSTN
của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về kiểm soát thu nhập
của ngƣời nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam;
- Đánh giá tính hiệu quả của các quy định hiện hành về kiểm soát thu nhập
cá nhân trong thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN thông qua việc phân tích
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN thời gian qua, trên
cơ sở so sánh, đối chiếu với kinh nghiệm KSTN của ngƣời nộp thuế theo pháp luật
một số nƣớc và từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cần thiết và hữu ích cho Việt
Nam trong điều kiện hiện tại;
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát thu nhập
của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam trên cả hai phƣơng diện: hoàn thiện cơ sở
pháp lý và tổ chức thực hiện pháp luật vì mục tiêu phòng, chống hiện tƣợng thất
thoát thuế, trốn thuế, lậu thuế TNCN, từ đó đảm bảo nguồn thu cho NSNN và đảm
bảo sự công bằng giữa những ngƣời nộp thuế ở Việt Nam.


4

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án tập trung nghiên cứu
các quan điểm lý luận về KSTN của ngƣời nộp thuế trong pháp luật thuế TNCN và
các quy định pháp luật có liên quan; các quy định pháp luật về KSTNCN của Việt
Nam và của một số quốc gia phát triển; thực tiễn pháp luật về KSTN của ngƣời nộp
thuế trong quá trình thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung nghiên cứu của đề tài luận án: Vấn đề kiểm soát thu nhập cá

nhân là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau nhƣ : kinh tế
học, tài chính học và luật học. Trong lĩnh vực luật học, vấn đề KSTNCN cũng là
đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành luật khác nhau nhƣ luật kinh tế; luật hành
chính công, công pháp quốc tế nghiên cứu về KSTN của ngƣời có chức vụ quyền
hạn gắn với mục tiêu phòng chống tham nhũng. Tiếp cận dƣới góc độ chuyên
ngành luật kinh tế, phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập trung vào các vấn đề chủ
yếu nhƣ: lý luận và thực tiễn về KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN; lý luận về điều
chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN và thực
trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện các quy định này ở Việt Nam.
Về không gian thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài: các vấn đề cần triển
khai nghiên cứu của luận án đƣợc giới hạn chủ yếu trong phạm vi lãnh thổ Việt
Nam, ngoại trừ một số nghiên cứu có liên quan đến quy định về KSTN cá nhân ở
nƣớc ngoài.
Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về KSTN
của ngƣời nộp thuế hiện hành, qua đó làm cơ sở đánh giá chính xác thực trạng pháp
luật về KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận
Đề tài luận án đƣợc triển khai nghiên cứu từ cách tiếp cận là một công trình
nghiên cứu khoa học có tính ứng dụng. Vì vậy, các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc
áp dụng chủ yếu nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là làm rõ cơ sở lý thuyết của việc
áp dụng các biện pháp kiểm soát thu nhập cá nhân trong quá trình thực hiện pháp
luật thuế TNCN, từ đó xây dựng các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực


5

kiểm soát thu nhập cá nhân của ngƣời nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu

Là một đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học pháp lý và có tính ứng
dụng, để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu đề tài đặt ra, NCS đã sử dụng phối hợp các
phƣơng pháp nghiên cứu phù hợp với yêu cầu của đề tài nhƣ: phƣơng pháp hệ
thống hóa; tiếp cận lịch sử; phân tích, tổng hợp khái quát hóa; diễn dịch và quy
nạp; so sánh, đối chiếu pháp luật; khảo sát thống kê… Các phƣơng pháp này đƣợc
vận dụng để nghiên cứu làm rõ từng nội dung cụ thể, nhằm đạt đƣợc những nhiệm
vụ đã xác định của luận án. Cụ thể là:
- Phƣơng pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, tổng hợp và khái quát hóa; diễn
dịch và quy nạp… đƣợc sử dụng để giải quyết các vấn đề có tính lý luận về KSTN
của ngƣời nộp thuế TNCN và điều chỉnh pháp luật về KSTN của ngƣời nộp thuế
thu nhập cá nhân;
- Phƣơng pháp hệ thống hóa, phân tích bình luận, so sánh đối chiếu pháp
luật và khảo sát, thống kê… đƣợc sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật về
KSTN và thực tiễn thực hiện việc KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam, từ
đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật cũng nhƣ các khó khăn vƣớng mắc
trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam;
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa đƣợc sử dụng để xây
dựng định hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp
thuế trong quá trình thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Là công trình nghiên cứu về một chủ đề mới và chuyên sâu của khoa học
pháp lý, luận án có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn nhƣ sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận, Luận án đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận
về KSTN của NNT trong quá trình thực hiện pháp luật thuế TNCN nhƣ: (i) xây
dựng đƣợc khái niệm về KSTNCN bao quát đầy đủ các dấu hiệu cũng nhƣ phƣơng
thức thực hiện của KSTNCN; (ii) Nhận diện và làm rõ những vấn đề thuộc bản chất
pháp lý về KSTNCN; (iii) Nhận diện và xác định rõ pháp luật về KSTN của ngƣời
nộp thuế TNCN là một bộ phận quan trọng cấu thành của pháp luật quản lý thuế



6

TNCN; Nhận diện và làm rõ các bộ phận cấu thành pháp luật về KSTNCN; (iv)
Nhận diện và chỉ rõ các phƣơng thức KSTNCN của NNT ở Việt Nam; (v) Làm rõ
các yếu tố chi phối, tác động đến pháp luật về KSTNCN của NNT trong quá trình
thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam;
Thứ hai, về mặt thực tiễn, luận án chỉ ra những thành tựu đạt đƣợc trong
thực tiễn KSTNCN của ngƣời nộp thuế ở Việt Nam; làm rõ những bất cập, hạn chế
trong thực tiễn KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam và chỉ ra những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các hạn chế đó. Đây là cơ sở thực tiễn cho việc đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về KSTNCN của NNT ở Việt Nam phù hợp
với điều kiện thực tiễn trong nƣớc;
Thứ ba, luận án đề xuất đƣợc định hƣớng và các giải pháp cụ thể cho việc
hoàn thiện pháp luật về KSTN của ngƣời nộp thuế phù hợp với điều kiện thực tiễn
ở Việt Nam; đảm bảo yêu cầu kiểm soát nguồn thu và chống thất thoát thuế. Các
giải pháp này tập trung vào các vấn đề trọng tâm nhƣ: ban hành một đạo luật riêng
về kiểm soát thu nhập cá nhân; áp dụng biện pháp kiểm soát thu nhập của NNT
thông qua tài khoản cá nhân duy nhất tại ngân hàng gắn liền với MST cá nhân
NNT; KSTNCN thông qua quy định hạn mức thanh toán bằng tiền mặt và
TTKDTM; KSTNCN thông qua khấu trừ tại nguồn tại đơn vị chi trả thu nhập;
KSTNCN thông qua hệ thống quản lý thông tin dữ liệu NNT tập trung; KSTNCN
thông qua quy định nghĩa vụ giải trình và chứng minh thu nhập đối với cá nhân
ngƣời nộp thuế…
Thứ tư, những phát hiện, đóng góp mới của luận án còn thể hiện ở chỗ, đây
cũng là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ luận án tiến sĩ Luật học nghiên cứu
một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN ở
Việt Nam cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn pháp lý.
Thứ năm, các kết quả nghiên cứu và kết luận khoa học trong luận án có thể
coi là nguồn tƣ liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong hoàn thiện pháp

luật về KSTNCN ngƣời nộp thuế ở Việt Nam.


7

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án đƣợc
thiết kế gồm 4 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế
thu nhập cá nhân và pháp luật về kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập
cá nhân.
Chƣơng 3: Thực trạng kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế trong quá
trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
Chƣơng 4: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát thu nhập của ngƣời
nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.


8

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc liên quan đến đề tài luận án
Trên thế giới, thuế TNCN là một trong những loại thuế xuất hiện từ khá sớm
(năm 1797 ở Hà Lan). Trong lịch sử tồn tại lâu dài của mình, có rất nhiều nghiên
cứu về thuế và pháp luật thuế TNCN đã đƣợc công bố. Tuy nhiên, những công trình
có đề cập trực tiếp đến vấn đề KSTNCN thì không nhiều. Ở mức độ khái quát, có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu liên quan đến việc thực hiện pháp luật thuế
TNCN và KSTNCN trong thực thi pháp luật thuế TNCN nhƣ sau:

Các nghiên cứu về thực trạng thuế thu nhập cá nhân
Năm 2004, các tác giả Hugh J.Ault, Boston College Law School &Brian
J.Arnold, Goodmans, LPP, Toronto là chủ biên đã công bố cuốn sách: Phân tích cơ
cấu thuế thu nhập dưới góc độ so sánh” (tên nguyên bản bằng tiếng Anh:
Comparative Income Taxation: A Structural Analysis. Đây là công trình nghiên cứu
một cách hệ thống, chuyên sâu về thuế thu nhập cá nhân do những chuyên gia hàng
đầu về chính sách thuế của các trƣờng đại học và học viện uy tín trên thế giới nhƣ:
Harvard Law School, Boston College Law School, University of Pari II, University
of Cambridge… [168]. Bằng việc nghiên cứu phân tích, so sánh nội dung, cấu trúc
thuế thu nhập cá nhân của 9 nƣớc có nền kinh tế phát triển có những đặc điểm
chung trong quá trình xây dựng luật thuế thu nhập, các tác giả đã phân tích, so sánh
và bình luận về các giải pháp khác nhau đƣợc đƣa ra bởi các quốc gia nói trên trong
việc xây dựng và thực hiện thuế thu nhập với mục đích kiểm soát nguồn thu và đảm
bảo công bằng giữa những NNT. Cuốn sách có giá trị tham khảo rất lớn trong việc
nghiên cứu hoàn thiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam.
Năm 2006, tác giả Bert Brys and Christopher Heady thuộc Trung tâm nghiên
cứu chính sách và quản lý thuế OECD đã công bố cuốn sách “Cải cách cơ bản thuế
thu nhập cá nhân ở các nước OECD: những xu hướng và kinh nghiệm mới nhất,
(tên nguyên bản bằng tiếng Anh: Fundamental reform of personal income tax in
OECD countries: trends and recent experiences). Công trình này nghiên cứu xem
xét các xu thế hiện nay trong hệ thống thuế TNCN của các nƣớc thành viên tổ chức


9

OECD. Đóng góp của công trình nghiên cứu này đƣợc thể hiện ở chỗ: (i) công trình
nghiên cứu đã đƣa ra cái nhìn đa chiều về chính sách thuế TNCN dƣới hình thức so
sánh thuế TNCN của một số nƣớc; (ii) chỉ ra xu hƣớng đánh thuế TNCN gần đây của
các nƣớc OECD và chỉ ra mục tiêu chính của việc cải cách thuế hiện nay của một số
nƣớc thuộc OECD đó là kiểm soát nguồn thu, tạo nguồn thu cho ngân sách, đảm bảo

công bằng trong thuế TNCN...; (iii) chỉ rõ cải cách thuế là vấn đề phức tạp để đáp ứng
đƣợc yêu cầu kiểm soát nguồn thu nhập và công bằng trong thuế TNCN [162].
Năm 2005, tác giả Luis Fernando Wasilewki - NCS tại Đại học Quốc Gia
Yokohama đã công bố công trình nghiên cứu có tên gọi: “Các phân tích dưới góc
độ kinh tế về thuế thu nhập cá nhân của Nhật Bản” (tên nguyên bản tiếng Anh là
Economic Analysis of The Japanese Individual Income Tax).
Tiếp cận dƣới góc độ kinh tế, những đóng góp chủ yếu của công trình này
thể hiện ở chỗ: (i) tác giả đã tập trung phân tích về thuế TNCN của Nhật Bản, khẳng
định vai trò của biện pháp khấu trừ tại nguồn luôn chiếm một phần quan trọng trong
tổng số thu về thuế TNCN và chiếm tỷ lệ 82%; (ii) tác giả đã đề xuất: các ƣu đãi về
thuế đối với thu nhập từ vốn nên dần đƣợc bãi bỏ; điều chỉnh mức thuế suất đƣợc
xem nhƣ một cách khôi phục lại vai trò của Luật thuế TNCN Nhật Bản với vai trò là
một công cụ nhằm điều tiết lại thu nhập dân cƣ, KSTN cá nhân, giảm xói mòn
thuế…[173]; (iii) tác giả đƣa ra lập luận rằng hệ thống hợp tác trong thu thuế TNCN
của Nhật Bản là một ví dụ về cách hợp tác có thể làm giảm bớt gánh nặng cho NNT
và tăng hiệu quả kiểm soát thu thuế.
Đóng góp quan trọng nhất về mặt khoa học của nghiên cứu này là ở chỗ, các
tác giả đã chỉ ra biện pháp khấu trừ tại nguồn luôn là một trong những biện pháp
KSTNCN hiệu quả không chỉ với Nhật bản mà còn với các quốc gia khác.
Các nghiên cứu về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Một số công trình đề tài đã tập trung nghiên cứu về các khía cạnh trong quản
lý thuế TNCN, trong đó nội dung ít nhiều có đề cập đến vấn đề quản lý, KSTN
trong thực thi pháp luật thuế TNCN. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau:
Năm 1987, hai tác giả VitoTanzi and Milka Casanegra de Jantscher thuộc
IMF đã công bố nghiên cứu: “Đánh thuế thu nhập hợp lý – các phương diện quản
lý, hiệu quả và công bằng” (tên nguyên bản bằng tiếng Anh: Presumptive Income
Taxation-Administrative, Efficiency and Equity Aspects).


10


Tiếp cận dƣới góc độ tài chính công, nghiên cứu này đã đánh giá thu nhập
trên cơ sở các chỉ số hiệu quả, trong đó kết quả nghiên cứu khẳng định phương
pháp thuế thu nhập khoán được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước. Các tác giả lập luận
rằng cần sự chú ý nhiều hơn tới các tác động hiệu quả của phƣơng pháp thuế khoán
[180]. Đóng góp của nghiên cứu này đƣợc thể hiện qua phân tích những hệ quả tích
cực do việc áp dụng hình thức thuế khoán mang lại cho cơ quan quản lý thuế ở các
quốc gia. Với NCS khi nghiên cứu đề tài luận án thì phƣơng pháp thuế thu nhập
khoán đƣợc cho là một trong những giải pháp hỗ trợ trong công tác KSTN của
ngƣời nộp thuế thu nhập cá nhân.
Năm 1992, các tác giả Richard M.Bird và Milka Casanegra de Jantscher thuộc
IMF đã công bố nghiên cứu: “Hoàn thiện quản lý thuế ở các nước đang phát triển”
(tên nguyên bản tiếng Anh: Improving Tax Administration in Developing Countries.
Nghiên cứu về xu hƣớng phát triển cải cách chính sách thuế, chú trọng tới các quy
định hành chính thuế, kết quả cải cách thuế ở một số nƣớc (Bolivia, Uruguay,
Colombia, Trinidat…), đề xuất giải pháp phù hợp đối với NNT, đƣa ra các khuyến
nghị nhằm cải thiện sự tuân thủ của NNT qua đó góp phần kiểm soát thu nhập của
NNT [177].
Năm 1990, các tác giả Richard M.Bird và Oliver Oldman biên soạn và công
bố cuốn sách: “Thuế ở các nước đang phát triển” (tên nguyên bản tiếng Anh: Tax
in Developing Countries) ấn bản lần 4, NXB Johns Hopkins phát hành năm 1990.
Tại chƣơng 36 về “cải thiện tuân thủ thuế”, nghiên cứu này đã góp phần khẳng
định:“trốn thuế không chỉ là vấn đề hạn chế trong một số ít các quốc gia kém phát
triển; và những khảo sát trước đó đã cho thấy tình trạng chỉ thu được một nửa hay
ít hơn số thuế thu nhập tiềm năng không phải là tình trạng cá biệt. Tại nhiều nước,
người ta đã nghe nhiều đến vấn đề có vô số những người giàu có - các nhà buôn,
các nhà chuyên môn... lại hoàn toàn nằm ngoài phạm vi quản lý của thuế thu nhập.
Mặt khác, nghiên cứu còn cho thấy rằng vấn đề trốn thuế của những ngƣời hoàn
toàn không đƣợc hệ thống thuế biết đến thì ít hơn so với những ngƣời nằm trong hệ
thống thuế nhƣng lại kê khai thu nhập một cách nhạo báng. Trong trƣờng hợp này,

biện pháp chế ngự mà các tác giả đƣa ra không phải là tiếp tục bổ sung thêm tên tuổi
của những ngƣời này vào danh sách đóng thuế, mà đúng hơn là cần phải ra sức cải
thiện sự tuân thủ của những ngƣời hiện đang là“người đóng thuế danh nghĩa” [178].


11

Đóng góp về mặt khoa học của nghiên cứu này là ở chỗ, các tác giả đã chỉ ra
thực trạng chung ở các nƣớc, đó là tình trạng ngƣời nộp thuế mới chỉ đóng thuế dựa
trên thu nhập danh nghĩa, còn cơ quan thuế vẫn chƣa thể xác định đƣợc thu nhập
thực tế của họ để đánh thuế. NCS cho rằng việc cải thiện sự tuân thủ thuế của những
NNT là một việc làm rất quan trọng giúp NNT kê khai đúng số thuế phải nộp, qua
đó tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý thuế trong việc KSTNCN. Lý thuyết này cũng
tạo cơ sở lý luận giúp cho NCS nghiên cứu những nội dung thuộc về bản chất pháp
lý của vấn đề KSTCN.
Các nghiên cứu về kiểm soát thu nhập cá nhân của ngƣời nộp thuế
Về vấn đề kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế thu nhập cá nhân, đã có
một số công trình tiêu biểu nhƣ:
Năm 2006, tác giả Stephan Vasak ESQ đã công bố cuốn sách có tiêu đề:
Phân tích và Kiến nghị cho Cộng hòa Latvia “Chế độ kiểm soát thu nhập đối với
công chức và tự nhiên nhân” (tên nguyên bản bằng tiếng Anh: Analysis and
Recomendations for The Republic of Latvia Income control system for public
officials and natural persons) tác giả Stephan Vasak ESQ, 6/2006; với các tiếp cận
từ phƣơng diện pháp luật hành chính công. Đây là công trình nghiên cứu thuộc
nhóm dự án cải cách chính sách thuế do Ngân hàng thế giới World Bank tài trợ. Tác
phẩm này là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của tác giả, trong vai trò
là một luật sƣ cao cấp về thuế với những đóng góp rất lớn nhƣ: (i) tác giả đã đi sâu
phân tích, đánh giá về thực trạng cơ chế kiểm soát thu nhập cá nhân ở Latvia (các
chƣơng III về kiểm soát thu nhập của các quan chức, chƣơng V về khai báo thu
nhập và kê khai tài sản thu nhập, chƣơng VI về kiểm soát thu nhập của các cá

nhân); (ii) đƣa ra những khuyến nghị cho việc điều chỉnh cơ chế KSTN của ngƣời
dân nƣớc Cộng hoà Latvia. Do đƣợc tiếp cận nghiên cứu dƣới phƣơng diện pháp
luật hành chính công nên nhiều vấn đề pháp lý về KSTNCN đƣợc tác giả tập trung
phân tích kỹ, có chất lƣợng và giá trị tham khảo, với nhiều bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam khi hoàn thiện pháp luật về KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN [179].
Năm 2005, tác giả Anita Brauna đã công bố bài báo “Kiểm soát thu nhập của
các cá nhân ở Lát-vi-a”, đƣợc đăng trên trang: www.policy.lv, tháng 3 năm 2005
(tên nguyên bản bằng tiếng Anh: Controlling the income of individuals in Latvia)
của tác giả, 3/2005 [161]. Bài viết “Kiểm soát thu nhập đối với các cá nhân ở Lát-


12

vi-a” đã phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát thu nhập ở nƣớc Cộng hoà
Latvia trƣớc và sau khi Quốc hội và Chính phủ nƣớc này đặt dƣới sự hỗ trợ về kỹ
thuật của Ngân hàng thế giới WB, quyết định ban hành Luật về kiểm soát thu nhập
đối với công dân của nƣớc mình.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy trƣớc đó (từ 2005 trở về trƣớc) Nhà nƣớc
hoàn toàn không kiểm soát đƣợc thu nhập của dân cƣ, đặc biệt là thu nhập của các
quan chức. Tiếp cận dƣới góc độ pháp lý, những đóng góp của nghiên cứu này trong
lý luận pháp lý về kiểm soát thu nhập cá nhân đƣợc thể hiện ở chỗ, tác giả đã chỉ ra
các nguyên nhân dẫn đến việc kiểm soát thu nhập cá nhân thiếu hiệu quả là, chẳng
hạn nhƣ: (i) Do cơ quan quản lý thuế (SRS) không có thẩm quyền kiểm soát và áp
đặt thuế, nộp thuế, phạt thuế đối với những ngƣời kê khai không trung thực, trốn
thuế trong thời hạn 3 năm; (ii) Do các cá nhân không phải nộp tờ khai thuế và cũng
không có nghĩa vụ phải lƣu giữ tất cả các tài liệu, chứng từ chứng minh thu nhập;
(iii) Việc các cá nhân chỉ kê khai các giao dịch và tiết kiệm bằng tiền mặt là không
đủ; (iv) Các biện pháp trừng phạt đối với hành vi trốn thuế, kê khai không trung
thực đƣợc phát hiện là quá khoan dung; (v) Thiếu các giả định pháp lý đối với tình
huống phát sinh thuế; các cá nhân không có nghĩa vụ phải chứng minh tính hợp

pháp đối với thu nhập của mình.
Tuy nhiên, kể từ khi ban hành Luật về kiểm soát thu nhập cùng với các đề
xuất: mở rộng quyền của cơ quan thuế trong việc KSTN cá nhân; quy định nghĩa vụ
khai thuế hàng năm bắt buộc; đặt ra quy định bắt buộc khai thu nhập đối với những
cá nhân có thu nhập ở một ngƣỡng nhất định (từ 10.000 LATS hoặc các khoản tiết
kiệm từ 5.000 LATS trở lên) thì tình trạng này đã từng bƣớc đƣợc khắc phục. Cơ
quan quản lý thuế đã kiểm soát đƣợc thu nhập của một bộ phận lớn dân cƣ Latvia.
Kết quả nghiên cứu là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích giúp NCS trong quá trình
nghiên cứu về thực trạng KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam, đặc biệt
trong việc nghiên cứu các biện pháp KSTN của ngƣời nộp thuế.
Qua nghiên cứu các công trình khoa học nƣớc ngoài đƣợc công bố, NCS
nhận thấy, trong chừng mực nhất định, các bài viết nêu trên đã nghiên cứu chuyên
sâu về thực trạng quản lý thuế TNCN và đề cập tới một số khía cạnh của vấn đề
kiểm soát nguồn thu nhập của ngƣời nộp thuế TNCN. Tuy nhiên, hầu hết các
nghiên cứu mang tính lý luận pháp lý về vấn đề KSTNCN đều đƣợc tiếp cận dƣới


13

góc độ pháp luật hành chính công và công pháp quốc tế với mục đích nhằm ngăn
chặn các nguồn thu nhập bất hợp pháp.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc liên quan đến đề tài luận án
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thuế TNCN, quản lý thuế TNCN và
các vấn đề liên quan đã đƣợc công bố khá nhiều, đặc biệt là từ thời điểm ban hành
Luật thuế TNCN, góp phần đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi các
quy định của Luật thuế này trong cuộc sống. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu có
nội dung đề cập đến vấn đề quản lý thu thuế, KSTN của ngƣời nộp thuế thì chƣa
nhiều. Một cách khái quát, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên
quan đến đề tài này ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
Các nghiên cứu về thực trạng thuế thu nhập cá nhân

Năm 2002, các tác giả Lê Văn Ái, Đỗ Đức Minh đã công bố cuốn sách
chuyên khảo về “Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở
Việt Nam” do NXB. Tài chính, Hà Nội phát hành [51]. Trong nghiên cứu này, các
tác giả đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về thuế TNCN trong nền kinh
tế thị trƣờng, phân tích quy định thuế TNCN của một số nƣớc trên thế giới và kinh
nghiệm áp dụng ở Việt Nam, đƣa ra những đánh giá thực trạng áp dụng và định
hƣớng áp dụng thuế TNCN. Có thể nói, đây là tài liệu đầy đủ nhất có liên quan đến
thuế TNCN. Tuy nhiên, do các nghiên cứu đƣợc thực hiện trƣớc khi Luật Thuế
TNCN năm 2007 ban hành nên trong phần đánh giá và kiến nghị, các tác giả chủ
yếu đánh giá và định hƣớng về pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập
cao. Mặt khác, do các nghiên cứu đƣợc tiếp cận từ góc độ kinh tế khi đánh giá tính
hiệu quả của thuế TNCN nên hầu nhƣ không có những đánh giá về khía cạnh pháp
luật, do đó cũng không đƣa ra đƣợc những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật
về thuế TNCN nhằm KSTNCN của ngƣời nộp thuế dƣới góc độ pháp lý.
Năm 2006, trƣớc những thảo luận sôi nổi trong giới học thuật nhằm góp ý cho
dự thảo luật thuế TNCN đƣợc đƣa ra lấy ý kiến ở Việt Nam; các tác giả Shigeki
Kunieda (Đại học Hitotsubashi) và Đỗ Ngọc Huỳnh (Bộ Tài chính) đã nghiên cứu và
công bố công trình có tên gọi:“Vietnamese Personal Income Tax Reform”(Cải cách
thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam). Nghiên cứu này đã đánh giá tình hình cải cách
thuế TNCN ở Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để đề xuất đề cƣơng cho
một chính sách thuế thu nhập hiện đại áp dụng tại Việt Nam trong giai đoạn trung và


14

dài hạn. Chính sách thuế TNCN trong nghiên cứu này cũng đƣợc thiết kế nhằm tập
trung chủ yếu vào tính đơn giản và khả thi trong bao quát nguồn thu nhập chịu thuế.
Do tiếp cận nghiên cứu dƣới góc độ kinh tế với mục đích đánh giá chính sách thuế
TNCN nên đề tài đã không đƣa ra đƣợc các kiến nghị xây dựng pháp luật thuế thu
nhập cá nhân.

Năm 2007, các tác giả Nguyễn Thị Thủy và Nguyễn Phƣơng Nam, công bố
bài báo “Vận dụng nguyên tắc công bằng trong ban hành thuế thu nhập cá nhân”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2/2007. Trong bài viết này, các tác giả đã
đƣa ra những kiến nghị về quản lý thuế TNCN nhằm đảm bảo công tác hành thu
nhƣ khấu trừ tại nguồn, sửa đổi một số quy định về giảm trừ gia cảnh, mức khởi
điểm chịu thuế… tại dự thảo Luật thuế TNCN năm 2007. Mặc dù trong bài viết các
tác giả đã đề cập đến việc thực hiện khấu trừ tại nguồn nhƣ là một trong những biện
pháp nhằm KSTN, tuy nhiên nghiên cứu này chỉ dừng lại ở phân tích các nội dung
của dự thảo Luật thuế TNCN 2007 mà chƣa nêu đƣợc những mặt tích cực và hạn
chế của biện pháp khấu trừ tại nguồn trong hoạt động KSTN cá nhân.
Năm 2007, tác giả Trần Vũ Hải với bài báo “Thực trạng pháp luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” đăng trên Tạp chí Luật học
số 10/2007 đã đƣa ra nhận định, việc quản lý thu nhập của cá nhân ngƣời nộp thuế
hiện nay còn nhiều hạn chế, do đó cơ quan thuế hầu nhƣ không có khả năng kiểm
soát tốt TNCN dẫn đến tình trạng thất thoát thuế, trốn thuế, lậu thuế ở nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực. Tác giả cũng đã chỉ ra đƣợc một trong những nguyên nhân cơ bản
dẫn tới việc KSTNCN còn nhiều hạn chế là do hiện nay ở nƣớc ta chƣa có một hệ
thống các quy định pháp lý cần thiết để minh bạch thu nhập. Tuy nhiên, do bài viết
chỉ đánh giá thực tiễn thi hành và chỉ ra những hạn chế của thuế TNCN đối với
ngƣời có thu nhập cao (đã hết hiệu lực), do vậy đến nay các kiến nghị này không
còn nhiều ý nghĩa về mặt thực tiễn [77]; [109].
Các nghiên cứu “Những vấn đề đặt ra khi thực hiện Luật Thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thu Thủy đăng trên tạp chí Luật học tháng
4/2009 “Luật thuế thu nhập cá nhân với việc đánh trùng và bỏ lọt thuế”, của Đào
Ngọc Báu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18, 9/2009; Trần Minh Đức, “Cơ sở xác
định thu nhập chịu thuế trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân dưới góc độ công
bằng”,Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật, số 2/2012; Hà Hƣơng Lan (2012) “Luật thuế


15


thu nhập cá nhân, kết quả 3 năm, bất cập và giải pháp” tạp chí Tài chính; Tạp chí
Tài chính số (19/6/2012) “Đánh giá luật thuế thu nhập cá nhân sau 3 năm thực
hiện”; Lê Thị Kim Nhung, (2011) “Thuế thu nhập cá nhân sau 2 năm thực hiện:
một số bất cập nảy sinh và hướng giải quyết”, Tạp chí Ngân hàng số 4/2011;
Nguyễn Anh Phong (2012), “Cơ sở xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân tối ưu”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19/2012; Lê Xuân Trƣờng (2012), “Sửa đổi Luật
thuế thu nhập cá nhân phù hợp với yêu cầu thực tiễn”, Tạp chí Tài chính, số
5/2012; Nguyễn Thị Cúc (2012) “Sửa đổi bổ sung Luật thuế thu nhập cá nhân: thực
tiễn và một số kiến nghị”, Tạp chí Tài chính 5/2012; Lê Thị Thu Thuỷ,“Luật thuế
thu nhập cá nhân: những bất cập và hướng hoàn thiện”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 19/2012. Các nghiên cứu nêu trên đều đƣợc tiếp cận dƣới góc độ pháp lý
luật kinh tế để phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thuế TNCN ở
Việt Nam [49];[29];[107];[36];[47];[59];[53];[50];[68]. Đứng trƣớc yêu cầu cần
phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung của luật thuế TNCN 2009 sau gần 3 năm có
hiệu lực, trong các nghiên cứu này các tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá và
chỉ ra các ƣu điểm và bất cập của các quy định trong Luật thuế TNCN về mặt nội
dung cũng nhƣ khi đƣa vào thực tiễn trong suốt thời gian thực hiện luật thuế TNCN
ở Việt Nam để từ đó đƣa ra các nhận xét: Việc thực hiện luật thuế TNCN đã tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý thu, tuy nhiên bên cạnh những thành
công bƣớc đầu đƣợc ghi nhận thì việc thực hiện luật thuế này trên thực tế đã nảy
sinh nhiều bất cập cần có điều chỉnh kịp thời nhƣ nhƣ: chƣa kiểm soát đƣợc nguồn
hình thành thu nhập của từng cá nhân do nguồn hình thành TNCN quá đa dạng và
phức tạp, mức giảm trừ gia cảnh chƣa thực sự phù hợp, bỏ sót nhiều diện thu nhập
chịu thuế và hiện tƣợng tiêu cực và bất công trong việc nộp thuế TNCN vẫn chƣa
đƣợc xử lý triệt để, làm ảnh hƣởng đến tính hiệu quả thực tế và công bằng của Luật
thuế, gây một số bức xúc đối với cá nhân NNT. Thực tế này đang đòi hỏi một sự
sửa đổi từ các cơ quan ban hành chính sách. Các nghiên cứu này đều đƣợc tiếp cận
dƣới góc độ khoa học pháp lý đã góp phần chỉ rõ thực trạng thuế TNCN ở Việt Nam
từ những thành công bƣớc đầu trong thực tiễn thực hiện Luật thuế TNCN cho đến

những tồn tại hạn chế cần khắc phục. Những đóng góp của các nghiên cứu này về
KSTNCN thể hiện trong việc chỉ rõ: (i) những thành tựu trong kiểm soát thu thuế
biểu hiện qua số lƣợng MST đƣợc cấp; thu nhập từ tiền lƣơng tiền công cơ bản đã


16

đƣợc kiểm soát; và những hạn chế, bất cập: (ii) do pháp luật thuế chƣa bao quát
nguồn thu do nguồn thu nhập đƣợc hình thành đa dạng, phức tạp cho nên thực tế
việc KSTNCN ở Việt Nam chƣa đƣợc thực hiện hiệu quả, còn nhiều thu nhập thuộc
diện kiểm soát bị bỏ sót; chƣa kiểm soát đƣợc các thu nhập của cá nhân kinh doanh,
hành nghề độc lập, các thu nhập vãng lai; ngƣời có thu nhập từ nhiều nguồn; thu
nhập từ chuyển nhƣợng BĐS chƣa thể kiểm soát…Các kết quả nghiên cứu trên đây
dù chƣa đề cập trực tiếp đến vấn đề KSTNCN nhƣng các nghiên cứu đã bƣớc đầu
góp phần phác họa lên thực trạng KSTNCN trong quá trình thực hiện pháp luật thuế
TNCN, nhiều kết quả nghiên cứu đƣợc NCS kế thừa và phát triển trong quá trình
viết luận án mặc dù mới chỉ mang tính khái quát những vấn đề cơ bản nhất về
KSTNCN. Mặt khác những nghiên cứu này cũng góp phần gợi mở hƣớng nghiên
cứu sâu hơn, toàn diện hơn về vấn đề KSTNCN cho bản thân NCS và các nghiên
cứu tiếp theo về vấn đề này trong tƣơng lai.
Ngoài những công trình tiêu biểu kể trên, còn có nhiều khảo cứu khác liên
quan đến thuế thu nhập cá nhân nhƣng hầu hết các công trình này đều không đề cập
hoặc bàn sâu về vấn đề kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế trong quá trình thực
thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Các nghiên cứu về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Năm 2008, nghiên cứu hệ thống thuế TNCN ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu
John Brondolo, Kiyoshi Nakayama, Frank Bosch, Allan Foubister và Judy Tomaso
thuộc Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF đã cho ra mắt Báo cáo “Việt Nam thực hiện thuế thu
nhập cá nhân”. Báo cáo này đã mô tả cách tiếp cận hiện hành của cơ quan thuế Việt
Nam đối với việc quản lý thuế TNCN. Báo cáo cũng mô tả các quy trình chung về

quản lý thuế TNCN. IMF cho rằng hệ thống thuế có thể đạt được mức độ cao về tuân
thủ thuế TNCN với chi phí tương đối thấp thông qua việc kiểm soát hiệu quả việc
khấu trừ thuế trên tiền lương của các cơ quan chi trả và một hệ thống nộp tờ khai
thuế hạn chế [172]. Đóng góp của nghiên cứu này thể hiện thông qua đề xuất cần
phải kiểm soát hiệu quả thu nhập từ tiền lƣơng, tiền công đƣợc thực hiện bằng việc
khấu trừ tại nguồn và cần thiết kế một hệ thống thuế có thể đạt đƣợc mức độ cao về
tuân thủ thuế TNCN. Tuy nhiên kết quả công trình này mới chỉ đƣa ra những gợi mở
cho việc nghiên cứu một trong những biện pháp KSTNCN dƣới góc độ quản lý thuế
mà chƣa đề cập trực tiếp đến những vấn đề pháp lý về KSTNCN của NNT.


17

Năm 2007, tác giả Kevin Holmes đã công bố một nghiên cứu khoa học với
tên gọi: “Quản lý Luật thuế thu nhập cá nhân mới”. Báo cáo khoa học này khuyến
nghị cơ quan thuế cần đƣa ra đƣợc một chiến lƣợc quản lý thuế toàn diện và dài hạn
dựa trên cơ sở ban đầu khuyến khích NNT tuân thủ và sau đó tăng tỉ lệ tuân thủ.
Chiến lƣợc quản lý thuế cần đảm bảo trên sự tuân thủ dễ dàng của NNT [43]. Công
trình này đã có những đóng góp đáng ghi nhận trong việc tiếp cận và nghiên cứu
những vấn đề pháp lý về KSTNCN. Đây cũng là một trong số ít công trình đề cập
đến nhiều các khía cạnh của KSTNCN tiếp cận dƣới góc độ luật quản lý thuế với
các biện pháp KSTNCN đƣợc đề cập: (i) đăng ký thuế và cấp MST cho NNT; (ii)
khấu trừ thuế tại nguồn bởi chủ lao động; (iii) kê khai và tính thuế hàng năm của
NNT; (iv) cơ chế thu thuế, kiểm tra kê khai, khiếu nại, vi phạm và xử phạt… Đây là
nguồn tham khảo hữu ích cho NCS trong việc phân tích những vấn đề thuộc về bản
chất pháp lý của KSTNCN.
Năm 2011, Ngân hàng Thế giới (WB) khi tham gia xây dựng một dự án hỗ
trợ kỹ thuật 5 năm cho Tổng cục Thuế Việt Nam nhằm mục đích phân tích chính
sách thuế và Luật Quản lý Thuế, đề xuất cải tiến các quy trình nghiệp vụ thuế, thực
hiện hệ thống quản lý thuế tích hợp và mạng tin học đi kèm. Nhóm nghiên cứu

Gangadha Prasad Shukla, Phạm Minh Đức, Michael Engelschalk, Lê Minh Tuấn
của WB đã cho ra mắt công trình “Cải cách Thuế ở Việt Nam: Hướng tới một hệ
thống hiệu quả và công bằng hơn” [181]. Nghiên cứu này đánh giá chính sách của
Việt Nam đã đƣợc hiện đại hóa theo xu hƣớng toàn cầu và khu vực, hỗ trợ hiệu quả
cho việc tuân thủ thuế của khu vực tƣ nhân. Cải cách cơ bản về cơ cấu tổ chức quản
lý thuế đã đƣợc thực hiện, những chức năng hoạt động chính đã đƣợc hiện đại hóa,
và các dịch vụ và hỗ trợ ngƣời nộp thuế đã giúp tăng cƣờng sự tuân thủ tự nguyện
với hệ thống thuế và giảm các chi phí tuân thủ. Đóng góp của nghiên cứu này là đề
xuất cải tiến các quy trình nghiệp vụ thuế, thực hiện hệ thống quản lý thuế tích hợp
và mạng tin học đi kèm, góp phần hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin ngƣời nộp thuế
tập trung trong công tác kiểm soát thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
Tác giả Vũ Văn Cƣơng với các công trình nghiên cứu đƣợc công bố liên
quan đến vấn đề quản lý thuế trong đó có một số nội dung đề cập tới vấn đề kiểm
soát thu thuế gồm: “Thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế ở
nước ta hiện nay” đăng trên Tạp chí Luật học, Số 4 (2009); và “Phương pháp quản


18

lý mới trong quản lý thuế ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận số 9,
2006; cùng Luận án Tiến sĩ Luật học “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2012, Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội. Trong các nghiên cứu này, tác giả không chỉ nêu bật tầm quan trọng
của thông tin về ngƣời nộp thuế trong quản lý thuế mà còn khẳng định nền tảng của
quản lí thuế hiện đại chính là hƣớng đến và phát huy cao nhất tính tự giác tuân thủ
pháp luật của ngƣời nộp thuế.
Năm 2015, tác giả Đặng Thị Bạch Vân đã công bố các nghiên cứu về quản lý
thuế, trong đó đáng chú ý là bài viết: “Lý thuyết về niềm tin và tính tuân thủ pháp
luật” đăng trên Tạp chí Tài chính, số ra ngày 27 tháng 10 [33]. Trong bài viết này,
tác giả cho rằng: “Niềm tin là yếu tố quan trọng để công dân hợp tác với cơ quan

nhà nƣớc và tuân thủ các quy định theo pháp luật. Vì thế, cách quản lý tốt nhất là
làm thế nào để mỗi công dân cảm nhận tốt hơn về nghĩa vụ tuân thủ hƣớng đến lợi
ích chung của cộng đồng, tự giác thực hiện các quy định, hƣớng dẫn, luật lệ và sẵn
sàng tuân thủ tự nguyện. Trên cơ sở đó, nếu cơ quan thuế hoạt động hƣớng đến
phục vụ và hỗ trợ NNT, tạo môi trƣờng đáng tin cậy sẽ củng cố niềm tin của NNT
vào hệ thống quản lý thuế”. Các kết quả nghiên cứu về tổng quan thu thuế, cơ cấu
thuế, các thách thức trong việc: tuân thủ thuế, cơ sở thuế hẹp, văn hóa trốn thuế, sự
hiện diện của các nền kinh tế chính thức, giao dịch bằng tiền mặt, thiếu vắng thuế
tài sản…là những đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu các vấn đề về KSTNCN
của ngƣời nộp thuế TNCN ở Việt Nam trong hiện tại và tƣơng lai. Kết quả nghiên
cứu này cũng đƣợc NCS tham khảo, kế thừa trong việc nghiên cứu thực tiễn thực
hiện pháp luật thuế TNCN làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp trong xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát thu nhập cá nhân.
Tác giả Nguyễn Thị Lan Hƣơng với các nghiên cứu đƣợc công bố: “Ưu tiên
quyền lợi của người nộp thuế khi sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 14 (199) năm 2011; “Sửa đổi Luật quản lý thuế nhằm điều
hòa quyền,lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 9 (217); T5/2012 ;“Bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật quản lý thuế”
Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội, Luật học, Tập 29, số 1(2013) tr42-50; Triết lý
đánh thuế đối với thu nhập từ sở hữu, chuyển nhượng chứng khoán và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật”,Tạp chí Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 04 (260), tháng


19

2/2014… Đóng góp trong các nghiên cứu này thể hiện qua việc để cập đến các vấn
đề bảo vệ quyền và lợi ích của NNT khi sửa đổi bổ sung Luật thuế TNCN và đều
đƣợc tiếp cận dƣới góc độ khoa học luật kinh tế [69];[70];[71]; [72];[73]. Theo tác
giả việc hoàn thiện những quy định liên quan đến xác định mức thuế phải nộp có ý
nghĩa quan trọng trong bảo đảm quyền của ngƣời nộp thuế cũng nhƣ đảm bảo công

bằng giữa các cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế…Luật thuế TNCN chỉ có thể đi vào
cuộc sống khi khoản thuế phải nộp không trở thành gánh nặng cho ngƣời có thu
nhập chịu thuế. Tác giả kiến nghị Luật Quản lý thuế, Luật thuế TNCN khi đƣợc sửa
đổi cần chú trọng điều hòa lợi ích trên nguyên tắc bảo đảm quyền của NNT và hỗ
trợ ngƣời nộp thuế. Bên cạnh đó cần phải đảm bảo nguyên tắc công bằng và bình
đẳng trong đánh thuế để điều chỉnh hợp lý quan hệ lợi ích giữa Nhà nƣớc và NNT;
cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế hành thu nhằm góp phần nâng cao ý thức của NNT.
Hơn nữa, Luật Quản lý thuế quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá
trình thu, nộp thuế nhằm đảm bảo cho các khoản thuế đƣợc thu đúng, thu đủ vào
NSNN vì vậy, Luật Quản lý thuế cần bảo vệ quyền lợi của NNT không chỉ bằng các
quy định để thủ tục thu nộp thuế đơn giản và thuận tiện mà phải bảo vệ lợi ích vật
chất của NNT gắn với quá trình thu nộp thuế… Trong đó các kết quả nghiên cứu
của tác giả liên quan đến việc hoàn thiện những quy định liên quan đến xác định
mức thuế phải nộp có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm quyền của ngƣời nộp thuế
cũng nhƣ đảm bảo công bằng giữa các cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế đƣợc NCS
tham khảo, kế thừa và phát triển, đƣợc NCS xác định nhƣ một nguyên tắc quan
trọng trong nghiên cứu các vấn đề về KSTNCN.
Các công trình nghiên cứu về vấn đề kiểm soát thu nhập cá nhân
Bài viết: “Quản lý thu nhập, biện pháp nào nhằm giảm thiểu rủi ro” (2008),
đăng trên Tạp chí Thuế nhà nƣớc. Đóng góp lớn nhất của công trình này là ở chỗ,
tác giả đã chỉ ra rằng quản lý thu nhập dân cƣ là vấn đề lớn của cả xã hội, đòi hỏi có
sự tham gia tích cực của cả một thể chế đồng bộ, từ hệ thống các cơ quan quản lý
nhà nƣớc, các cơ quan chi trả thu nhập đến mọi ngƣời dân trong xã hội chứ không
chỉ của riêng ngành thuế, trong đó việc thanh toán qua tài khoản ngân hàng là giải
pháp hiệu quả để kiểm soát thu nhập của ngƣời nộp thuế và qua đó thúc đẩy quá
trình quản lý thuế [89].


20


Đứng trƣớc đòi hỏi phải xây dựng một hành lang pháp lý cho việc hạn chế
chi tiêu bằng tiền mặt trong các giao dịch dân sự, kinh tế và trong đời sống dân cƣ;
năm 2006, Chính phủ ban hành “Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn
2006-2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam” [104];[105]. Với mục đích
xây dựng lộ trình cho việc hạn chế tiền mặt trong thanh toán và tạo đƣợc sự chuyển
biến mạnh về chất lƣợng trong TTKDTM nhằm từng bƣớc thay thế tiền mặt trong
lƣu thông… phấn đấu đạt môi trƣờng thanh toán an toàn, hiệu quả và vững chắc về
cơ sở pháp lý ở Việt Nam vào năm 2020. Qua nghiên cứu các nội dung của đề án,
NCS nhận thấy, đóng góp lớn của Đề án với việc nghiên cứu đề tài luận án thông
qua quy định mỗi cá nhân bắt buộc phải mở một tài khoản tại một ngân hàng nhất
định và mọi dòng tiền tệ, giao dịch đều đƣợc thanh toán thông qua tài khoản này và
phải đƣợc kiểm soát; thực tiễn công tác KSTNCN trên thế giới và Việt Nam cho
thấy đây là một trong những biện pháp KSTNCN hiệu quả nhất. Trong quá trình
thực hiện luận án, NCS đã tham khảo biện pháp này trong phân tích, đánh giá thực
trạng, kế thừa và phát triển trong nghiên cứu đề xuất giải pháp KSTNCN của NNT
có tính khả thi; góp phần kiểm soát đƣợc nguồn thu nhập của mỗi cá nhân.
Cuối năm 2014 (27/12/2014), Tổng cục thuế và Bảo hiểm xã hội công bố đề
án “Xây dựng quy chế trao đổi thông tin giữa cơ quan Thuế và cơ quan BHXH
trong việc thu thuế thu nhập cá nhân và thu các khoản BHXH, BHYT” [92]. Theo
đề án này, ngƣời lao động sẽ chỉ sử dụng một mẫu tờ khai, một mã số quản lý để
nộp cả thuế và BHXH. Theo đó, hai bên sẽ trao đổi thông tin về tổ chức và cá nhân
trả thu nhập tham gia đóng các khoản BHXH bắt buộc và nộp thuế, để phối hợp
quản lý thu các khoản BHXH, BHYT và quản lý thu thuế…và Tổng cục Thuế triển
khai cấp MST đối với các tổ chức trả thu nhập theo quy định và phối hợp trao đổi
để cơ quan BHXH sử dụng trong quản lý các đơn vị tham gia BHXH. NCS nhận
thấy, do cả hai ngành đều có chung một nhóm đối tƣợng quản lý là các tổ chức chi
trả và các cá nhân làm công ăn lƣơng; do đó, cơ quan thuế có thể căn cứ vào khoản
tiền lƣơng, tiền công đƣợc chi trả để tính thuế TNCN, còn BHXH căn cứ vào khoản
tiền lƣơng, tiền công để quản lý các khoản đóng góp BHXH. Hơn nữa, kết quả của
sự phối hợp này đã đặt nền móng và tạo cơ sở cho những sự phối hợp giữa ngành

thuế và các cơ quan chức năng có liên quan trong quản lý thuế trong tƣơng lai.


21

Luận án tiến sĩ kinh tế về đề tài “Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Lý Phƣơng Duyên (bảo vệ tại
Học viện Tài chính năm 2010). Trong luận án này, tác giả Lý Phƣơng Duyên đề cập
đến bốn nội dung cơ bản về quản lý thuế TNCN, bao gồm việc xây dựng mô hình tổ
chức bộ máy quản lý thuế; tổ chức triển khai thực hiện luật thuế; thanh tra, kiểm tra
thuế; cƣỡng chế xử lý các vấn đề tố tụng về thuế. Tuy không có những phân tích
chuyên sâu về vấn đề KSTN của ngƣời nộp thuế TNCN nhƣng đóng góp đáng chú ý
của công trình này là khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc KSTNCN trong công tác
quản lý thuế TNCN.
Một số công trình nghiên cứu khác liên quan đến vấn đề kiểm soát thu nhập
cá nhân trong quản lý thuế cũng đƣợc công bố, chẳng hạn nhƣ: Báo cáo thực tập
sinh khoa học: “Personal Income Tax Administration in Netherlands: Lessons from
Experiences for Vietnam” (Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Hà Lan: Bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam) của tác giả Lý Phƣơng Duyên ; bài báo: “Một số điểm nổi
bật trong quản lý thuế thu nhập ở Đài Loan và bài học cho Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Mai Phƣơng (2007) đăng trên Tạp chí Tài chính số 6 tháng 3/2007
[55]; [67].
Đóng góp lớn về vấn đề KSTNCN trong hai nghiên cứu này là đã chia sẻ
những kinh nghiệm về quản lý thuế, kiểm soát thu thuế TNCN với các mô hình
đang đƣợc áp dụng có hiệu quả tại Vƣơng quốc Hà Lan, vùng lãnh thổ Đài Loan
qua đó khuyến nghị các mô hình và cách thức áp dụng cho việc quản lý thuế thu
nhập cá nhân phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam. Những kết quả
nghiên cứu đƣợc công bố ở các nghiên cứu này đƣợc NCS sử dụng làm tài liệu
tham khảo khi tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về KSTNCN.
Năm 2011, tác giả Bùi Công Phƣơng công bố nghiên cứu về “Kiểm soát thuế

thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do
cục thuế Thành Phố Đà Nẵng thực hiện”, dƣới cấp độ luận văn thạc sĩ Quản trị kinh
doanh tại Đại học Đà Nẵng [15]. Nghiên cứu của Bùi Công Phƣơng đã “góp phần
làm rõ ý nghĩa của công tác kiểm soát thuế TNCN nói chung, thuế thu nhập cá nhân
từ tiền lƣơng, tiền công nói riêng. Luận văn nêu lên thực trạng của hoạt động kiểm
soát thuế TNCN từ tiền lƣơng, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do Cục thuế
Đà Nẵng thực hiện, đồng thời đƣa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động này.


22

Năm 2013, tác giả Nguyễn Thành Phúc trong bài viết “Quản lý thuế thu nhập
cá nhân từ tiền lương tiền công” đăng trên Tạp chí Tài chính số ngày 09/9/2013
[66]. Tiếp cận dƣới góc độ pháp luật kinh tế, nghiên cứu đã có những đóng góp: chỉ
ra thực tế ở Việt Nam hiện chƣa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát các khoản giảm
trừ, đặc biệt là giảm trừ gia cảnh của NNT. Đề xuất giải pháp quản lý thu nhập chịu
thuế: (i) các cục, chi cục thuế cần phối hợp chặt chẽ với các đội thuế phƣờng, xã để
theo dõi sát tình hình thu nhập từ tiền lƣơng, tiền công của các cá nhân, nắm chắc
tình hình nguồn thu, các khoản giảm trừ của cá nhân theo quy định pháp luật… (ii)
tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý thông tin cá nhân NNT và hồ sơ GTGC cho
ngƣời phụ thuộc một cách hợp lý, sử dụng đồng bộ, liên thông trên toàn quốc, kết
hợp với tăng cƣờng rà soát, đối chiếu để ngăn chặn gian lận. (ii) đề xuất ban hành
các văn bản cụ thể hóa trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân chi trả tiền lƣơng, tiền
công trong việc kê khai thu nhập từ tiền lƣơng, tiền công của NNT, kiểm soát, quản
lý và có trách nhiệm xác minh các trƣờng hợp NNT đƣợc GTGC. Nhiều nội dung
trong kết quả nghiên cứu trên đƣợc NCS tham khảo kế thừa, tiếp tục nghiên cứu
chuyên sâu hơn về thực trạng KSTNCN của NNT.
Tuy nhiên do các nghiên cứu trên đƣợc thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sĩ và
khuôn khổ một bài báo và đều tiếp cận nghiên cứu dƣới góc độ kinh tế đƣợc giới

hạn trong phạm vi kiểm soát thu nhập từ tiền lƣơng tiền công cho nên cách tiếp cận
vấn đề và nội dung nghiên cứu còn sơ sài, các kết luận khoa học cũng chỉ dừng lại ở
mức độ nghiên cứu cơ bản. Mặt khác, nghiên cứu tiếp cận dƣới góc độ kinh tế nên
không đƣa ra đƣợc những kiến nghị về vấn đề KSTNCN dƣới góc độ pháp lý.
Năm 2009, Bộ Nội Vụ công bố“Đề án kiểm soát thu nhập của người có
chức vụ quyền hạn”[1]. Kết quả nghiên cứu đề án đã đề xuất các phƣơng thức và cơ
chế KSTN bằng kê khai tài sản thu nhập và biện pháp bắt buộc ngƣời có chức vụ
quyền hạn phải mở tài khoản tại ngân hàng, kho bạc để tiếp nhận các khoản thu
nhập từ tiền lƣơng, tiền công, ngoài lƣơng…Tài liệu này có những đóng góp rất lớn
và có nhiều nội dung đƣợc NCS tham khảo kế thừa và tiếp tục nghiên cứu chuyên
sâu trong quá trình viết đề tài luận án, thể hiện: mục đích hƣớng tới của đề án này là
tiến tới kiểm soát tài sản, thu nhập toàn dân, thông qua đó góp phần KSTN của
ngƣời nộp thuế TNCN và thu thuế một cách khách quan, công bằng và chính
xác…Theo tìm hiểu của NCS, đây chính là một trong những công trình đầu tiên ở


×