Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nhập môn báo trực tuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.62 KB, 60 trang )

NHẬP MÔN BÁO TRỰC TUYẾN
Trình bày: ThS. PHAN VĂN TÚ
BÀI 1: TỔNG QUAN BÁO TRỰC TUYẾN

I. Một số vấn đề lý luận
1. Khái lýợc về internet và truyền thông trực tuyến:
1.1. Internet
Sự ra đời của một loại hình báo chí gắn liền với những phát minh công nghệ
- Phát minh ra máy in của Gutenberg vào thế kỷ XV đánh dấu sự phát triển của báo in;
- Phát minh ra máy điện báo và dịch vụ tin tức qua đýờng dây thép;
- Nhiếp ảnh ra đời cuối thế kỷ 19;
- Radio ra đời đầu thế kỷ 20;
- Truyền hình ra đời vào những năm 1930; phát triển mạnh từ những năm 1970;
- Internet ra đời vào cuối thế kỷ 20 trở thành nền tảng cho một hình thức truyền thông
mới: báo trực tuyến;
Một số điểm mốc trong quá trình ra đời của internet
- Năm 1957, tổng thống Eisenhower (Mỹ) thành lập Cơ quan các dự án nghiên cứu cao
cấp (Advanced Research Projects Agency/ARPA);
- Năm 1969, ARPANET ra đời ;
- Năm 1972, APRANET lần đầu tiên ra mắt công chúng và đổi tên thành DARPA - Cuối
năm 1980, Internet ra đời từ sự tổng hợp từ các mạng ARPANET, NSFNET, USENET,
BITNET, Compuserve , American Online
Internet là gì?
Internet là mạng thông tin diện rộng bao trùm toàn cầu, hình thành trên cơ sở kết nối các
máy tính điện tử, cho phép liên kết con người lại bằng thông tin và kết nối nguồn tri thức
đã tích luỹ được của toàn nhân loại trong một mạng lưu thông thống nhất. Quy mô, phạm
vi ảnh hưởng của thông tin trên mạng Internet rộng lớn hơn nhiều so với các phương tiện
thông tin thông thường khác. Với Internet, mọi người có khả năng và điều kiện rất thuận
lợi trong việc tiếp cận trực tiếp với các nguồn thông tin trên thế giới
1.2. Internet một thực thể truyền thông mới:
- Truyền thông và truyền thông đại chúng


- Mô thức truyền thông internet
- Truyền thông liên cá nhân
- Truyền thông tập thể
- Truyền thông đại chúng
2. Khái niệm báo trực tuyến
Hiểu một cách chung nhất, báo trực tuyến là loại hình báo chí phát hành trên mạng
Internet, sử dụng công nghệ world wide web, với ngôn ngữ HTML, dành cho công chúng
sử dụng Internet.
3. Về tên gọi loại hình báo chí phát hành trên mạng Internet ở Việt Nam:
- Báo điện tử
- Báo online
1


- Báo mạng
- Báo mạng điện tử
- Báo trực tuyến
Xác định một số tiêu chí nhận diện báo trực tuyến:
- Chủ thể của nội dung thông tin phải là các tổ chức được phép hoạt động như một cơ
quan báo chí theo Luật báo chí hiện hành.
- Báo trực tuyến phải có sự độc lập tương đối trên mạng Internet so với bản báo in, hoặc
chương trình phát thanh – truyền hình của cùng cơ quan chủ quản, hoặc phải có ranh giới
giữa thông tin của báo trực tuyến với thông tin của trang web mà nó cùng chung tên
miền.
- Nội dung thông tin phải được truyền bá tới đông đảo công chúng sử dụng Internet,
nghĩa là bất kỳ ai sử dụng mạng Internet đều có thể truy cập.
- Nội dung thông tin phải được cập nhật liên tục

II. Đặc trưng loại hình
1. Cập nhật phi định kỳ:

2. Đặc trưng trình bày:
+ Đặc thù màn hình và liên kết
+ Phần mềm xuất bản và kết cấu nhiều lớp
+ Tính chất phi tuyến tính và liên văn bản
+ Bài báo mở
+ Không bị giới hạn về số lượng chữ viết, hình ảnh và số lượng “trang” báo
+ Vấn đề “bài toán trang nhất”
3. Tích hợp multi media
4. Lưu trữ và tìm kiếm thông tin
5. Phát hành đơn giản và rộng khắp
6. Tính tương tác
Tính tương tác là khả năng cho phép công chúng truyền thông cùng tham dự vào nội
dung thông tin của báo như phản hồi tin tức, liên hệ với chuyên gia, với những độc giả
khác hay với chính những người làm báo
Phân loại:
- Tương tác giữa công chúng với tòa soạn;
Tương tác giữa công chúng với nguồn tư liệu của tờ báo;
Tương tác giữa công chúng với nhà báo;
Tương tác giữa công chúng với nhân vật của bài báo;
Tương tác giữa những công chúng với nhau;
7. Chi phí sản xuất thấp
8. Cá nhân hóa thông tin
Đặc trưng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến có thể hiểu là nhóm khả năng đặc biệt
của loại hình báo chí này trong việc cho phép người sử dụng có thể tự do lựa chọn thông
tin mình cần, vào đúng lúc mình cần (tiếp nhận thông tin không đồng bộ), theo cách thức
mình mong muốn (khả năng tự trình bày)…
9. Hạn chế:
- Độ tin cậy của thông tin;
- Những hạn chế về mặt kỹ thuật (máy móc, cơ sở hạ tầng Internet, điện…);
- Những hạn chế do trình độ, thói quen, tâm lý của bạn đọc;

- Vấn đề quản lý/sắp xếp trang, mục;
2


- Nguồn thu;

III. Báo trực tuyến trên thế giới
1. Quá trình hình thành và phát triển
+ Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất nhau về mốc xác định báo trực tuyến
trên thế giới ra đời ở đâu, ngày nào
+ Nhà nghiên cứu Lancester cho rằng mô hình một tờ báo trực tuyến đã được nghĩ đến từ
năm 1973. Nhưng khi tờ báo khảo cứu về lĩnh vực tinh thần xuất bản trên mạng năm
1979 ra đời thì đó là tờ báo trực tuyến đầu tiên.
+ Những “tờ” báo trực tuyến trên thế giới đầu tiên được biết đến trong giai đoạn 1990 –
1995 như Post modern Culture; Electronic journal of Communication; Journal of the
International Academy of hospitality Research; LIBRES: Library and Information
Science Research Electric Journal;…
+ Năm 1995, một loạt các tờ báo lớn của Mỹ đã xây dựng website của mình trên mạng
như: Los Angeles Times, USA Today, New York Times… Cũng năm này, nhiều tờ báo
khác ở Châu Á cũng xuất hiện trên mạng internet như China Daily, Utusan (Malaysia),
Kompas (Indonesia)
Asahi Simbun (Nhật Bản)…
+ Một số mốc trong tiến trình phát triển: Năm 1992, báo trực tuyến tiến thêm một bước
mới về hình thức (tích hợp multi media); Năm 1994, web phát triển rộng khắp, báo trực
tuyến nở rộ, những nghiên cứu về báo trực tuyến bắt đầu; Năm 1997, đã có giáo trình
giảng dạy về báo trực tuyến tại các trường báo chí ở Mỹ…
2. Báo trực tuyến trên thế giới hiện nay:
+ Các cơ quan báo chí trên thế giới hiện nay đều có báo trực tuyến với nhiều hình thức
thông tin trực tuyến phong phú
+ Đội ngũ nhà báo trên thế giới hiện nay đầu có tư duy làm báo trực tuyến, tư duy đa

phương tiện
+ Mô hình tòa soạn các cơ quan báo chí hiện nay mang tính tích hợp cao
+ Hướng đến việc đưa thông tin trực tuyến qua các thiết bị di động
+ Quảng cáo online đang dần chiếm ưu thế, các dịch vụ giá trị gia tăng cũng phát triển

IV. Báo trực tuyến ở Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển Internet ở Việt Nam
+ Ngày 5/3/1997, Việt Nam thành lập Ban điều phối quốc gia mạng internet. Ngày
19/11/1997, Việt Nam chính thức hòa mạng Internet quốc tế.
+ Internet đã và đang làm nên nhiều thay trong các mặt đời sống ở Việt Nam. Và tiến
trình phát triển Internet Việt Nam đã kéo theo sự ra đời của một thực thể truyền thông
mới với sự phát triển nhanh chưa từng thấy: báo trực tuyến.

3


+ Các chỉ số thống kê hơn 10 năm qua cho thấy sự phát triển cực nhanh của hạ tầng kỹ
thuật internet và số lượng người sử dụng internet ở Việt Nam cũng như việc ứng dụng
internet trong các lĩnh vực đời sống.
2. Sự ra đời báo trực tuyến, bước phát triển của hệ thống báo chí Việt Nam đương
đại:
+ một tháng sau thời điểm Việt Nam kết nối Internet quốc tế, tờ báo đầu tiên của Việt
Nam đã xuất hiện trên mạng thông tin toàn cầu: tạp chí Quê hương, tạp chí của Uỷ ban về
người Việt Nam ở nước ngoài.
+ Giai đoạn 1997 – 2002 được xem là thời kỳ “tập dượt” của làng báo trực tuyến Việt
Nam
+ Từ 2002 đến nay được xem là giai đoạn phát triển cực thịnh của báo trực tuyến Việt
Nam;
3. Một số báo tiêu biểu:
4. Một số đặc điểm trong tiến trình phát triển:

4.1. Phát triển gắn liền với thành tựu khoa học - công nghệ:
- Công nghệ đã góp phần thay đổi phương thức làm báo
- Hạ tầng viễn thông tác động tới việc phát triển
- Các thiết bị công nghệ phát triển cũng góp phần tác động tới việc phát triển báo trực
tuyến
- Đây là đặc điểm có tính quy luật trong tiến trình phát triển của báo chí trực tuyến trên
toàn thế giới
4.2. Phát triển từ những cơ quan báo chí truyền thống
- Tận dụng nguồn các nguồn lực
- Hạn chế: thói quen, tư duy làm báo
4.3. Phát triển song hành cùng với sự thu hút ngày càng nhiều công chúng trẻ và
người Việt Nam ở nước ngoài
- Công chúng báo trực tuyến là công chúng trẻ
- Thế mạnh báo trực tuyến trong tuyên truyền đường lối chính sách đối ngoại, trong
thông tin đối ngoại
4.4. Phát triển song hành với trình độ của báo chí trực tuyến thế giới
- Công chúng Báo trực tuyến Việt Nam có khả năng sánh vai với làng báo chí trực tuyến
toàn cầu
- Báo trực tuyến Việt Nam là bước phát triển lớn của báo chí Việt Nam đương đại

BÀI 2: TỔ CHỨC TÒA SOẠN VÀ QUY TRÌNH SẢN XUẤT
I. Mô hình tòa soạn
+ Không có mô hình chung cho tất cả các toà soạn báo trực tuyến
+ Đa phần các toà soạn báo trực tuyến có biên chế gọn nhẹ, chuyên môn hoá cao
+ Xu thế trên thế giới hiện nay: tòa soạn tích hợp
4


+ Bộ máy nội dung của tòa soạn báo trực tuyến thường gồm (1) Bộ phận nội dung với hệ
thống các ban chuyên mục (chuyền đề) - đội ngũ sản xuất (gồm các biên tập viên, thư ký

tòa soạn); (2) bộ phận kỹ thuật và (3) đội ngũ quản lý bao gồm Tổng TKTS, Tổng Biên
tập
TỔNG/PHÓ TỔNG BIÊN TẬP

TỔNG/PHÓ TỔNG THÝ KÝ TÒA SOẠN

CÁC THÝ KÝ TÒA SOẠN

CÁC TRÝỞNG BAN/TRANG

ĐỘI NGŨ PHÓNG VIÊN

Phó Tổng thư ký tòa
soạn

Phòng Chương trình

Phòng Nội dung

Biên tập viên chương
trình (nghiên cứu, phát
triển các chương trình
cho báo trực tuyến)

Biên tập viên
phụ trách chuyên
mục
Phóng viên
Cộng tác viên


5

Phòng Kỹ thuật

Kỹ thuật
viên công
nghệ thông
tin

Họa sĩ
thiết kế,
trình bày


Tổng Biên tập

Phó Tổng
Thư ký Toà
soạn

Trợ lý Tổng
biên tập

Phụ trách kỹ
thuật

Trưởng phòng
hành chính

Các Trưởng ban

(Kinh tế, Chính trị, Xã hội, Quốc tế, Giải trí Văn hoá, Thể thao, Net
Mode, CNTT, Thư Hà Nội, Bạn đọc, Tiếng Anh, Ảnh)

Thư ký xuất bản
Phóng viên
Biên tập viên

II. Chức danh và quy trình sản xuất
+ Tổng biên tập là người đề ra định hướng tổ chức nội dung, người kiểm soát nội dung
cao nhất. Nhưng trong quy trình sản xuất, thông thường, TBT chỉ duyệt những tin, bài
nhạy cảm về chính trị hoặc những tin, bài do TKTS xin ý kiến duyệt)
+ Tổng thư ký tòa soạn hoặc Thư ký tòa soạn (kiểm soát nội dung ở mức sau TBT, có
quyền đưa lên hoặc không đưa lên hầu hết tin, bài lên báo)
+ Trưởng ban/Trưởng trang (trực tiếp kiểm soát phóng viên và BTV, PV và đưa tin, bài
lên để TKTS thông qua
+ BTV (biên tập tin, bài phóng viên cùng Trưởng ban/Trưởng trang trực tiếp giám sát,
điều chỉnh quá trình thực hiện tin, bài của PV) – PV (thực hiện tin, bài, chịu sự động,
giám sát trực tiếp của Trưởng Ban/Trưởng trang)
+ Các chức danh chính trong một tòa soạn báo trực tuyến:
- Cấp quản lý: Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập, Phó Tổng Thư ký toà soạn, Trưởng ban;
- Bộ phận nội dung: Trưởng ban, Biên tập viên, phóng viên viết, phóng viên ảnh, nhân
viên nhập liệu, cộng tác viên;
- Bộ phận kỹ thuật – trình bày: chuyên viên kỹ thuật mạng, hoạ sỹ trình bày;
+ Thông thường, vào đầu giờ sáng hoặc buổi chiều, PV đề xuất hoặc tiếp nhận đề tài từ
Trưởng ban/Trưởng trang – Trao đổi những vẫn đề liên quan đề đề tài và quá trình triển

6


khai với Trưởng ban/Trưởng trang – Lấy thông tin thực tế - Viết tin/bài hoàn chỉnh –

Chuyển tin, bài lên BTV.
+ Tuy nhiên, khi có tin nóng trong ngày, PV có thể chuyển tin thô về BTV/Trưởng
trang/TKTS để những người này tổ chức tin, bài, cập nhật lên mạng.
+ BTV thường là người có kinh nghiệm làm báo, có khả năng xử lý thông tin nhanh
nhạy, nắm vững thông tin trong chuyên mục mình phụ trách, có các kỹ năng cần thiết để
xử lý tin, bài , âm thanh, hình ảnh…
+ BTV còn có nhiệm vụ đảm bảo cho chuyên mục mình phụ trách luôn được cập nhật, có
các tin, bài chất lượng, không vi phạm các quy định, đề xuất những hướng khai thác
thông tin, cách trình bày tin, bài mới để phục vụ công chúng, đề xuất giao lưu/ phỏng vấn
trực tuyến…
+ BTV có thể tự viết bài, dịch bài hoặc tổng hợp thông tin từ báo bạn.
+ Nhận bài của phóng viên/nhân viên nhập liệu gửi lên, kiểm tra thông tin, biên tập và
xuất bản lên mạng.
+ Những trường hợp “nhạy cảm”, biên tập viên chuyển bài cho cấp cao hơn xử lý. Biên
tập viên có quyền đăng tin, bài trực tiếp lên báo và chịu trách nhiệm sau khi đã ấn phím
cho xuất bản.
+ Phóng viên có vai trò tạo ra bản sắc riêng cho nội dung trang báo trực tuyến;
Đặc điểm: Phóng viên báo trực tuyến phải làm việc dưới áp lực deadline mạnh hơn trong
các cơ quan truyền thông khác.
Công việc: sẵn sàng có mặt tại hiện trường, thông tin về toà soạn theo cách nhanh nhất,
có nhiều nguồn tin, viết tin – bài, chụp ảnh, ghi hình…
+ Cộng tác viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin/ đóng góp nội
dung tin tức cho tờ báo; (TTO nhận trung bình 200 email/ngày)
Họ có thể là các chuyên gia trong các lĩnh vực, bạn đọc trong nước và ngoài nước, sinh
viên báo chí; phóng viên của những tờ báo khác…
Tờ báo có mạnh hay không/có những tin tức độc đáo, thú vị hay không là nhờ đội ngũ
cộng tác viên
+ Nhân viên nhập liệu: Chuyển bài từ báo in lên báo trực tuyến, thu thập thông tin từ
các mạng khác, viết, dịch bài và chuyển bài cho biên tập viên. Nhân viên nhập liệu của
TTO có vai trò như phóng viên cho tờ báo trực tuyến, nhưng khác ở chỗ chủ yếu khai

thác thông tin trên mạng. Nhân viên nhập liệu của TTO gồm phóng viên từ ban khác
chuyển sang, cử nhân báo chí, sinh viên các ngành xã hội (sinh viên có thể làm bán thời
gian vào buổi tối).
+ Nhân viên kỹ thuật: Phụ trách các vấn đề liên quan đến máy tính, web, các vấn đề kỹ
thuật của tờ báo,… Ngoài ra nhân viên kỹ thuật cũng có thể viết tin, bài cho báo trực
tuyến nếu yêu thích và có thời gian.
+ Họa sĩ trình bày: Thiết kế, chọn lựa màu sắc, font chữ, sắp xếp giao diện trang chính
và các chuyên trang… để đạt hiệu quả thẩm mỹ, thu hút người đọc và tạo điều kiện cho
người đọc tiếp thu thông tin tốt nhất
+ Về quy trình: Tuỳ thuộc kiểu toà soạn; Có những đặc điểm chung:
- Đi từ dưới lên;
- Nhiều tầng duyệt bài -> hạn chế các lỗi chính tả, kiểm tra độ chính xác thông tin;
- Người “ấn nút” cho xuất bản sẽ là người chịu trách nhiệm về tin/bài;

7


+ Các toà soạn báo trực tuyến hiện nay đều sử dụng phần mềm toà soạn điện tử cho công
việc viết tin, bài, chuyển bài, biên tập, xử lý hình ảnh, âm thanh, xuất bản bài, chỉnh sửa
sau khi đã xuất bản…
+ Mỗi người sử dụng được cung cấp 1 tài khoản (account);
Cho phép người dùng viết bài, gửi bài, biên tập bài gửi đến cho mình, gửi tiếp cho cấp
trên hoặc gửi trả lại cấp dưới;
Các biên tập viên luôn có danh sách đầy đủ những bài đang chờ biên tập. Phóng viên có
thể biết tình trạng bài viết của mình (đã được đăng hay chưa, ai đang biên tập);
+ Toà soạn điện tử nhằm mục đích đáp ứng mục tiêu tin học hoá, hiện đại hoá quá trình
làm báo, tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc.

VIẾT VÀ BIÊN TẬP BÁO TRỰC TUYẾN
I. Tổ chức “trang” báo trực tuyến

1. Giao diện:
+ Giao diện (Interface) là hình thức tồn tại của tờ báo, là cách thức truyền tải thông tin
đến độc giả, là cầu nối hai chiều giữa tòa soạn và độc giả, là một không gian thông tin
không hề bị giới hạn;
+ Trình bày giao diện;
+ Tổ chức chuyên mục;
+ Nguyên tắc chung (báo trực tuyến trên thế giới): TRÌNH BÀY RÕ RÀNG – DỄ ĐỌC
2. Multimedia: (slideshows, thư viện ảnh, video, audio, bản đồ)
3. Blog của nhà báo
4. RSS feeds
RSS viết tắt từ Really Simple Syndication hoặc Rich Site Summary là một tiêu chuẩn
định dạng tài liệu dựa trên XML (eXtensible Markup Language) nhằm giúp người sử
dụng dễ dàng cập nhật và tra cứu thông tin một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất bằng
cách tóm lược thông tin vào trong một đoạn dữ liệu ngắn gọn, hợp chuẩn.
II. Tổ chức tác phẩm báo chí trực tuyến
+ Đề tài
+ Tổ chức thực hiện
+ Các thành tố liên quan trong tác phẩm (text, hình ảnh tĩnh, video, audio, soundslides,
…)
+ Đề tài ở đâu?
- Từ thực tiễn cuộc sống
- Từ tài liệu (các kết quả nghiên cứu, sách, báo, tài liệu lưu trữ, quảng cáo, Internet, thông
cáo báo chí…)
- Từ trò chuyện, các câu chuyện phiếm, tin đồn,…
+ Tổ chức thực hiện thế nào?
- Tư duy đa phương tiện
- Ý tưởng thực hiện
Phân công công việc
- Thu thập tư liệu
- Xử lý tư liệu/thông tin

Phân lớp thông tin:
8


Tựa, tít (headline)

LỚP 1
Lời dẫn (lead, chapeau)

Hình ảnh
Nội dung
Box
Biểu đồ

LỚP 2

- Những bài viết có
liên quan (link)
- Các trích đoạn âm
thanh, hình ảnh (clip)

LỚP 3

9


Đặc trưng loại hình và kỹ năng viết, biên tập văn bản đối với báo trực tuyến
+ Trang chủ và bài toán giao diện – biên tập
+ Thói quen “đọc” báo trực tuyến
+ Các tiêu chí đánh giá hiệu quả thông tin

+ Ẩn dụ “câu cá”
+ Nguyên tắc “con bò và nắm cỏ”

IV. Viết lời dẫn (lead, chapeau)
+ Viết lời dẫn là “đội mũ” cho bài báo nhưng không được che khuất nó. Nó phải gợi, kích
thích sự tò mò của công chúng truyền thông
+ Lời dẫn giúp cho việc hoàn thiện cái tít bằng cách nói rõ hơn chủ đề của tác phẩm báo
chí và góc tiếp cận: công chúng hình dung bài báo sẽ nói gì...
+ Lời dẫn gợi cho công chúng cảm giác thông tin liên quan đến họ, kích thích sự tò mò
tìm đọc (có tính chất giải thích ý đồ)
+ Lời dẫn là nơi cho thấy sự sáng tạo của nghề báo. Thậm chí có người nói, nhà báo giỏi
hay không thể hiện ở trình độ viết lời dẫn.
IV.1: Nội dung lời dẫn có gì?
+ Nội dung lời dẫn thường thể hiện phần TINH TÚY nhất của tác phẩm. Nội dung lời
dẫn trả lời cho câu hỏi: CÂU CHUYỆN/VẤN ĐỀ CHÍNH Ở ĐÂY LÀ GÌ? CÂU
CHUYỆN/VẤN ĐỀ CHÍNH Ở ĐÂY NÓI VỀ CÁI GÌ?
+ Có nhiều cách phân loại lời dẫn. Nhưng trong báo online, nhìn chung, lời dẫn có 2 loại
cơ bản:

10


1. Loại có tính thông tấn: giản dị, trung tính, nghiêm túc…
2. Loại có tính phóng sự, có màu sắc văn nghệ: khơi gợi, nêu lên mâu thuẫn, kích thích sự
khám phá của công chúng truyền thông…
IV.3. Cách viết lời dẫn
+ Độ dài của lời dẫn trên báo trực tuyến thế nào là hợp lý?
+ Không có quy ước nào chung cho độ dài của lời dẫn. Với tin, các nhà chuyên môn
khuyến cáo lời dẫn dài tối đa 25 – 30 chữ. Với các thể loại khác, bình quân chừng 50 chữ.
Một số phần mềm xuất bản chỉ cho phép viết lời dẫn tối đa 50 chữ.+ Lời dẫn cho báo trực

tuyến tốt nhất không nên quá ba câu đơn. Lời dẫn xuất sắc có khi chỉ là một câu.
+ Lời dẫn cần được viết bằng ngôn ngữ dễ hiểu (không lạm dụng các hình thức viết quá
văn hoa, đánh đố)
+ Viết lời dẫn cho tin và các dạng bài tường thuật
- Về nội dung, hãy đặt câu hỏi “câu chuyện chính ở đây là gì?”, “những thông tin nào
trong tin bài là quan trọng?”. Khai thác các nội dung này để viết lời dẫn.
- Lời dẫn trong tin thường cung cấp các câu trả lời về những yếu tố thông tin chưa có
hoặc chưa rõ trong tít (như thời gian, không gian, đối tượng, nguyên nhân, mức độ…)
- Lời dẫn trong tin thực chất là câu mào đầu của tin. Vì thế, phải cố gắng biểu đạt một ý,
thông thường trong một câu ngắn (khoảng 25 – 30 chữ), có cấu trúc ngữ pháp đơn giản.
+ Với thể loại phỏng vấn, lời dẫn nêu ra hoàn cảnh phỏng vấn, nhân vật được phỏng
vấn, vấn đề người đó đề cập…
+ Lời dẫn có thể sử dụng đoạn trích những phát biểu từ trong bài. Tất nhiên, đó phải là
những phát biểu có giá trị/hàm lượng thông tin cao hoặc phục vụ tốt cho chủ đề của tác
phẩm báo chí
+ Nếu tít dùng một phát biểu, lời dẫn có thể nêu rõ hoàn cảnh phát biểu, nhân vật phát
biểu và vấn đề tác phẩm sẽ đề cập
Cao ốc chui vào lòng đất
Đất mặt khu trung tâm TP.HCM ngày càng đắt đỏ, nhiều nhà đầu tư tìm cách “chui”
xuống đất làm trung tâm thương mại, bãi đậu xe ngầm... để tận dụng vị thế “đất vàng”.
Các cao ốc đua nhau... xuống đất.
Du khách nước ngoài bị bắt làm con tin tại Philippines Tình huống xảy ra không khác gì
một bộ phim Hollywood. Sáng nay 23-8, một cựu cảnh sát Philippines cầm súng máy đã
chiếm giữ một xe buýt tại thủ đô Manila, và giữ gần 30 hành khách làm con tin.
Thôi việc thầy giáo phạt học sinh nhập viện
Sáng 3/11, Hội đồng kỷ luật trường THPT Lê Quý Đôn (TP HCM) đã họp, xử lý buộc
thôi việc đối với thầy Võ Hải Bình về hành vi phạt học sinh sai quy chế.
Áo trắng và cuộc chia ly màu đỏ
Chín đội bóng tham dự ở hai bảng đấu của môn bóng đá nam tại SEA Games lần này sử
dụng từ 2 đến 3 bộ trang phục khác nhau, riêng U23 VN chỉ mặc độc một màu trắng ở 4

trận vòng bảng

11


II. Tổ chức tác phẩm báo chí trực tuyến
Phân lớp thông tin:

LỚP 1

LỚP 2

LỚP 3

Tựa, tít
(headline)
Lời dẫn (lead,
chapeau)
Hình
ảnh
N ội
dung
Box
- Những bài
Biểu đồ

viết có liên quan
(link)
- Các trích
đoạn âm thanh,

hình ảnh (clip)

12


+ Cách viết:
Kết cấu:
- Hình tháp ngược;
- Hình chữ T;
Theo tuyến thời gian
Kịch tính
Xếp chồng (tin của các hãng thông tấn);
- Nhiều cửa;
Tổ chức nhiều cửa:
- Chính văn (chia thành nhiều phần, sử dụng tít phụ);
- Box;
- Sơ đồ, bản đồ, biểu đồ,…;
- Hình ảnh;
- Audio & video;
- Phần dành cho độc giả;

Chính văn (nội dung bài) nên có những yếu tố sau:
+ Trích dẫn;
+ Nguồn tin;
+ Giải thích;
+ Phân tích;
+ Thông tin bối cảnh;
+ So sánh;
Độ dài: Tối đa 800 chữ
- Độc giả “lướt mắt” nhiều hơn là đọc (Jacob Nielsen);

- Không nói lòng vòng mà đi thẳng vào nội dung chính;
- Không nên để độc giả phải lăn chuột hoặc click sang trang thứ hai;- Nên có các tiểu
đề/nội đề chứa đựng thông tin (điểm nghỉ cho mắt, độc giả dễ tiếp nhận thông tin hơn);
- Nêu rõ nguồn tin;
Tiết kiệm thời gian của người đọc:
- “Hãy thứ lỗi cho tôi về lá thư dài này, tôi không có thời gian để viết ngắn hơn” (Blaise
Pascal)- Công chúng sẽ cảm ơn những người viết không làm họ mất thời giờ. Ngôn ngữ
đơn giản, trực tiếp sẽ hiệu quả hơn là những câu chữ khoe khoang trình độ văn học.
Phân đoạn:
- Mỗi đoạn 1 ý;
- Đoạn có độ dài vừa phải (3-4 hàng);
- Sử dụng phương pháp liệt kê hoặc gom thông tin thành từng cụm;

13


Diễn đạt câu:
- Nên dùng phương pháp diễn dịch;
- Câu chủ động;
- Sử dụng nhiều động từ, giảm bớt tính từ;
- Rõ ràng, không uốn éo hoa mỹ;
Chú ý những lỗi:
- Tên gọi;
- Chính tả;
- Diễn đạt câu;
Cháy lớn ở chợ Tân Bình
Khoảng 22 giờ tối 11-4, tầng trên mặt tiền của chợ Tân Bình (Quận Tân Bình, TP.HCM)
đã bốc cháy dữ dội.
Lửa bốc cao khỏi tầng mái và lan rộng ra nhiều sạp hàng. Chỉ sau sau đó ít phút hàng
chục xe cứu hỏa đã có mặt và phong tỏa toàn bộ tuyến đường Lý Thường Kiệt, Lê Minh

Xuân xung quanh chợ.
Khu vực bị cháy được xác định là gian hàng bán vật dụng gia đình và phụ liệu ngành tóc
nằm ở tầng 1, có diện tích khoảng 32 mét vuông.
Được tin báo, Sở cảnh sát phòng cháy chữa cháy TP.HCM huy động lực lượng của
Phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy quận 11 lập tức ứng cứu.
Sau khi dùng thang cứu hỏa phun nước từ mái xuống và tiếp cận chợ từ nhiều hướng, đến
23 giờ ngọn lửa phía trên mái đã tạm thời được khống chế.
Sau đó cảnh sát phòng cháy chữa cháy đã phá được vào bên trong để tiếp tục dập lửa cho
các gian hàng phía trong.
Thiệt hại hàng hóa chưa được xác định, song may mắn không có thiệt hại về người.
Voi xiếc quật chết một học sinh lớp 6
Khoảng 13g ngày 10-4, em Phạm Xuân Tín - học sinh lớp 6 Trường THCS Bình Đa
(P.Bình Đa, TP Biên Hòa, Đồng Nai) - đã bị một con voi xiếc của doanh nghiệp biểu
diễn nghệ thuật Sao Mai, tỉnh Hải Dương quật chết ngay tại sân vận động Bình Đa.
Theo nhiều học sinh chứng kiến vụ việc thì voi xiếc được xích chân. Lúc đó, một nhóm
học sinh, trong đó có Tín, do chưa đến giờ vào lớp nên đã leo vượt qua lưới B40 để
nghịch voi. Có nhiều em ném đá, có em kéo đuôi voi... Trong lúc voi giận dữ, Tín chưa
kịp chạy đi đã bị voi dùng vòi cuốn lại quật hai lần xuống đất mới thả ra. Nhiều học sinh
đã la lên và chạy vào khu bảo vệ đoàn xiếc, đánh thức những người đang ngủ trưa ở đây
để đưa Tín đi cấp cứu.
Ông Nguyễn Văn Hưng, phó đoàn xiếc Sao Mai, giải thích: trước khi xảy ra voi quật học
sinh, cả đoàn đang ăn cơm thì có thấy một nhóm học sinh vào chọi voi. Khi chúng tôi ra
tới nơi thì voi đã quật em Tín rồi. Ông Hưng cũng cho biết voi quật chết người là con voi
cái, làm xiếc đá bóng. Có thể do trời nắng nóng quá nên voi “bực bội” khi bị học sinh
nghịch phá.

14


Chủ tịch UBND P.Bình Đa Phạm Cành Tơ cho biết đoàn xiếc có ký hợp đồng với

phường giá 2,5 triệu đồng thuê sân bãi, điện, nước, công tác bảo vệ khán giả... để biểu
diễn xiếc thú duy nhất một đêm 10-4.
IV. Tổ chức nội dung tác phẩm báo trực tuyến
+ Xử lý kết cấu: mô hình hình tháp ngược. Logic thông tin: mới, lạ trước.
+ Câu càng ngắn càng tốt, không ôm đồm mệnh đề, tránh tình trạng lẫn ý, ý phụ át ý
chính
+ Mỗi đoạn một ý độc lập
+ Phần ý kiến nhân vật, tránh để nhân vật nói đi nói lại nhiều lần trong bài
+ Không viết lòng vòng, nên đi thẳng vào câu chuyện, vấn đề
+ Với những bài dài, nên có những tít xen chứa đựng thông tin. Tít xen (tít phụ) vừa tạo
ra những điểm nghỉ cho mắt, vừa có tác dụng lôi kéo công chúng
+ Tận dụng tất cả ưu thế trình bày và cập nhật của báo trực tuyến khi viết bài (ảnh, đồ
họa, liên kết, các định dạng văn bản…)
+ Độ dài một bài viết cho báo trực tuyến tùy thuộc vào thể loại, tùy thuộc vào tôn chỉ
mục đích và đối tượng của từng tờ báo, nhưng nhìn ở bình diện chung, các nhà chuyên
môn đều khuyến cáo không nên quá 800 chữ.
V. Chụp ảnh và biên tập ảnh cho website
+ Vai trò của hình ảnh:
- Bắt buộc;
Có thể thay thế cho bài viết;
Diễn đạt thông tin, tạo sự tin cậy
Mục đích sử dụng:
- Riêng lẻ: Đặt trong bài viết
- Nhiều hình ảnh: thực hiện bài báo thông qua hình ảnh (soundslides), thư viện ảnh, chùm
ảnh…
+ Một số lưu ý về hình ảnh:
- Bố cục theo nguyên tắc 2/3
- Điểm chết và đường chân trời
- Hậu cảnh và tiền cảnh
- Góc máy

- Hướng nhìn
- Khoảnh khắc bấm máy
- Thông tin trong bức ảnh
- Chú thích cho bức ảnh
+ Nguyên tắc chụp và biên tập ảnh:
1. Chọn góc máy hợp lý để có sự giao tiếp bằng ánh mắt với đối tượng được chụp

15


2. Chọn sử dụng phông rõ ràng

16


3. Chú ý nguồn sáng để làm nổi rõ chủ đề

4. Chọn chụp cận để làm nổi rõ chủ đề bức ảnh

5. Không đặt chủ đề vào giữa bức ảnh (các điểm chết)

17


6. Tránh sử dụng ảnh bị mất nét chủ đề

7. Phải chú ý các nguồn sáng

8. Khai thác ảnh đứng để tạo hiệu quả chiều sâu


18


9. Hãy biết “đạo diễn” cho một bức ảnh khi có thể

Tổ chức thực hiện
giao lưu trực tuyến
Đôi nét về hình thức – thể loại
+ Giao lưu trực tuyến là hình thức báo chí khai thác thế mạnh tương tác của báo online
+ Giao lưu trực tuyến nhìn từ hệ thống thể loại báo chí
+ Đặc điểm của giao lưu trực tuyến so với các hình thức tương tự trên phát thanh, truyền
hình
Khi nào chúng ta cần tổ chức giao lưu trực tuyến?
+ Khi công chúng muốn có ý kiến, sự lý giải không phải của nhà báo mà là của những
người có trách nhiệm. Do địa vị xã hội và chuyên môn của mình, họ có hiểu biết sâu sắc
hơn, thông tin tốt hơn nhà báo về vấn đề mà xã hội quan tâm.
+ Khi nhà báo không chứng kiến được sự việc. Công chúng cần “nghe” những người trực
tiếp tham dự cung cấp thông tin, giảm tối đa sự can thiệp của nhà báo vào phát ngôn của
nhân vật.
+ Khi chúng ta muốn giới thiệu những cá nhân đặc biệt với cái nhìn, quan điểm, trí tuệ,
tâm hồn, câu chuyện… của chính họ.
Phân loại (dựa theo tiêu chí nội dung)
1. Dạng có chủ đề thông tấn: khai thác/cung cấp thông tin từ những người có trách
nhiệm, liên quan…
2. Dạng có chủ đề tư vấn: lý giải, giải thích cho công chúng những vấn đề; cung cấp
phương pháp, nội dung có tính chất chuyên môn…
3. Dạng có chủ đề khắc họa chân dung nhân vật: cung cấp cho công chúng về chân dung
một nhân vật đặc biệt (thường là người nổi tiếng, nghệ sĩ, vận động viên..)
Trong thực tế, sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương đối và thông thường, có sự giao
thoa giữa các nhóm chủ đề trên trong nhiều cuộc giao lưu trực tuyến

Các bước tiến hành giao lưu trực tuyến
1. Công tác chuẩn bị:
+ Chuẩn bị chủ đề / góc tiếp cận
+ “Chuẩn bị” khách mời
- Nên mời tối đa bao nhiêu khách?
Tùy theo chủ đề giao lưu. Số lượng có thể là 1 hoặc hơn nhưng không nên quá 5 người.
Nhiều khách, nội dung sẽ loãng.

19


- Khách mời phải có tư duy tốt, có hiểu biết toàn diện về chủ đề, có năng lực diễn đạt, có
trách nhiệm liên quan v.v…
+ Chuẩn bị bối cảnh giao lưu
- Không gian giao lưu trực tuyến?
- Phông nền, trang trí, sắp đặt bàn ghế, máy móc… sao cho phù hợp với chủ đề buổi giao
lưu và thuận tiện cho tác nghiệp. Chú ý: bối cảnh giao lưu phải đảm bảo dễ chụp hình,
ghi hình cho sinh động, tránh tiếng ồn, tránh sự di chuyển…
+ Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật
- Máy vi tính cấu hình cao, số máy tương ứng với số PV/BTV nhập tin, số khách mời nếu
cần; máy tính xử lý ảnh/video clip…, máy tính biên tập và xuất bản…
- Đường truyền internet tốc độ cao, ổn định
- Phần mềm editor trực tuyến thân thiện, link các tính năng tổng hợp câu hỏi từ độc giả,
xử lý nhiều câu hỏi và câu trả lời, post nhiều câu hỏi và câu trả lời, post ảnh gần như
đồng thời.
+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi
+ Chuẩn bị… phương án dự phòng
2. Công tác quảng bá:
+ Nêu rõ chủ đề / vấn đề của buổi giao lưu, giới thiệu kỹ về các khách mời… để cho
công chúng tiện đặt câu hỏi trước

+ Ngoài việc giới thiệu trên báo online của mình, còn phải tranh thủ giới thiệu trên các
website khác, các kênh khác
+ Có thể đề ra các hình thức khen thưởng cho câu hỏi hay nhất nhằm thu hút trí tuệ của
công chúng góp phần làm nên thành công của cuộc giao lưu
3. Phân công công việc:
+ Phân công người đảm trách phần kịch bản và dẫn chương trình cho nội dung giao lưu
+ Phân công PV/BTV đảm trách phần nhập văn bản và biên tập nội dung trả lời của
khách mời
+ Phân công PV/BTV đảm trách phần chụp ảnh, ghi hình, ghi âm
+ Phân công một BTV giỏi chịu trách nhiệm đọc duyệt và cho xuất bản các nội dung
giao lưu…
+ Phân công người lo các công tác hậu cầu: đón khách, tiếp khách, đáp ứng các yêu cầu
đặc biệt của khách
4. Xây dựng kịch bản dẫn:
+ Kịch bản giao lưu trực tuyến và kịch bản “mở” do có sự tham gia của cộng đồng và
nội dung giao lưu. Tuy nhiên, ở góc độ tổ chức, cũng cần phải chủ động chuẩn bị một
kịch bản gồm các khâu: giới thiệu mục đích ý nghĩa của buổi giao lưu, giới thiệu khách
mời và đại biểu, bắt đầu đặt câu hỏi, các phần nội dung chính, các ghi chú cần thiết,
phần chào kết và cám ơn, tặng hoa cho khách mời v.v…
+ Kịch bản giao lưu trực tuyến cũng là văn bản dùng chung cho cả ê-kíp, có những quy
ước liên lạc khi thay đổi kịch bản hoặc thứ tự các phần việc trong kịch bản
+ Kịch bản phải thể hiện sự điều tiết nội dung, thời gian hợp lý cho cả ê-kíp cùng thống
nhất làm việc
5. Tác nghiệp:
+ Thống nhất các thao tác chuyên môn, các quy tắc trong quá trình giao lưu trực tuyến

20


+ Chủ động điều phối câu hỏi và nội dung giao lưu

+ Điều phối thống nhất và xử lý linh hoạt các phát sinh trong quá trình giao lưu
+ Xử lý các tình huống rủi ro
+ Biên tập câu trả lời:
+ Cắt bớt những nội dung thừa, không cần thiết.
+ Sắp xếp, thay đổi vị trí các phần trả lời cho hợp lý hơn.
+ Sửa chữa lỗi diễn đạt cho khách mời nhưng không được làm thay đổi tinh thần của
phát ngôn
6. Một số yêu cầu:
+ Cả ê-kíp phải tuân thủ sự chỉ đạo chung
+ Có cơ chế liên lạc giữa các bộ phận, đặc biệt là trong các buổi giao lưu ở nhiều không
gian khác nhau
+ Người dẫn chương trình và các BTV luôn lắng nghe và quan sát khi khách mời trả lời
để có thể kết nối tốt câu hỏi mới với khách mời phù hợp với những nội dung công chúng
gửi đến
+ Người xử lý câu hỏi của công chúng gửi đến phải nhanh, quyết đoán nhưng tránh sơ
sót
+ Trong rất nhiều trường hợp cần cho khách mời xem lại câu hỏi trước khi chính thức
post lên
+ Ảnh chụp phải sinh động, thể hiện được không khí buổi giao lưu (có toàn cảnh trung
cảnh và cận cảnh). Chú ý những khoảnh khắc đặc biệt của khách mời.
7. Xử lý tình huống:
+ Khi khách mời không chịu trả lời những câu hỏi “nhạy cảm”, câu hỏi “sốc”, câu hỏi
trách nhiệm
+ Khi khách mời không tới hoặc bị sự cố tới trễ
+ Khi đang giao lưu bị cúp điện
+ Khi đường truyền bị nghẽn mạch
+ Khi không có nhiều câu hỏi từ công chúng
+ Khi công chúng hỏi một câu quá khiếm nhã với khách mời
+ Khi khách mời trả lời quá lan man


21


1.

ÔN THI
NHẬP MÔN BÁO TRỰC TUYẾN
Cạnh tranh với các loại hình báo chí khác?

Cạnh tranh thông tin giữa các báo điện tử
Thứ sáu, 20 Tháng 4 2007 14:48 minhlq
Bởi vì thể loại tin chiếm phần lớn nội dung của các báo điện tử cho nên sự cạnh tranh giữa các báo này
trước hết và chủ yếu là cạnh tranh về việc đưa tin nhanh và chất lượng thông tin.
Đưa tin nhanh
Đưa tin nhanh là một lợi thế và cũng là một tiêu chí hàng đầu của các báo điện tử. Những sự kiện thời sự
nóng (breaking news) là trận địa nóng bỏng nhất. Họ thường huy động sức mạnh tổng lực cho những sự
kiện này.
Để chạy đua đưa tin sớm nhất, trước hết, báo điện tử có thể chỉ chạy một cái tít và một câu mở đầu tin để
thông báo sự kiện mới xảy ra. Sau đó họ mới bổ sung dần thông tin, ảnh, các dữ liệu khác.
Đối với những sự kiện lớn được công chúng quan tâm đặc biệt, họ còn có thể tường thuật trực tiếp sự kiện
bằng hình ảnh (web TV) và bằng chữ để độc giả có thể theo dõi liên tục sự kiện đang diễn ra.
Nhưng vấn đề quan trọng đầu tiên là làm thế nào để có được thông tin sớm nhất. Ngoài số lượng phóng
viên có hạn của mình theo dõi từng lĩnh vực, các báo chỉ có thể dựa vào mạng lưới đông đảo cộng tác viên
và cộng đồng bạn đọc thân thiết gắn bó với tờ báo. Tờ báo nào xây dựng được đội quân này đông đảo hùng
mạnh thì càng có nhiều cơ hội tiếp nhận được thông tin nhanh.
Một xu hướng mới của báo điện tử là công chúng tham gia ngày càng nhiều vào nội dung tờ báo. Trong rất
nhiều trường hợp, bạn đọc không chỉ thông báo sự kiện cho báo mà họ còn ghi hình chụp ảnh và tường
thuật sự kiện. Chẳng hạn như trong thảm hoạ sóng thần ở châu Á tháng 12-2004, nhiều khách du lịch châu
Âu đã viết nhật ký trực tuyến (blog) tường thuật sự kiện và chụp ảnh, quay camera nhiều hình ảnh đưa lên
mạng internet, sau đó được nhiều báo sử dụng.

Trong khi đó, một số đài ở Việt Nam với số lượng phóng viên lên tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn
người nhưng số phóng viên này lại chưa được huy động để giúp báo điện tử nâng cao sức cạnh tranh thông
tin.
Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là do chưa có cơ chế để mọi phóng viên trong cơ quan đều có
trách nhiệm săn tin.
Mặt khác, viết tin và làm các sản phẩm cho báo điện tử cũng có những yêu cầu riêng và đòi hỏi sức ép về
thời gian, kỹ năng sử dụng mạng internet cùng các thiết bị ngày càng tinh xảo phức tạp như máy tính xách
tay, máy ảnh, máy camera, xử lý ảnh bằng kỹ thuật số, dựng hình,... . Đây là một thách đố lớn đối với nhiều
nhà báo quen viết cho báo in hàng ngày, nhất là những nhà báo lớn tuổi.
Chất lượng thông tin
Đưa tin nhanh là một yếu tố hàng đầu của chất lượng thông tin trên báo điện tử, nhưng chất lượng thông tin
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó có ba yếu tố quan trọng là việc lựa chọn sự kiện thông tin,
khai thác chiều sâu thông tin và kỹ thuật viết tin theo phong cách hiện đại.
- Việc lựa chọn sự kiện đưa tin
Việc lựa chọn sự kiện đưa tin thể hiện tính chuyên nghiệp của phóng viên và toà soạn. Căn cứ để lựa chọn

22


sự kiện để đưa tin là giá trị thông tin của sự kiện. Mà giá trị thông tin của sự kiện phụ thuộc vào các yếu tố
chính là: kịp thời, gần gũi với bạn đọc (về không gian địa lý và về tâm lý) và tác động xã hội của sự kiện.
Trên thực tế, những tờ báo có xu hướng giật gân, câu khách nhiều khi không chú trọng đúng mức các yếu
tố chính yếu này mà lại đề cao quá mức các yếu tố như: kịch tính, tính mới lạ hay đời tư các nhân vật nổi
tiếng.
- Chiều sâu của thông tin
Cùng với việc cạnh tranh để đưa tin nhanh, các báo còn cạnh tranh về chiều sâu của thông tin. Sau khi cạnh
tranh để đưa lên mạng nhanh nhất thông tin ban đầu rồi, các báo tiếp tục cạnh tranh trong việc khai thác các
góc cạnh, đi vào chiều sâu, bản chất của sự kiện. Cũng như các phương tiện truyền thông khác, các báo
điện tử cũng có thể triển khai các bài phỏng vấn các nhân vật liên quan, viết chân dung nhân vật, viết
phóng sự về vấn đề mà sự kiện đặt ra, viết bình luận phân tích ý nghĩa của sự kiện và bày tỏ thái độ đối với

sự kiện.
Tuy nhiên, công cụ đắc lực nhất của báo điện tử là loại tin sâu với độ dài khoảng 300-400 chữ trở lên, với
cấu trúc rộng lớn, cho phép phóng viên có thể triển khai tới cả nghìn chữ. Kỹ thuật viết tin theo phong cách
hiện đại có thể được mô tả tóm tắt qua cấu trúc tin sâu sau đây.
- Cấu trúc tin sâu bao gồm
1. Đầu đề
Là thông tin quan trọng đầu tiên, thể hiện góc độ của sự kiện mà nhà báo lựa chọn, thông báo về giới hạn
nội dung của tin sẽ được đề cập, có vai trò chi phối toàn bộ nội dung của tin.
2. Mở đầu tin
Mở đầu tin gồm một hoặc hai câu ngắn gọn, chứa đựng những chi tiết thông tin được phóng viên coi là
quan trọng nhất. Phần mở đầu và đầu đề phải nói về cùng một chuyện chứ không nên nói về hai chuyện
khác nhau. Nhưng thông tin trong phần mở đầu đầy đủ, chi tiết hơn, hoàn chỉnh hơn, có thể gồm một hoặc
hai câu.
3. Trích dẫn
Tin sâu luôn cần có các câu trích dẫn trực tiếp, nó làm cho tin thêm sinh động và chân thật vì chúng là lời
nói đời thường sống động của những con người thật.
Nếu không có những câu trích dẫn, tin sẽ trở nên khô khan, nhạt nhẽo. Trong tin sâu nên có nhiều câu trích
dẫn, trải đều trong cả tin. Câu trích dẫn nên xuất hiện sớm, có thể là ở đoạn thứ hai sau phần mở đầu, hoặc
chậm nhất là ở đoạn thứ ba, thứ tư.
4. Nguồn tin
Tin nào cũng cần dẫn nguồn bởi vì phải có một ai đó là người cung cấp thông tin cho nhà báo, bản thân nhà
báo không phải là nguồn tin, trừ phi nhà báo trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia vào sự kiện hoặc với tư
cách một nhà quan sát thạo tin.
Nguồn tin phải rõ ràng, cụ thể, nếu là một người thì phải nêu tên tuổi chức vụ để bạn đọc có thể kiểm tra
được, không nên dẫn nguồn chung chung, mơ hồ. Một tin có thể dẫn nhiều nguồn khác nhau, có thể bổ trợ
cho nhau, cũng có thể khác nhau về chi tiết, về nhận định.
5. Giải thích
Đối với các khái niệm, thuật ngữ, hiện tượng mới khó hiểu phức tạp, cần phải giải thích để bạn đọc dễ hiểu.
Nhiều nhà báo không để ý các thuật ngữ chuyên môn gây khó hiểu cho rất nhiều độc giả. Kể cả độc giả có
trình độ cao, là nhà chuyên môn nhưng cũng chỉ am hiểu một lĩnh vực mà thôi và họ cũng không hiểu các

thuật ngữ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy, các nhà báo phải định nghĩa, giải thích các thuật
ngữ, các khái niệm khó hiểu mỗi khi chúng xuất hiện.

23


6. Phân tích
Cùng với việc đưa tin, đối với những sự kiện quan trọng, có thể viết tin sâu có phân tích, nêu thực chất vấn
đề, bản chất sự việc, dựa trên đánh giá của những nhân vật có thẩm quyền hay am hiểu vấn đề, chứ không
phải là ý kiến chủ quan của phóng viên.
Cũng dựa vào các chuyên gia nổi tiếng, nhà quan sát đáng tin cậy, tin sâu có thể nêu ý nghĩa và tầm quan
trọng của sự kiện; nêu bối cảnh của sự kiện, lý giải nguyên nhân sự kiện; nêu những hệ quả/hậu quả của sự
kiện. Phóng viên trích dẫn lời bình luận, nhận định, ý kiến, thái độ của các nhà quan sát, nhà chuyên môn,
nêu dư luận công chúng về sự kiện.
7. Thông tin bối cảnh
Nhắc lại chuyện cũ, các thông tin cũ liên quan, bối cảnh của sự kiện.
Nhiều bạn đọc có thể không theo dõi các sự kiện một cách thường xuyên, không biết đầu đuôi câu chuyện,
nên phóng viên cần phải nhắc lại một cách vắn tắt những gì đã xảy ra trước đây để bạn đọc hiểu được đầy
đủ toàn bộ câu chuyện mới xảy ra. Tuy nhiên cũng có nhiều người đã biết các diễn biến trước đó rồi, nên
không cần viết quá dài dòng chi tiết trong phần này. Bối cảnh còn có nghĩa là giới thiệu với bạn đọc một
bối cảnh, khuôn khổ rộng lớn hơn mà trong đó câu chuyện mình kể đang diễn ra.
8. So sánh
So sánh sự việc, hiện tượng với chính nó trong các thời điểm trước đây.
So sánh nó với các cái khác tương tự, cùng loại. So sánh nó với triển vọng trong tương lai gần, xa.
Nhóm 6 – Sự cạnh tranh của báo mạng điện tử với các loại hình báo chí khác
Posted on September 21, 2009 by k29bm
Báo mạng – một loại hình báo chí tuy chỉ vừa mới xuất hiện trong vài năm trở lại đây – nhưng đã có
một chỗ đứng nhất định trong lòng mọi độc giả. Sự xuất hiện của báo mạng điện tử không ít thì nhiều
đã gây ra những xáo trộn đối với các loại hình báo chí khác. Cuộc cạnh tranh giữa báo truyền hình,
báo nói, báo viết và báo điện tử hiện nay vẫn chưa đến hồi ngã ngũ, nhưng dường như tại thời điểm

này, báo điện tử đang chiếm ưu thế, khẳng định sức mạnh của một loại hình báo sinh sau đẻ muộn
nhưng đầy tiềm năng.
Tháng 10/1993, Khoa báo chí Đại học Florida (Mỹ) tung ra cái mà họ tự tin là tờ báo Internet đầu tiên.
Năm 1994, phiên bản online của tạp chí Hotwired chạy những banner quảng cáo đầu tiên và hàng loạt báo
khác ở Mỹ ồ ạt mở website. “Cơn sốt vàng” của thời thông tin trực tuyến bắt đầu. Chỉ sau một thời gian
ngắn, báo điện tử đã vươn lên chiếm ngôi của những loại báo lúc bấy giờ như báo in, báo hình hay báo nói.
Theo các số liệu thống kê, số lượng độc giả của báo mạng tăng 30%, số lượng người đọc các tờ báo online
hàng tháng là 55,5 triệu lượt. Một khảo sát lần đầu tiên về độc giả Internetcuar hãng dịch vụ thống kê truy
cập Nielsen/NetRatings công bố mới đây cho thấy 1/5 số người lướt web thích đọc báo mạng hơn các phiên
bản phi trực tuyến. Vậy nguyên nhân do đâu mà báo mạng điện tử đã có được vị trí như ngày hôm nay?
Ưu thế đầu tiên của báo điện tử chính là khả năng cập nhật thông tin nhanh nhạy, cùng với sự phong phú,
đa dạng của các thông tin này. Với cùng một thông tin như nhau, nếu là báo hình hoặc báo nói thì phải đợi
đến giờ phát sóng của các bản tin, hay với báo in thì phải chờ công đoạn kiểm duyệt thông tin, in báo, sau
đó phải đợi đến tận ngày phát hành thì thông tin mới được đến với tay bạn đọc. Trong khi đó, với báo mạng
bạn chỉ cần một cái nhấp chuột, tất cả những thông tin nóng hổi nhất sẽ luôn được cập nhật, gần như cùng
một lúc với sự kiện diễn ra. Cái mà người đọc cần chính là sự nhanh nhạy trong các thông tin, và báo mạng
đã đáp ứng được nhu cầu đó của các độc giả. Báo điện tử đã tham gia vào đời sống xã hội với tư cách như
một cơ quan đưa tin chuyên nghiệp.
Bên cạnh đó, những thông tin mà báo mạng đưa ra đều được trải rộng trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế – chính
trị đến lĩnh vực văn hóa – xã hội hay thể thao, thời tiết, người đọc có thể tùy chọn theo từng mục đề mà

24


mình thích để đọc báo. Luợng thông tin mà báo mạng đưa ra không hề thua kém những loại hình báo chí
khác về sự đa dạng, phong phú.
Một trong những lợi thế khác của báo mạng chính là ở khả năng lưu trữ dường như là vô tận của các thông
tin. Độc giả chắc sẽ cảm thấy khó khăn nếu muốn lưu trữ hay bảo quản những thông tin đã được phát sóng
ở những chương trình phát thanh hoặc truyền hình. Với báo điện tử, người đọc có thể tìm kiếm các tài liệu
cần thiết, sau đó có thể dễ dàng lưu (save) các thông tin đó để phục vụ cho mục đích của bản thân. Những

tài liệu đó sẽ được lưu trữ một cách an toàn mà không chịu ảnh hưởng của thời gian, không gian như khi ta
lưu giữ thông tin trên báo in. Không những thế, bằng cách đánh dấu các bài đọc, độc giả cũng tìm lại được
các thông tin một cách dễ dàng. Ngoài ra, sức chứa dữ liệu của báo điện tử cũng vượt mặt những loại hình
báo chí khác. Nếu như với báo truyền hình và báo phát thanh, lượng thông tin phải phụ thuộc vào thời
lượng phát sóng của từng chương trình, hay với báo viết phải phụ thuộc vào số lượng trang báo thì báo điện
tử lại không hề bị giới hạn về lượng thông tin được đưa ra.
Báo mạng còn có tính chủ động cao hơn so với các loại hình báo chí khác. Độc giả có quyền được lựa chọn
thông tin một cách nhanh chóng. Với một chương trình truyền hình, người xem có thể phải mất một khoảng
thời gian để đánh giá chương trình hay hay dở thì với một thông tin trên báo mạng, người đọc dễ dàng nhận
ra thông tin mình có muốn theo dõi hay không chỉ qua những dòng chữ đầu tiên. Ngoài ra, giữa độc giả và
tòa soạn của một tờ báo mạng luôn có sự tương tác rất cao. Người đọc dễ dàng gửi ý kiến về một bài báo
ngay lập tức (đối với một số tờ báo mạng phía dưới bài báo luôn có một khung dành riêng cho ý kiến độc
giả), và qua đó tòa soạn cập nhật những nhận xét hay những thông tin nóng được nhanh chóng hơn.
Với những thông tin lí thú ở trên những trang báo điện tử, bạn đọc dễ dàng chia sẻ nó cùng với bạn bè hay
người thân bằng nhiều cách dễ dàng và thuận tiện như gửi email hoặc gửi trực tiếp vào yahoo messenger.
Bằng cách đó, thông tin sẽ lan truyền rộng rãi, có sức ảnh hưởng sâu rộng hơn.
Còn một ưu thế nữa của loại hình báo điện tử đó chính là yếu tố đa phương tiện (multimedia). Có thể coi
báo điện tử hiện nay là sự hội tụ của cả báo giấy (text), báo tiếng (audio) và báo hình (video). Người đọc
lướt web không chỉ được cập nhật thông tin dưới dạng chữ viết mà còn có thể nghe rất nhiều kênh phát
thanh và xem truyền hình ngay trên các website báo chí. Ưu thế này không hề xuất hiện ở các loại hình báo
khác.
Chính những sự ưu việt của báo điện tử đã giúp loại hình báo này “lên ngôi”, đồng thời đẩy những loại
hình báo chí khác rơi vào khủng hoảng. Đầu tiên phải kể đến báo in khi vào năm 2008, 5 tờ báo lớn nhất
nước Mỹ đều sụt giảm lượng phát hành. Tờ New York Times giảm 3.6%, Los Angeles Times giảm 5.2%,
Daily News giảm 7.2%, New York Post giảm 6.3%. Tờ nhật báo hàng đầu Christian Sciene Monitor (CSM)
cũng tuyên bố sẽ đình bản in hằng ngày từ tháng 4/2009. Hàng loạt vụ phá sản của báo chí Mỹ cũng xảy ra
trong năm 2008, khi mà báo điện tử vươn lên chiếm thế độc tôn.
Tại Việt Nam, theo thông tin từ Cục Báo chí (Bộ TT&TT), đến tháng 5/2009 đã có 4 tờ báo xin ngừng hoạt
động, 5 tờ báo xin giảm kì, 6 báo xin giảm trang. Có báo lớn đã phải cắt giảm 20% lương nhân viên.
Với báo hình, tại Mỹ số người xem truyền hình đã giảm 2,5 triệu chỉ trong vòng từ 2006 đến 2008. Ngoài

ra thời lượng xem TV mỗi ngày cũng giảm một cách đáng kể. Nguyên nhân là bởi sự thiếu cải tiến trong
các chương trình truyền hình, chưa đáp ứng được nhiều nhu cầu của độc giả. Trong khi đó với báo điện tử,
dễ dàng thấy được rằng chất lượng hình ảnh và âm thanh không hề thua kém truyền hình hay phát thanh.
Sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ Internet nói chung hay báo điện tử nói riêng đã giúp nhiều công
ty kiếm lời bằng cách bán quảng cáo thông qua các đoạn video phát trên mạng. Từ trước đến nay ưu thế
này chỉ dành riêng cho truyền hình, và xu hướng này của các nhà quảng cáo đã trở thành một thách thức
lớn đối với mạng lưới truyền hình trên thế giới. Nhiều tờ báo in đã phải lập tức triển khai phiên bản điện tử,
trong đó phần lớn là phát hành lại các bài báo từ bản giấy và cập nhật thêm thông tin riêng vừa để cạnh
tranh với báo điện tử, vừa là không thể cưỡng lại xu thế điện tử hóa. Trên thế giới, các ông trùm báo chí đã
“kết án” báo in khi cho ra đời hàng loạt phiên bản điện tử, khiến công chúng không bỏ tiền mua báo in nữa.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×