Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ mối QUAN hệ GIỮA điều KIỆN KHÁCH QUAN và NHÂN tố CHỦ QUAN TRONG PHÁT TRIỂN lý TƯỞNG xã hội CHỦ NGHĨA ở THANH NIÊN QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 186 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chủ nghĩa cộng sản

CNCS

Chủ nghĩa tư bản

CNTB

Chủ nghĩa đế quốc

CNĐQ

Chính trị quốc gia

CTQG

Quân đội nhân dân

QĐND

Quốc phòng toàn dân



QPTD

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

Xã hội chủ nghĩa

XHCN
MỞ ĐẦU

1 - Tính cấp thiết của đề tài .
Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Bồi dưỡng thê' hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" [55, 834]. Lời di huấn đó của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, luôn nhắc nhở chúng ta phải thường xuyên quan
tâm đến bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Một trong những nội dung bồi dưỡng,
giáo dục thế hệ trẻ rất đáng quan tâm là nâng cao trình độ giác ngộ lý tưởng XHCN cho
họ. Đó là một nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách, là một đòi hỏi khách quan có ý nghĩa
chiến lược của cách mạng nước ta, một nhiệm vụ lâu dài, đầy khó khăn và phức tạp.


Lý tưởng XHCN có vai trò to lớn, chi phối các phẩm chất chính trị, đạo đức của thanh
niên, với tư cách là những người chủ tương lai của đất nước. Nó quy định toàn bộ suy
nghĩ và hành vi, hành động của con người; có vai trò dự báo, định hướng và xây dựng
niềm tin cho thanh niên vào sự tất thắng của CNXH, vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Do đó, nó có khả năng phát huy mọi sức mạnh của
nhân tố con người để vươn lên đạt tới những mục tiêu, hoài bão cao đẹp của tuổi trẻ.
Đối với quân đội, lý tưởng XHCN là nhân tố rõ cơ bản, cực kỳ quan trọng góp phần

xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn luôn là
công cụ bạo lực sắc bén và lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, của nhân dân trong mọi
tình huống.
Lý tưởng XHCN đã và đang trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Song, hiện
nay nó đang đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng, chịu sự phán xét và khảo nghiệm
hết sức nghiêm khắc từ mọi phía.
Sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Đông Âu, Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta.
Đông đảo cán bộ, nhân dân lo lắng , một số dao động, hoài nghi về tiền đồ của CNXH.
Cùng với tác động mặt trái của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường và âm mưu "diễn biến hoà bình" của CNĐQ, làm cho một bộ phận thanh niên
nói chung, thanh niên quân đội nói riêng có biểu hiện phai nhạt lý tưởng XHCN, từ đó họ
chạy theo những lý tưởng sống, thực dụng thấp hèn. Vì vậy, hơn lúc nào hết phải bồi
dưỡng, phát triển lý tưởng XHCN cho thanh niên là một đòi hỏi khách quan, cấp bách.


Quá trình phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội, tuân theo v?n đề có tính
quy luật của nó. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan.
Hiện nay cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan bên cạnh những mặt tốt, mặt
thuận lợi, cũng còn tồn tại không ít những cản trở, khó khăn đối với sự phát triển lý tưởng
XHCN ở thanh niên quân đội. Từ đó nảy sinh những mâu thuẫn cần được nhận thức và
giải quyết kịp thời để nâng cao hiệu quả quá trình phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên
quân đội. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn, liên quan đến
sức mạnh chiến đấu của quân đội và vận mệnh, tương lai của đất nước. Đồng chí éỗ
Mười, nguyên Tổng bí thư của Đảng ta đã nói tại Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ngày 28-11-1997 : "Sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, đất nước ta bước vào thềm XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới
hay không; cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không là tuỳ
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng lý tưởng XHCN, đạo đức cách mạng

và trình độ khoa học, công nghệ cho thê hệ trẻ [60].
Với những lý do trên, tác giả luận án đã lựa chọn và thực hiện đề tài: "Mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong phát triển lý tưởng XHCN ở thanh
niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay".
2 . Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Vấn đề giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân lao động nói chung, cho thế
hệ trẻ nói riêng, luôn được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhiều lãnh tụ cách mạng dày công nghiên cứu và để lại nhiều công trình khoa
học về giáo dục cộng sản có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn như: “Nhiệm vụ của đoàn


thanh niên" của V.I. Lênin (Toàn tập, T 41, Nxb. Tiến bộ, M. 1978. Tr. 354 - 378); "Về
vai trò và nhiệm vụ của thanh niên" của Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Sự thật, H. 1978,
103 Tr.). Các nhà chính trị, quân sự Xô Viết trước đây đã nghiên cứu khá sâu sắc, toàn
diện vấn đề lý tưởng, lý tưởng chiến đấu của thanh niên nói chung và thanh niên quân đội
Xô Viết nói riêng. Họ đã để lại những công trình khoa học đồ sộ như : "Giáo dục cộng
sản", 2 tập. Nxb Thanh niên của M.I.Ca1inin; "Cơ sở chính trị - tinh thần của sức mạnh
quân sự”; “Những nhân tố tinh thần của sức mạnh chiến đấu của quân đội”... của tập
thể: PGS, đại tá B.A.Bê-lức, PTS, PGS, đại tá Đ.A.Vôn-cô-gô-nốp, TS, GS, đại tá X.Đôdi-u-ba...Ở nu?c ta th?i gian qua dó cú nhi?u cụng trỡnh khoa h?c, nhi?u cu?c h?i th?o, h?
i ngh?, di?n dàn liờn quan d?n v?n d? giỏo d?c, b?i du?ng, phỏt tri?n lý tu?ng XHCN ở
thanh niờn núi chung, thanh niờn quõn d?i núi riờng. Trong dú dỏng chỳ ý là “Công tác
giỏo d?c và s? nghi?p b?i du?ng thế hệ cách mạng cho đời sau” của Tố Hữu. (Nxb. TS.
H. 1980. Tr. 37 - 43);

“Những vấn đề lý luận về CNXH và về con đường đi lên CNXH

ở nước ta” - Đề tài KX - 01 cấp Nhà nước do GS, TS Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm;
“Mấy vấn đề về xây dựng lý tưởng cho thanh niên hiện nay” của Vũ Oanh (Tạp chí Cộng
sản số 11 tháng 6 năm 1996. Tr. 3 - 6); “Thanh niên với việc rèn luyện lý tưởng cách
mạng” của Hữu Thọ (Báo Nhân dân số 15436 - 15437 ngày 1 và 2 - 10 - 1997)… Trong

lĩnh vực quân sự cũng có nhiều công trình tiếp cận về vấn đề mối quan hệ khách quan,
chủ quan trong xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, bản chất giai cấp công
nhân, thế giới quan khoa học cho quân nhân là hạ sĩ quan chiến sỹ và sỹ quan trẻ như:
“Mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan - nhân tố chủ quan trong phát triển
thế giới quan khoa học ở sỹ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”- Luận án
thạc sỹ của Đặng Văn Loạt; “Đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển phẩm chất


chính trị của thanh niên quân đội ta trong giai đoạn hiện nay” - Luận án phó tiến sỹ của
Nguyễn Văn Quyết.
Tuy vậy cho đến nay chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu dưới góc độ triết học
- xã hội học về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong phát
triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội hiện nay. Bởi vậy, đề tài luận án mà tác giả
lựa chọn không trùng lặp với các đề tài khoa học khác đã được thực hiện. Tác giả hy
vọng đóng góp một phần nhỏ bé làm sâu sắc hơn cả về mặt lý luận và thực tiễn của quá
trình phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội nói riêng và thanh niên cả nước nói
chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
Mục đích: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trong phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam, từ đó
đưa ra một số giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ khách quan - chủ quan để phát
triển lý tưởng XHCN ở thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay.
Để đạt mục đích trên luận án có nhiệm vụ :
1- Chứng minh sự thống nhất biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan là vấn đề có tính quy luật trong phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên Quân đội
nhân dân Việt Nam.
2 - Làm rõ những biểu hiện đặc thù của lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội; thực
trạng, nguyên nhân và những yêu cầu, mâu thuẫn trong phát triển lý tưởng XHCN ở
thanh niên quân đội ta hiện nay.



3 - Đưa ra một số giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan để phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội ta hiện
nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận án được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ vật chất và ý thức; tồn tại xã hội và ý thức xã hội ; cơ sở
kinh tế và kiến trúc thượng tầng; khách quan và chủ quan; chủ thể - khách thể; con người
và xã hội; giáo dục và tự giáo dục... Những quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt
Nam qua các văn kiện các đại hội Đảng, các nghị quyết của Bộ Chính trị và Ban chấp
hành Trung ương Đảng, các bài nói và viết của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước liên
quan đến thanh niên và giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên nói chung, thanh
niên quân đội nói riêng. Các nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, các chỉ thị của
Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, các bài nói và viết của các đồng chí lãnh đạo, chỉ
huy quân đội về tình hình nhiệm vụ quân đội, về thanh niên quân đội. Đồng thời luận án
cũng vận dụng lý luận của một số khoa học liên ngành như CNXH khoa học, Tâm lý học,
Giáo dục học, Xã hội học và dựa vào kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học cấp
Nhà nước, cấp Bộ, các luận án khoa học của đồng nghiệp; sử dụng một số thông tin khoa
học được công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các báo chí trong nước và quốc tế có
liên quan đến đề tài.
Về thực tiễn, luận án dựa vào tình hình thực tiễn của thế giới nói chung, của phong trào
XHCN nói riêng; tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước trong công


cuộc đổi mới; tình hình mọi mặt của quân đội. Đặc biệt là thực trạng của thanh niên và lý
tưởng của họ nói chung và thanh niên quân đội nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận chung là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp cơ bản là: kết hợp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; tiếp cận hệ

thống; kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Ngoài ra tác giả luận án còn
sử dụng các phương pháp khác như điều tra xã hội học, phương pháp quy nạp, diễn dịch.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
1- Bước đầu tiếp cận khái niệm, cấu trúc lý tưởng XHCN và nêu lên những biểu
hiện đặc thù của lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội ta hiện nay.
2- Đưa ra và phân tích một số vấn đề có tính quy luật về mối quan hệ giữa điều kiện
khách quan, nhân tố chủ quan trong phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên Quân đội
nhân dân Việt Nam.
3- Đề xuất một số giải pháp cơ bản, đồng bộ giải quyết mối quan hệ khách quan - chủ
quan để phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận : Với một số kết quả bước đầu đã đạt được, luận án góp phần nhận
thức sâu sắc, đầy đủ hơn về lý tưởng XHCN và những biểu hiện của nó ở thanh niên quân
đội hiện nay; vấn đề có tính quy luật, con đường và biện pháp để phát triển lý tưởng
XHCN ở thanh niên quân đội hiện nay. Luận án cũng cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy trong quân đội một cách nhìn mới, khách quan và toàn diện về thế hệ trẻ hiện nay nói
chung và thanh niên quân đội nói riêng, từ đó nhận rõ trách nhiệm chính trị, nâng cao


năng lực hoạt động thực tiễn để giáo dục, bồi dưỡng thanh niên quân đội trở thành những
con người mới "vừa hồng, vừa chuyên" cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy ở các nhà trường quân đội, làm cơ sở cho các cấp lãnh đạo và chỉ huy
quân đội trong nhận thức về thanh niên, trong hướng dẫn hoạt động thực tiễn về công tác
thanh niên và phong trào thanh niên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Luận án có 179 trang gồm: Mở đầu; 3 chương (7 tiết); kết luận; danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


Chương 1
LÝ TƯỞNG XHCN VÀ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT TRONG PHÁT TRIỂN
LÝ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa và biểu hiện của nó ở thanh niên quân đội hiện
nay.
1.1.1. Lý tưởng XHCN và quá trình hình thành, phát triển của nó.
Trong lịch sử tư tưởng triết học, vấn đề lý tưởng nói chung, lý tưởng XHCN nói
riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà triết học kể cả phương Đông và phương
Tây. Lý tưởng theo gốc chữ la tinh là Ideal, được bắt nguồn từ chữ Idea có nghĩa là ý
tưởng. Nhưng, nếu ý tưởng là để chỉ chung những suy nghĩ, những quan niệm của con


người ta, thì lý tưởng là ý tưởng sâu sắc, đã đạt tới cấp độ nhận thức lý tính và chi
phối hành vi của chủ thể.
Theo quan điểm của Hê ghen ( 1770-1831 ) "Lý tưởng là sự thống nhất giữa tính
tương đối và tính tuyệt đối, giữa cái hữu hạn ( hiện thực ) và vô hạn (khái niệm )" [4].
Tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan nhưng Hê ghen vẫn thừa nhận lý tưởng
là sự thống nhất giữa tư tưởng và hiện thực. Theo Ông, thiếu nền tảng xã hội thì lý
tưởng chỉ là ảo tưởng, và Ông coi chuẩn mực của lý tưởng là chân lý.
Các nhà triết học duy vật siêu hình cũng bàn nhiều đến lý tưởng. Nhưng theo họ lý
tưởng là mặt đối lập tuyệt đối với cái hiện có, có thực. Lý tưởng là cái hoàn thiện,
hoàn thành ( nhất thành bất biến ) còn hiện thực cụ thể thì luôn luôn không hoàn
thiện và biến đổi. "Cho nên lý tưởng cũng giống như chân trời, càng tới gần thì lại
càng lùi xa một cách vô tận" [82, 345]. Hạt nhân hợp lý của các nhà triết học duy vật
siêu hình là ở chỗ họ thừa nhận lý tưởng là một hình mẫu cao đẹp, hoàn mỹ.
Các quan niệm trên về lý tưởng đều có những hạn chế nhất định, do điều kiện lịch
sử và ý thức giai cấp. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, quan niệm về lý tưởng được
xem xét theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mới phản ánh đúng bản
chất khoa học của nó. Ph. Ăng ghen viết: "Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phủ

nhận lý tưởng, mà chỉ đặt lý tưởng trên cơ sở duy vật, tức là cơ sở khoa học. Chủ
nghĩa duy vật cũ ( siêu hình ) không trung thành với bản thân mình. Vì nó coi những
động cơ lý tưởng là những nguyên nhân cuối cùng, chứ không phải nghiên cứu xem cái
gì ẩn sau động cơ ấy và những động lực của động cơ ấy là gì ?. . Vấn đề không phải
là những động cơ của cá nhân riêng lẻ, dù là những cá nhân xuất sắc nhất mà chính
là những động cơ làm cho những quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn,


những giai cấp trọn vẹn chuyển động. Và ở đây không phải là sự chuyển động nhất
thời, thành sự nổi dậy, sự bùng cháy lửa rơm, chóng tắt mà là những hành động lâu
dài, đưa đến những biến động lịch sử vĩ đại” [4, 438] .
Theo từ điển tiếng Việt lý tưởng là "mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất” có sức hấp
dẫn, lôi cuốn con người, cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại vươn tới, tạo ra
những chuyển động lịch sử vĩ đại. Trong từ điển "Giáo dục cộng sản" bằng tiếng Nga
xuất bản năm 1984, lý tưởng được quan niệm là sự phản ánh hiện thực một cách đặc
biệt trong ý thức con người hoặc một nhóm xã hội nào đó dưới dạng những kiểu mẫu,
hình tượng, chuẩn mực hoàn mỹ mà con người phấn đấu đạt tới. Như vậy, lý tưởng
thuộc về ý thức xã hội phản ánh và bị quy định bởi tồn tại xã hội, đồng thời tác động
tích cực trở lại đối với tồn tại xã hội. Hoạt động theo lý tưởng, sáng tạo ra các sản
phẩm ( vật chất hoặc tinh thần) theo lý tưởng là hình thức hoạt động sống đặc thù
của con người.
Lý tưởng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy con người vươn tới. Lý tưởng
của con người sẽ làm cho họ có thái độ tích cực trong nhận thức, nồng nhiệt trong
tình cảm, mãnh liệt trong ý chí và quyết tâm trong hành động, nâng sức mạnh của
con người lên gấp bội. Lý tưởng có vai trò dự báo, định hướng và xây dựng niềm tin
cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Tuỳ theo các lĩnh vực cụ thể của tồn tại xã hội được phản ánh trong lý tưởng, có thể
phân thành các loại lý tưởng khác nhau như: lý tưởng xã hội, lý tưởng đạo đức, lý
tưởng thẩm mỹ... Các loại lý tưởng đó đều có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, trong
đó lý tưởng xã hội giữ vai trò quan trọng nhất, chi phối định hướng các lý tưởng khác.



Trong khuôn khổ của đề tài luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về lý tưởng xã
hội và một loại hình của nó là lý tưởng XHCN.
Lý tưởng xã hội là "quan niệm phù hợp với lợi ích kinh tế và chính trị của một tập
đoàn xã hội, một giai cấp nào đó về một chế độ xã hội, theo họ là hoàn thiện nhất, tốt
đẹp nhất. Chế độ đó là mục tiêu cuối cùng của những ước vọng và mọi hoạt động của
tập đoàn xã hội, giai cấp ấy” [82, 345].
Lý tưởng xã hội bị quy định bởi các quan hệ xã hội thống trị và khi cá thể hoá ở mỗi
con người thì còn bị chi phối bởi các đặc điểm tâm lý, tinh thần của từng cá nhân.
Trong lịch sử, lý tưởng xã hội của các tập đoàn, giai cấp tiến bộ đều phù hợp ở mức
độ nào đó với xu hướng phát triển khách quan của xã hội . Những lý tưởng xã hội đó
đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của những phong trào cách mạng đấu tranh phủ định
những chế độ xã hội đã lỗi thời lạc hậu, xây dựng chế độ xã hội mới tiến bộ hơn.
Lý tưởng xã hội mang dấu ấn giai cấp sâu sắc và bao giờ cũng được thể hiện ra với
tư cách là một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
của giai cấp thống trị xã hội.
Lịch sử lý tưởng xã hội loài người cho đến nay đã tồn tại và phát triển qua nhiều
mô hình khác nhau, có giai đoạn song song tồn tại nhiều mô hình lý tưởng xã hội. Lý
tưởng xã hội ra đời sau bao giờ cũng kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của lý tưởng
xã hội trước và hoàn thiện, tiến bộ hơn lý tưởng xã hội trước nó. Quá trình thay thế
lý tưởng xã hội tiến bộ đối với lý tưởng xã hội đã lỗi thời, lạc hậu diễn ra "như một
quá trình lịch sử tự nhiên". Nguyên nhân xét đến cùng của sự thay thế đó là sự phát
triển của tồn tại xã hội - hiện thực khách quan xã hội. Do vậy, sự xuất hiện lý tưởng
XHCN cũng là một tất yếu khách quan của lịch sử.


Lý tưởng XHCN là một nấc thang mới trong sự phát triển của lý tưởng xã hội nói
chung .
Theo C. Mác : " Lý tưởng cao cả của CNXH là xây dựng một xã hội công bằng, mọi

người đều có quyền lao động và được phân phối theo lao động, không còn cảnh người
bóc lột người” [46]. " Thủ tiêu lao động bị tha hoá, giành lại bản chất người cho con
người, phát triển mọi khả năng của mỗi cá nhân tự do. Đó chính là chủ nghĩa nhân
đạo triệt để. Con người phát triển toàn diện là một mẫu lý tưởng về mặt triết học. Đó
là hạt nhân của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa [47].
Theo Ph. Ăng ghen : " CNCS là chủ nghĩa nhân đạo thực sự, là sự mở đầu của lịch
sử loài người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do" [1]. “Lý tưởng cộng sản
là đem lại hạnh phúc, lợi ích cho giai cấp, dân tộc, nhân loại" [2].
Hồ Chí Minh khái quát CNXH dưới nhiều góc độ khác nhau : “CNXH là xã hội ngày
càng tiến,vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” [55, 591]. “CNXH là mọi
người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do” [52, 396]. "CNXH là làm cho mọi
người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” [58, 97]. Và Người khẳng
định : “Suốt đời tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [59, 162].
Những luận điểm trên đây đều có điểm chung là xây dựng một chế độ xã hội tốt
đẹp, vì mục tiêu giải phóng con người, vì hạnh phúc của con người.
Từ những luận điểm có tính phương pháp luận trên đây, có thể quan niệm: lý tưởng
XHCN là những quan niệm, ước mơ, hoài bão, khát vọng, nhu cầu, mục đích có cơ sở


khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động về một chế độ xã hội có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chê'độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu; xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh, không có áp bức, bóc lột
giai cấp và dân tộc; con người được làm chủ, có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện.
Xét về hình thái ý thức, lý tưởng XHCN và lý tưởng CSCN có bản chất giống nhau.
Tuy nhiên, xét về nội dung và đặc điểm cụ thể, lý tưởng XHCN với lý tưởng CSCN có
những điểm không hoàn toàn trùng khít nhau, thể hiện ở trình độ phát triền cao thấp
khác nhau.

Cấu trúc của lý tưởng XHCN là một chỉnh thể biện chứng của các bộ phận hợp
thành: tình cảm cách mạng, tri thức khoa học và niềm tin khoa học.
Tình cảm cách mạng là sự cảm động, xúc động của con người trong quan hệ của
mình đối với thực tại xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm của con người
đóng một vai trò to lớn trong hành vi của con người, trong hoạt động thực tiễn và nhận
thức của con người. Tình cảm tích cực nâng cao năng lực hoạt động sống của con
người, còn tình cảm tiêu cực thì hạ thấp năng lực ấy.
Tình cảm cách mạng là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực cách
mạng, phản ánh quan hệ của con người với con người, với tổ chức, với phong trào
cách mạng trong quá trình đấu tranh vì CNXH và CNCS. Đó là tình yêu tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; có thái độ tích cực trong cuộc sống; biết quý
trọng lao động, nhân cách, phẩm giá con người; có lòng căm thù giặc sâu sắc và tích
cực đấu tranh chống mọi biểu hiện tham ô, lãng phí, sa đoạ về phẩm chất đạo đức và
các tệ nạn xã hội khác.


Tình cảm cách mạng được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học và lòng nhân
đạo cộng sản. Tình cảm cách mạng là hình thức biểu hiện trực tiếp, cụ thể và tập
trung nhất của lý tưởng XHCN; là “thước đo” độ sâu, độ chín của lý tưởng XHCN.
Tình cảm cách mạng nâng cao năng lực hoạt động tích cực, sáng tạo của người
cách mạng, là động lực thôi thúc họ vượt lên, đạp bằng mọi trở ngại khó khăn, chiến
đấu đến hơi thở cuối cùng vì độc lập, tự do và hạnh phúc của Tổ quốc, của nhân dân.
Tình cảm cách mạng nâng cao năng lực hoạt động sống của con người, giúp cho
người cách mạng biết kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; lợi ích giai
cấp, dân tộc và nhân loại.
Tri thức khoa học là “sản phẩm của hoạt động thực tiễn xã hội và tư duy của con
người, làm tái hiện trong tư tưởng dưới hình thức ngôn ngữ, những mối liên hệ khách
quan, hợp quy luật của thế giới khách quan đang được cải biến trên thực tế” [ 82,
596]. Tri thức khoa học là sự hiểu biết của con người về bản chất và quy luật vận
động khách quan của tự nhiên, xã hội, tư duy. Nó là cơ sở vững chắc, mang lại hiệu

quả cho hoạt động thực tiễn.
Tri thức khoa học là một thành tố rất quan trọng của lý tưởng XHCN, là cơ sở để
xây dựng niềm tin khoa học của con người.
Tri thức khoa học giúp cho những người cách mạng nắm vững những quy luật vận
động và phát triển khách quan của lịch sử; trên cơ sở đó mà quyết tâm hành động
theo những quy luật đó, tiến hành thắng lợi cách mạng XHCN, xoá bỏ CNTB và xây
dựng thành công CNCS văn minh. Tri thức khoa học cũng giúp cho những người cách
mạng biết hành động như thế nào để có thể thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng


thành công xã hội CSCN văn minh một cách có hiệu quả nhất, ít tổn thất nhất; biết
phát hiện ra những mâu thuẫn và cách giải quyết các mâu thuẫn đó; biết dự báo khoa
học về tương lai để định hướng đúng đắn những hành động của mình.
Niềm tin khoa học là sự tin tưởng trước hết vào những lý luận khoa học đã được
kiểm nghiệm trong thực tiễn và sau đó là cả những lý thuyết được đề xuất có căn cứ
khoa học vững chắc tuy chưa có điều kiện kiểm nghiệm hoàn toàn trong thực tiễn.
Trường hợp sau, thường xảy ra đối với các tư tưởng, các học thuyết khoa học xã hội.
Vì khác với các nghiên cứu trong lĩnh vực tự nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội,
như C.Mác đã nhận xét: Người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản
ứng hoá học được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho cả hai cái đó.
Niềm tin khoa học của lý tưởng XHCN là nhận thức của người cách mạng về khả
năng thắng lợi tất yếu của CNXH và CNCS; về tính hiện thực của những khát vọng
vươn tới tự do, bình đẳng; về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; về sức mạnh của quần
chúng nhân dân và khả năng của chính bản thân mình. Đó là sự hoà quyện giữa tri
thức khoa học và tình cảm cách mạng. Niềm tin đó được tạo lập trên cơ sở thế giới
quan duy vật, phương pháp luận biện chứng, nhân sinh quan cộng sản. Đặc trưng quan
trọng nhất của niềm tin khoa học là sự thấm nhuần chân lý các nguyên lý lý luận, sẵn
sàng chứng minh, bảo vệ chân lý trong bất luận hoàn cảnh nào; là thái độ nhất quán
giữa nhận thức chân lý và hành động theo chân lý, dù có phải hy sinh cả tính mạng
của mình. Niềm tin khoa học là động lực mạnh mẽ nhất thôi thúc người cách mạng

vươn lên khắc phục mọi khó khăn, tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất đạt tới
những khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực. Niềm tin khoa học giúp cho người
cách mạng biết hành động một cách độc lập, chủ động sáng tạo; “thắng không kiêu,


bại không nản”; “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, luôn học
hỏi, đoàn kết vươn lên, cầu tiến bộ, hướng về phía trước.
Nhưng để niềm tin khoa học đi được vào cuộc sống, tạo thành xung lực nội tại thúc
đẩy hoạt động của con người và là động lực phát triển xã hội, thì nó phải thâm nhập
được vào quần chúng trở thành niềm tin thông thường, thành chân ]ý hiển nhiên đối
với họ, đồng thời phải đáp ứng được nhu cầu của cá nhân, trở thành lợi ích mà cá
nhân đó theo đuổi.
Các thành tố cơ bản trên tác động biện chứng lẫn nhau, đan xen, thâm nhập vào
nhau trong một chỉnh thể thống nhất của lý tưởng XIICN.
Lý tưởng XHCN thuộc hình thái ý thức xã hội, nhưng đó không chỉ là những nhận
thức, những ước nguyện về xã hội tốt đẹp, mà nó quy định và được biểu hiện ở
những hành vi, hành động cách mạng tích cực, chủ động, sáng tạo; ở sự sẵn sàng xả
thân, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng con người, giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Lý tưởng XHCN không phải là những mơ ước viển vông, những tình cảm bồng bột
nhất thời, mà nó có tính chất ổn định, bền vững. Tính chất đó bắt nguồn từ nhiều yếu
tố, nhưng quan trọng nhất là sự giác ngộ về lợi ích cơ bản của cá nhân, tập thể và xã
hội, giữa người cách mạng và mục tiêu của cuộc cách mạng XHCN.
Xét đến cùng, lợi ích của người cách mạng chi phối trình độ tri thức khoa học, mức
độ tình cảm cách mạng và độ bền vững của niềm tin khoa học; và do đó, quy định
chất lượng của lý tưởng XHCN. C.Mác khẳng định: “Mọi tư tưởng mà tách rời lợi
ích thì chỉ tự làm nhục mình mà thôi" [45].


Lợi ích xét về nội dung có lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá - tinh
thần; xét về phạm vi có lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội, lợi ích giai cấp, dân tộc, nhân

loại; xét về hình thức có lợi ích trực tiếp và lợi ích gián tiếp. Đặc trưng của lợi ích
cách mạng là sự thống nhất trên những lợi ích căn bản cả về nội dung, phạm vi và
hình thức biểu hiện. Đặc trưng đó quy định sự khác nhau về chất và tính chất tiên
tiến của lý tưởng XHCN so với các lý tưởng xã hội khác trong lịch sử nhân loại.
Lý tưởng XHCN là một loại hình lý tưởng xã hội, nhưng có những đặc điểm
khác về chất so với các loại hình lý tưởng xã hội trước đó.
Lý tưởng XHCN là lý tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời đáp ứng với lợi ích
căn bản và phản ánh nguyện vọng thiết tha, mong ước ngàn đời của quần chúng nhân
dân lao động bị áp bức và bóc lột. Vì vậy, lý tưởng XHCN mang tính giai cấp, tính
nhân dân, tính tiên tiến, tính cách mạng, tính nhân văn và nhân đạo cao cả. Lý tưởng
XHCN khác với các lý tưởng xã hội trước đó ở chỗ các lý tưởng xã hội đó đều do
thiểu số thực hiện và mưu cầu lợi ích cho thiểu số. Xét về bản chất, chỉ là lý tưởng
của tập đoàn xã hội hay các giai cấp thống trị bóc lột, mâu thuẫn với lợi ích của quảng
đại quần chúng nhân dân lao động.
Lý tưởng XHCN kế thừa có chọn lọc những tinh hoa trong các lý tưởng xã hội trước
đó, nhưng được xây dựng trên cơ sở xã hội hiện thực mà nguyên tắc căn bản nhất
của nó là luôn luôn gắn “lý luận với thực tiễn”, lấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân
lý. Lý tưởng XHCN tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do
một nhà cải cách thế giới nào “phát minh” hay “phát hi ện” ra, mà là biểu hiện khái
quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự


vận động lịch sử đang diễn ra. Lý tưởng XHCN lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền
tảng.
Mục tiêu của lý tưởng XHCN là xây dựng một xã hội mới, có sự kết hợp hài hoà
giữa cá nhân với xã hội, ở đó mọi năng lực sáng tạo của con người được giải phóng,
được phát huy triệt để; mọi tiềm năng của tự nhiên, xã hội được khai thác hợp lý; ở
đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người, với phương châm sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Lý tưởng XHCN, xét đến cùng, là lý tưởng về một xã hội tạo điều kiện về mọi mặt

để con người phá triển toàn diện, làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản
thân mình.
Để đạt được mục tiêu đó phải kết hợp bốn sự nghiệp giải phóng: giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, giải phóng cá nhân con người. Trước
hết phải giải phóng con người ra khỏi xiềng xích áp bức, bóc lột, xoá bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với tư cách là “phương tiện” để áp bức, bóc
lột, “công cụ” để nô dịch con người, chiếm đoạt lao động của người khác; là làm cho
lao động mang tính tự do, sáng tạo và nhân đạo hơn, biến lao động thành nhu cầu bậc
nhất trong đời sống nội tâm con người. Chỉ thông qua lao động một cách tích cực, tự
giác, sáng tạo, con người mới thực sự có điều kiện phát triển toàn diện.
Lý tưởng XHCN mang tính khách quan, khoa học, nó phản ánh xu thế phát triển tất
yếu của xã hội loài người. Đó là ước vọng của quần chúng nhân dân lao động được
đặt trên cơ sở lý luận khoa học và khả năng hiện thực hoá. Sự ra đời của chủ nghĩa
Mác đã đặt những tư tưởng, những ước nguyện của giai cấp công nhân và nhân dân


lao động trên cơ sở khoa học. Bằng hai phát hiện vĩ đại: quan niệm duy vật về lịch sử
mà nền tảng của nó là học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội và học thuyết về giá trị
thặng dư, C.Mác - Ph.Ăng ghen đã chứng minh sự diệt vong của CNTB và sự thắng lợi
của CNXH, CNCS đều là tất yếu như nhau. Với việc làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân (được coi là phát hiện vĩ đại thứ 3) C.Mác Ph.Ăng ghen đã chứng minh tính tất yếu đó được đảm bảo bởi một lực lượng xã hội
có thật nằm ngay trong kết cấu của xã hội tư bản, mà do địa vị kinh tế - xã hội của nó
không những có khả năng thủ tiêu xã hội cũ, còn sáng tạo nên xã hội mới.
Tất cả những điều đó đã đập tan mọi quan niệm sai lầm cho rằng xã hội loài người
là do thần linh, thượng đế sinh ra, đã có sự sắp đặt an bài; rằng CNTB là thiên
đường, là vĩnh hằng; và do đó mọi ý tưởng về một chế độ xã hội tốt đẹp hơn CNTB
là ảo tưởng viển vông (!).
Lý tưởng XHCN có mặt bất biến được in đậm trong tư duy, lẽ sống, nếp sống của
con người như tính cộng đồng, tính tập thể, tính nhân dạo, nhân văn cao cả. Nhưng
cũng có mặt khả biến, phản ánh quá trình vận động phát triển không ngừng của thực

tiễn lịch sử và nhận thức của con người. Do đó, lý tưởng XHCN không phải là những
lời “sấm truyền”, những tín điều cứng nhắc, càng không phải là một trạng thái trừu
tượng do đầu óc sáng tạo ra, không phải là “khuôn vàng thước ngọc” buộc hiện thực
phải khuôn theo.
Lý tưởng XHCN không phải là những ảo tưởng viển vông, những ước mơ trừu
tượng mà có nội dung xác định.
Nội dung cơ bản của lý tưởng XHCN là xây dựng một chế độ xã hội có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản


xuất; không còn người bóc lột người; không còn áp bức giai cấp, không còn áp bức dân
tộc; con người được làm chủ có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh. Lý tưởng đó đòi hỏi tất yếu
phải xoá bỏ chủ nghĩa tư bản với tư cách là chế độ áp bức, bóc lột cuối cùng trong
lịch sử.
Nội dung cơ bản của lý tưởng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện cụ thể trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Về chính trị: Đó là lý tưởng về một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của Nhà nước XHCN.
Với quan niệm duy vật về lịch sử C.Mác và Ph.Ăng ghen đã luận chứng khoa học, sâu
sắc và triệt để vai trò của quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và quyết
định lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của bản thân quần chúng. Vai trò và sức mạnh
của nhân dân ngày càng tăng lên trong tiến trình lịch sử, đặc biệt trong cách mạng
XHCN. Cách mạng XHCN không những là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện
nhất mà nó còn là cuộc cách mạng thực sự mang tính chất quần chúng rộng rãi, vì nó
mang lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động và được quần chúng
nhân dân tham gia nhiệt tình, đông đảo: “Là ngày hội của quần chúng”. Luận điểm của
V.I. Lê nin “CNXH không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống”, cũng
như tư tưởng Hồ Chí Minh “Dân chủ là dân làm chủ, dân là chủ” đã được thực tiễn
cách mạng XHCN và lịch sử xây dựng CNXH xác nhận tính đúng đắn của nó.

Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, đại
diện cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Thực chất của nhà nước
XHCN là nhằm xác lập, bảo vệ và phát triển nền dân chủ XHCN, để đem lại quyền


làm chủ cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Do đó tất yếu phải trấn áp đối
với các thế lực phản cách mạng, đi ngược lại lợi ích của quần chúng nhân dân lao
động và của cả xã hội.
Nhà nước XHCN còn là công cụ để quần chúng nhân dân lao động thực hiện sức
mạnh sáng tạo của mình trong xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc . Nhân dân làm
chủ thông qua nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng là thể hiện sự tập trung thống
nhất, có tổ chức, có lãnh đạo, tạo nên sức mạnh đoàn kết của toàn xã hội.
Về kinh tế: Đó là lý tưởng về một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển
cao với năng suất lao động tăng không ngừng, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất.
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin, mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở
vật chất - kỹ thuật tương ứng. Chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao hơn CNTB.
Quan hệ sản xuất TBCN dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất - cái hình
thức chật hẹp đó đã trở thành xiềng xích đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã xã hội hoá cao. Do đó, xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất của
xã hội trở thành một yêu cầu khách quan. Mọi cuộc cách mạng xã hội lật đổ chế độ
cũ, thiết lập chế độ mới bao giờ cũng phải coi vấn đề chế độ sở hữu là vấn đề hết
sức quan trọng và rất cơ bản của phong trào. Nhưng các cuộc cách mạng trước kia chỉ
nhằm hoàn thiện chế độ sở hữu tư nhân. Trái lại, mục tiêu lý tưởng XHCN là “xoá
bỏ chế độ tư hữu”. Tuy nhiên, không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là
xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản, và quá trình đó diễn ra dần dần, chứ không phải ngay
lập tức. Đúng như Ph.Ăng ghen khẳng định : “... chỉ khi nào đã tạo nên được một khối



lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế
độ tư hữu” [1 , 469].
Theo V.I. Lênin, điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn của CNXH chính là giai cấp
vô sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ
nghĩa tư bản; và yếu tố xét đến cùng để chế độ này chiến thắng chế độ kia chính là
ở năng suất lao động. Do đó, kỷ luật và ý thức tự giác lao động của đông đảo quần
chúng là nguồn sức mạnh, là điều kiện đảm bảo cho thắng lợi hoàn toàn của chủ
nghĩa xã hội.
Trên cơ sở xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa mà thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người làm được bao nhiêu, hưởng hết
bấy nhiêu, mà tổng sản phẩm do xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu
dùng cá nhân, cho tích luỹ tái sản xuất mở rộng và cả tiêu dùng công cộng của xã hội,
với phương châm kết hợp hài hoà ba lợi ích: xã hội, tập thể và cá nhân, trong đó lợi
ích cá nhân của người lao động được quan tâm thích đáng và là động lực trực tiếp
của sự phát triển. Nguyên tắc phân phối theo lao động buộc mọi người có sức lao
động phải lao động và sống bằng kết quả lao động của chính mình. Nguyên tắc này
thể hiện sự công bằng dưới CNXH. Tuy nhiên, nguyên tắc này chẳng những chưa loại
trừ được mà vẫn còn phải chấp nhận tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các
thành viên trong xã hội. Mặc dù vậy, nó vẫn là hình thức phân phối thích hợp nhất
dưới CNXH.
Về xã hội: Đó là một xã hội sẽ không còn giai cấp đối kháng; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công và có điều kiện phát triển toàn diện.


Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là nguồn gốc sinh ra áp bức, bóc lột và phân chia
xã hội thành giai cấp và đối kháng giai cấp. Do vậy, xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập và
hoàn thiện chế độ công hữu là một trong những nhiệm vụ lịch sử trọng đại của tiến
trình cách mạng XHCN, tạo tiền đề và điều kiện cho những tiến bộ xã hội. Việc xoá
bỏ tình trạng người bóc lột người phải gắn với xoá bỏ chế độ tư hữu. Mặt khác, xoá

bỏ chế độ tư hữu sẽ góp phần giải phóng con người khỏi các tai hoạ khác như nô dịch,
áp bức dân tộc, góp phần tạo ra sự bình đẳng, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Mục đích của CNXH chẳng những giải phóng con người mà còn tạo mọi điều kiện
đề con người phát triển toàn diện, làm chủ tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình
và thực hiện sự công bằng, bình đẳng xã hội.
Về văn hoá: Quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như tư
tưởng Hồ Chí Minh về CNXH là sự thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá của một thể chế xã hội phát triển hoàn chỉnh. Trong đó, nhân
tố văn hoá có vai trò hết sức to lớn.
Văn hoá là hệ thống những chuẩn mực giá trị tinh thần của dân tộc, thể hiện dưới
những sắc thái muôn hình, muôn vẻ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống và hoạt
động xã hội, trong sinh hoạt cá nhân, gia đình, tập thể tạo nên sự gắn kết về mặt tinh
thần của xã hội, bảo đảm cho sự trường tồn của quốc gia, sự phát triển của cộng đồng
dân tộc. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không thể có sự phát triển
kinh tế bền vững và dù đời sống vật chất cao, xã hội cũng không tránh khỏi khả năng
biến chất. Hồ Chí Minh khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [59, 76]. Vì
vậy, “Học! Học nữa! Học mãi” là phương châm sống của những người cộng sản.


Nền văn hoá mà chúng ta đã và đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và CNXH, kết tinh truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa văn hoá nhân loại. Để đảm bảo tính chất
tiên tiến và giữ gìn được bản sắc dân tộc của nền văn hoá nước ta, cần phải giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển,
dân tộc và quốc tế. Đó là quá trình tạo nên động lực tinh thần, xây dựng con người
đạt tới trình độ phát triển cao về trí tuệ, đạo đức, nhân cách vươn lên làm chủ khoa
học kỹ thuật tiên tiến và cuộc sống bản thân, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân.
Do đó, chăm lo giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, là
quốc sách hàng đầu của nhà nước XHCN. Vì “muốn xây dựng CNXH, trước hết cần
có con người XHCN” [59, 13]. Coi con người là động lực quan trọng bậc nhất, Hồ

Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng của họ, đồng thời chăm lo
bồi dưỡng sức dân. Quan tâm tới lợi ích, nhu cầu của dân, Người thấy rõ đảm bảo
cuộc sống cho dân từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đi lại, học hành... là những điều kiện
tối thiểu để phát huy sức mạnh con người. Sức dân là nguồn sức mạnh vô địch và vô
tận của một chế độ, của một dân tộc.
Như vậy, nội dung của lý tưởng XHCN bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của đời sống
xã hội, và luôn được phát triển theo chiều hướng tích cực, tiến bộ, nhằm không
ngừng thoả mãn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và có điều kiện phát triển toàn diện là
mục tiêu cao cả của lý tưởng XHCN.


Cũng như bất kỳ một lý tưởng xã hội nào, lý tưởng XHCN có một quá trình phát
sinh, hình thành, phát tri ển trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng,
văn hoá nhân loại và dựa trên điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định.
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện rất sớm, cùng với lịch sử hình thành, phát
triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Biết bao thế hệ các nhà tư tưởng, các nhà cách mạng ưu tú và quần chúng cách
mạng đã hy sinh, phấn đấu, cống hiến cho lý tưởng xã hội nhân đạo, tiến bộ của nhân
loại.
Từ những dự án sơ khai của A.ghít, Clê Ômen thế kỷ thứ III trước công nguyên, rồi
đạo đức của Khổng Tử; lòng nhân ái của Thích ca; Giê Su… cho đến những mô hình,
hệ thống quan điểm ngày càng hoàn chỉnh, tiến bộ hơn của Tômát Morơ; Hăng ri
Xanh xi mông, Rô bớc Ôoen; Sáclơ Phu rie; A.ghéc xen; N.Đô brô liu bốp... Vào thời
đại của C.Mác - Ph.Ăng ghen lý tưởng XHCN đã phát triển và được đặt trên cơ sở
khoa học; đến giai đoạn V.I.Lê nin, nó đã bắt đầu trở thành hiện thực trong cuộc
sống.
Cơ sở khoa học của lý tưởng XHCN được xây dựng trên nền tảng của nhiều ngành
khoa học, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn. Song quan trọng nhất là
học thuyết Mác - Lê nin.

Trước khi xuất hiện CNXH khoa học đã từng tồn tại chủ nghĩa xã hội không tưởng,
thể hiện nguyện vọng mong muốn thiết lập một xã hội kiểu mới, trong đó không còn
tình trạng người bóc lột người và tất cả các hình thức bất bình đẳng khác về xã hội.
Tiêu biểu cho trào lưu đó là những nhà không tưởng Tô mát Morơ (1478-1535), Hăng


×