MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại thắng Mùa xuân 1975 đã mở ra trang sử mới của dân tộc; Đất nước hoà bình,
độc lập, thống nhất và cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Dưới sự lãnh đạo
của Đảng và do sự nỗ lực của toàn dân, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Song, do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan,
những gì đã đạt được đó còn rất xa mới đáp ứng yêu cầu của dân tộc và thời đại. Để
nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng CNXH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi
mới tư duy đến đổi mới tổ chức bộ máy, đổi mới phương pháp lãnh đạo, đổi mới
phong cách hoạt động; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị. Trong tổng thể chung
của sự nghiệp đổi mới đó, đổi mới kinh tế theo hướng chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xem
là trọng tâm; đồng thời cũng đã từng bước đổi mới về chính trị theo hướng từng bước
hình thành và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nội hàm cơ bản của nó
là: Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Những thành tựu của quá trình đổi mới toàn diện đất nước nói chung, của quá
trình giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói
riêng đã đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội để bước
vào giai đoạn mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Đó là
cơ sở thực tiễn để khi tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII xem: "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
là một trong sáu bài học kinh nghiệm lớn được tích luỹ qua 10 năm đó.
Trong khi khẳng định những thành quả to lớn trong việc nhận thức và giải quyết
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cùng những biến đổi tích cực trong
thực tiễn do chúng mang lại, chúng ta cũng không thể không thấy rằng trên bình diện
nhận thức lý luận lẫn tổ chức thực tiễn còn tồn tại những khiếm khuyết, lệch lạc nhất
định.
Trên lĩnh vực nhận thức: lúc này hay lúc khác, một số người vẫn cho rằng kinh tế thị
trường và CNXH như nước với lửa, chúng không thể tương dung; rằng, do đó, không
thể "bắt cá hai tay". Theo họ, hoặc chấp nhận kinh tế thị trường thì kinh tế phát triển,
nhưng thể chế chính trị tương ứng sẽ là chủ nghĩa tư bản (CNTB); hoặc là phát triển
nền kinh tế phi thị trường, khi đó sẽ là thứ CNXH "chia đều sự khổ ải"(!). Dựa trên
một sự thực là khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), sự đa dạng hoá thành phần kinh tế dẫn tới đa dạng hoá cơ cấu xã hội, đa
dạng hoá cơ cấu lợi ích, trong giai đoạn đó không chỉ có sự đồng nhất, còn có sự khác
nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, một số người cho rằng thích ứng với nền kinh tế "đa
nguyên" đó, nền chính trị không thể "nhất nguyên", không thể duy trì mãi chế độ lãnh
đạo của một đảng duy nhất. Do vậy, theo họ, ở nước ta hiện nay có mâu thuẫn cơ bản
là: "Yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường một cách đầy đủ trong điều kiện hiện đại
với nhiều thách thức và cạnh tranh gay gắt đòi hỏi sự đổi mới toàn diện cả về kinh tế
và chính trị đã xung đột với vị trí độc quyền của một Đảng Cộng sản" (!)….
Ngay trong Đảng, trong khi đại đa số cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng đều
thống nhất với quan niệm của Đảng về tương quan giữa đổi mới kinh tế và đổi mới về
chính trị như đã được khẳng định và phát triển trong các văn kiện của Đảng, thì vẫn có
một bộ phận nhỏ hoang mang, dao động ngả nghiêng. Một số đề cao kinh tế thị trường
lên tận mây xanh, xem đó là liều thuốc vạn năng có thể chữa được bách bệnh và giải
quyết được mọi vấn đề mà công cuộc đổi mới đặt ra. Trước một số hiện tượng tiêu cực
phát triển do tác động của mặt trái thuộc cơ chế thị trường , một số khác lại muốn
quay lại cơ chế cũ. Trong tình trạng đổ vỡ nặng nề ở Liên bang Xô - viết cũ và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu do những bước đi sai lầm trong cải cách chính trị,
một số người lại muốn kìm hãm quá trình đổi mới chính trị…
Về mặt thực tiễn: Bên cạnh hiện tượng trì trệ trong đẩy mạnh đổi mới kinh tế hoặc
đổi mới chính trị, cũng có tình trạng ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc kia muốn
đẩy thật nhanh quá trình đổi mới kinh tế hoặc đổi mới chính trị, làm cho hai quá trình
đổi mới đó bị tách rời nhau, gây ra hậu quả xấu cho cả đổi mới kinh tế lẫn đổi mới
chính trị.
Mặt khác, trong thực tiễn đổi mới cũng xuất hiện hai cực đoan dẫn tới giải quyết
không thật đúng mối tương quan giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Một là, có
lúc, có nơi xuất hiện sự định hướng phiến diện của chính trị đối với kinh tế, không
đánh giá đầy đủ vai trò chỉ đạo của chính trị, của quan điểm chính trị đúng đắn đối với
việc giải quyết các vấn đề kinh tế. Không kịp thời ngăn chặn sai lầm đó sẽ làm cho
các trung tâm quyền lực rơi vào tình trạng thụ động, làm tăng những nhân tố tự phát
không thể kiểm soát được trong nền kinh tế thị trường . Hai là, có hiện tượng chính trị
tách rời kinh tế; đây đó có lúc xuất hiện thái độ coi thường các nhu cầu kinh tế, tuyệt
đối hoá sức mạnh của các quyết định chính trị, làm cho các quyết định đó mất cơ sở
khách quan trên nền tảng kinh tế. Sự lệch lạc như vậy sẽ đưa chúng ta rơi vào sai lầm
của chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Vì vậy, hiện nay, việc tiếp tục làm rõ hơn nữa quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị nhằm tìm ra giải pháp đúng đắn thúc đẩy sự đổi mới trên hai lĩnh vực này
vẫn là vấn đề cấp bách.
Từ suy nghĩ đó, tôi chọn vấn đề :" Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay" làm đối tượng nghiên cứu trong luận án của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới, vấn đề quân đội giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị là một đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận, do vậy, đã
có nhiều công trình có liên quan tới đề tài này được công bố. Chẳng hạn, " Kinh tế thị
trường và định hướng XHCN" của GS Bùi Ngọc Chưởng (Tạp chí Cộng sản, 12/1994);
"NEP - Một cách tiếp cận mới mang tính nguyên tắc của V. I. Lênin về CNXH" của
PTS Nguyễn Thế Nghĩa (Tạp chí Triết Học, 2/1995); "Đổi mới và phát triển các thành
phần kinh tế" của PTS Đỗ Hoài Nam (Nxb CTQG, Hà Nội, 1993); "Bài học kinh
nghiệm về việc xử lý mối quan hệ giữa cải tổ chính trị và cải tổ kinh tế ở Liên Xô
trước đây" của PGS, PTS Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Lịch sử Đảng 4/1993); "Chính
trị với kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay" của
PGS, PTS Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Nghiên cứu lý luận 4/1995); "Đổi mới chính
sách và cơ chế quản lý kinh tế bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế bền vững" của GS.PTS
Vũ Đình Bách, GS.TS Ngô Đình Giao (Nxb CTQG, Hà Nội, 1996); "Hệ thống chính
trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Chương trình KX.05 do GS.
Nguyễn Đức Bình làm chủ nhiệm); "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - một số
vấn đề lý luận cấp bách" của GS.Trần Xuân Trường (Nxb CTQG, Hà Nội, 1996);
"Coi trọng cao độ vấn đề địa vị cầm quyền của Đảng trong điều kiện kinh tế thị
trường" của Wang Mao Lin (Tạp chí Thông tin khoa học xã hội , 5/1994); " Chủ nghĩa
xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường" của Cung Kim Quốc… (Nxb CTQG,
Hà Nội, 1996 ); "Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội" của nhiều tác giả (Viện
Thông tin khoa học xã hội xuất bản, H, 1994); v.v..
Các công trình khoa học trên đề cập tương đối có hệ thống một số vấn đề về mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường và CNXH, làm sáng tỏ vai trò của một số nhân tố chính
trị trong việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế đó vào việc đạt mục tiêu của
CNXH (như: vai trò và nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế thị
trường; vai trò quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế đó…).
Ngoài ra, do tính bức xúc của vấn đề này, trong những năm gần đây đã có một số
luận án liên quan tới mối quan hệ chính trị và kinh tế được bảo vệ. Chẳng hạn, "Vai
trò của Nhà nước chuyên chính vô sản đối với việc xây dựng phương thức sản xuất
XHCN ở Việt Nam" của PTS Trần Văn Hải; "Bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình
xây dựng CNXH ở nước ta sau 1975:nguyên nhân và phương hướng khắc phục" của
PGS Nguyễn Văn Sáu.v.v.
Tuy nhiên, vấn đề quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và điều kiện chính
trị trong quá trình đổi mới ở nước ta chưa trở thành đối tượng trình bày một cách
tương đối toàn diện trong bất kỳ một công trình khoa học nào. Vì thế, luận án này là sự
bổ sung, phát triển hơn nữa những vấn đề liên quan tới quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ít nhiều đã được đề cập trong các công trình đã có, nó góp phần đưa
nhận thức về vấn đề này tới độ sâu sắc cần thiết theo yêu cầu của thực tiễn đổi mới
CNH, HĐH và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích: Dựa trên việc luận chứng một cách khoa học quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, thực trạng giải quyết
mối quan hệ này trong những năm gần đây, luận án đề xuất một số phương hướng và
giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn nữa quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị trong những năm trước mắt ở Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích trên, luận án có Nhiệm vụ
- Làm rõ quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong lịch sử xã hội có giai
cấp.
- Xác định mục tiêu đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, mối quan hệ biện
chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong hơn thập kỷ vừa qua và làm rõ
một số mâu thuẫn nảy sinh hiện nay trong phần có liên quan tới vấn đề này.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao nhận thức cũng như
hiệu quả vận dụng quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nhằm phát triển kinh tế
và giữ vững ổn định chính trị để thực hiện thành công CNH, HĐH theo mục tiêu
XHCN.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận án
Kinh tế và chính trị có ngoại diện rất rộng, nó bao hàm nhiều yếu tố cấu trúc và khía
cạnh, phương diện khác nhau. Để tập trung vào vấn đề chính yếu nhất mà chưa được
khai thác nhiều trong các công trình khoa học khác, trong luận án này, ở những phần
nhất định của luận án, khi nói tới kinh tế, chúng tôi tập trung làm sáng tỏ vấn đề lợi
ích kinh tế; khi nói tới chính trị, chúng tôi tập trung trình bày vấn đềquyền lực chính
trị. Thích ứng với việc tập trung đó, khi nói tới quan hệ giữa kinh tế và chính trị, chúng
tôi chú ý trước hết tới quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị; khi nói
tới quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, do đó, chúng tôi tập trung chú
ý vào vấn đề quan hệ giữa đổi mới quan hệ lợi ích kinh tế và đổi mới quan hệ quyền
lực chính trị.
5. Cái mới về mặt khoa học của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ sự biểu hiện có tính đặc thù của luận điểm về quan hệ
giữa kinh tế và chính trị do chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra trong sự vận dụng cụ thể
vào việc xem xét quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
nước ta hiện nay.
- Đề xuất được một số phương hướng và giải pháp có giá trị nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả vận dụng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
trong những năm trước mắt.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài
ra, luận án còn kế thừa một cách chọn lọc các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học trong và ngoài nước ở thời kỳ đổi mới, cải cách và cải tổ ở các nước XHCN hay
vốn là XHCN. Đặc biệt, người làm luận án coi trọng việc kết hợp giữa lý luận đổi mới
và thực tiễn đang đổi mới hiện nay để rút ra những vấn đề cần thiết.
6.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp
các quan điểm phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, đặc biệt là phương pháp
luận về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Các phương pháp lôgíc và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá, phương pháp thống
kê… được đặc biệt chú ý khi giải quyết các vấn đề của luận án.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án đã góp phần làm rõ hơn quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị; những kinh nghiệm thành công cũng như những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện
cùng những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức và hiệu
quả thực tiễn giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
- Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi hoạch định chính sách và chỉ
đạo thực tiễn đổi mới kinh tế cũng như đổi mới chính trị ở nước ta trong những năm
trước mắt; nó cũng có thể là tài liệu tham khảo có giá trị trong khi nghiên cứu và giảng
dạy vấn đề phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuộc chuyên
đề "Hình thái kinh tế - xã hội " trong chương trình Triết học Mác-Lênin.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài lời mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương với 7 tiết.
Chương 1
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ; TÍNH TẤT YẾU, MỤC TIÊU ĐỔI MỚI KINH
TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
1.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị
1.1.1. Kinh tế và chính trị, mối quan hệ qua lại giữa chúng
Thoạt đầu, thuật ngữ "kinh tế" được dùng để chỉ nghệ thuật tiến hành công việc
nội trợ, nghệ thuật quản lý kinh tế và gia đình. Về sau, nó được dùng để chỉ các hoạt
động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như các mối quan hệ liên
quan đến lợi ích vật chất của con người. Ở phương Đông, ngoài các hàm nghĩa trên,
thuật ngữ "kinh tế" là hai chữ viết tắt của cụm từ "kinh tế bang tế thế", nghĩa là: trông
coi việc nước, cứu giúp người đời. Ở phương Tây, kể từ năm 1890, năm xuất bản cuốn
sách "Những nguyên lý kinh tế học" của nhà kinh tế học người Anh A.Mácsan (18421924) [70, tr.55], thuật ngữ kinh tế trở thành khái niệm khoa học thông dụng cùng với
khái niệm "écononaics" - kinh tế học.
Ngày nay, khái niệm kinh tế được hiểu với hai nghĩa cơ bản:
- Tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
- Toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế quốc
dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế và
vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế.
Trong "kinh tế", nhân tố có vai trò to lớn nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất; ngoài ra, còn phải kể đến quan hệ giữa người với người trong quá trình tổ chức,
quản lý sản xuất và tái sản xuất, trong phân phối và tiêu dùng sản phẩn được làm ra
trên cơ sở tính chất của chế độ sở hữu đó.
Những ý niệm sơ khai liên quan tới vấn đề vừa nêu đã được manh nha ở châu
Âu từ thời cổ đại và trung cổ, đặc biệt từ khi xuất hiện môn kinh tế chính trị. Thuật
ngữ "kinh tế chính trị" lần đầu tiên được nhà kinh tế học người Pháp là môngcrèxchiên
(M……..hrestien) sử dụng vào năm 1615 [70,tr.54]. Các quan điểm trên, ở mức này
hay mức khác, được Petti (W.Petty), D.Ricácđô (D.Ricardo) ở Anh và Boagmbe
(Boisguibert), Xixmônđi (Sismondi) ở Pháp phát triển.
Kế thừa có chọn lọc thành quả của những người đi trước, dựa trên những cứ liệu
được rút ra từ thực tiễn lịch sử nói chung, thực tiễn của chủ nghĩa tư bản đương thời
nói riêng, từ những năm 40 của thế kỷ XIX, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã
vạch ra những bí mật của các quá trình kinh tế, giải thích bản chất và động lực phát
triển của kinh tế một cách khoa học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xác
định rằng, tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, do đó, cũng là của lịch sử,
là người ta phải sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng, như C. Mác và Ph.
Ăngghen đã chỉ ra, muốn sống được, trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác. Muốn có những thứ đó, người ta phải tiến hành sản xuất.
Đời sống sẽ chấm dứt, xã hội sẽ tiêu tan, nếu hoạt động đó ngưng lại.
Việc sản xuất ra của cải vật chất luôn luôn được lặp đi, lặp lại không ngừng hoặc ở trình độ tái sản xuất giản đơn, hoặc ở trình độ tái sản xuất mở rộng. Trong mỗi
quá trình sản xuất như vậy đều có sự kết hợp của hai yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng
sản xuất: Người lao động (sức lao động), tư liệu sản xuất (bao gồm tư liệu lao động và
đối tượng lao động). Sức lao động được vận dụng trong quá trình lao động - một loại
hình hoạt động có mục đích, có ý thức diễn ra trong mỗi quá trình giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau nhằm làm thay đổi những vật thể tự nhiên cho
phù hợp với yêu cầu của con người. Trong quá trình lao động, người ta, một mặt, tác
động vào tự nhiên, mặt khác, lại tác động lẫn nhau, có quan hệ với nhau để sản xuất ra
của cải vật chất. Vì thế, quá trình sản xuất ra của cải vật chất sẽ làm nảy sinh "quan hệ
kép" (C.Mác): Quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với giới tự nhiên.
Hai loại quan hệ đó tạo thành hai mặt của phương thức sản xuất: quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất. Sự tương tác qua lại giữa chúng chính là nguồn gốc căn bản nhất
của mọi tiến trình lịch sử, nó quyết định sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này
bằng hình thái kinh tế - xã hội khác, cao hơn. Khái quát thực tế này, C. Mác viết:
"Trong sự sản xuất ra đời sống của mình, con người ta có những mối quan hệ nhất
định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ- tức những quan hệ sản xuất, những
quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất
vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là
cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
tương ứng với cơ sở hiện thực đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định.
Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung" [50, tr.593]. Nói cách khác, sự tác động qua lại giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tính quyết định sự tồn tại và phát triển của
các hình thái kinh tế- xã hội.
Cơ cấu của hình thái kinh tế- xã hội gồm nhiều yếu tố, trong đó, ba yếu tố cơ
bản là; Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Ngoài ba yếu tố
cơ bản đó, còn có các yếu tố khác như: Quan hệ gia đình, dân tộc, … Các yếu tố này
có quan hệ biện chứng với nhau tạo thành những quy luật nhất định của lịch sử, như
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng… Chính sự tác
động của các quy luật đó làm cho sự phát triển xã hội nói chung, sự thay thế của các
hình thái kinh tế- xã hội nói riêng diễn ra như là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Khi xã hội phân chia ra thành các giai cấp, có đấu tranh giai cấp và Nhà nước
xuất hiện, chính trị ra đời.
Trong tác phẩm "chính trị", Platon xem chính trị là nghệ thuật cung đình liên kết
trực tiếp các chuẩn mực của người anh hùng và sự thông minh: sự liên kết cuộc sống
của họ được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái.
Mác Vây be xem chính trị là khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng
đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn
người trong một quốc gia.
Trong giới chính trị học tư sản cũng có thời lan truyền quan niệm xem chính trị
là một "nhà hát". Trong đó, có nhà hát, nghệ sĩ, diễn viên và người xem, sự bài trí sân
khâu, nhà phê bình.
Trong các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xem chính trị là một
hiện tượng đặc biệt của đời sống xã hội có liên quan tới các đảng phái và Nhà nước;
các ông đã vạch ra bản chất chính trị của các giai cấp cầm quyền trong xã hội bóc lột,
tính định hướng của chính trị thuộc giai cấp bóc lột vào của cải và sự tuỳ tiện. Khi
vạch ra tính chất phản động của chính trị tư sản đương thời, các ông đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam soạn thảo ra một
đường lối chính trị độc lập. Chính trị như thế, theo các ông, cần phải góp phần củng cố
hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân và
lấy việc giải phóng con người làm mục tiêu cơ bản của mình.
Theo V. I. Lênin, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là sự tham gia của
nhân dân vào các công việc Nhà nước, định hướng hoạt động Nhà nước; xác định hình
thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động Nhà nước. Bất kỳ hoạt động nào cũng có tính chất
chính trị, nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, gắn
với vấn đề quyền lực chính trị.
Kế thừa những di sản trên đây, có thể hiểu chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng quyền lực Nhà
nước; là những phương hướng, những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của
giai cấp, của đảng phái; là hoạt động thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng
phái, các Nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới mục tiêu đã đặt
ra.
Giữa kinh tế và chính trị có quan hệ qua lại với nhau: Các quan hệ kinh tế
và cơ cấu kinh tế là nền móng trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý,
chính trị tương ứng; ngược lại, thượng tầng chính trị, pháp lý đó cũng có tác động
mạnh tới sự vận động và phát triển của kinh tế. Sự tác động lại đó có hai khả năng
cơ bản: Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, khi đó là thứ chính trị đúng đắn, khoa
học; kìm hãm sự phát triển của kinh tế, khi đó là thứ chính trị sai lầm (bao gồm cả
thứ chính trị "tả" khuynh lẫn hữu khuynh).
Từ việc nghiên cứu sâu sắc quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế đã từng
diễn ra trong lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin nêu lên hai luận điểm nền tảng: Một
là, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế; hai là, chính trị không thể không
chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế.
"Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế" [76,tr.9]. Điều đó có nghĩa là, so
với kinh tế, chính trị là sự phản ánh, là "tính thứ hai"; không có những quan hệ chính
trị và quy luật chính trị độc lập tuyệt đối với các quan hệ và qui luật kinh tế. Tuy
nhiên, từ luận điểm trên cũng cần lưu ý rằng chính trị không phải là cái gương soi đối
với đời sống kinh tế, mà là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Nó phản ánh mang tầm
khái quát, làm bộc lộ cái bản chất nhất của đời sống kinh tế, cái cơ bản nhất, cái mang
tính chi phối trong đời sống kinh tế. Chính loại yếu tố đó quy định nội dung căn bản
nhất của chính trị thuộc chủ thể cầm quyền. Cho nên, không phải kinh tế có kết cấu đa
dạng như thế nào thì chính trị cũng có sự đa dạng tương ứng như thế. Chẳng hạn, nền
kinh tế trong xã hội đang ở bước chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội TBCN mang
trong mình cả những yếu tố kinh tế phong kiến - gia trưởng thậm chí cả một số yếu tố
của nền kinh tế tiền phong kiến, bên cạnh đó là những yếu tố của nền kinh tế mới kinh tế TBCN. Chính trị của giai cấp cầm quyền đương thời (giai cấp tư sản) trước hết
là sự phản ánh những yêu cầu bức xúc của các nhân tố kinh tế TBCN, làm cho kinh tế
này từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, chi phối mọi yếu tố kinh tế khác. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay cũng đang tồn tại nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Chính trị của chúng ta hiện nay là sự biểu hiện tập trung của
nền kinh tế đó, trong đó, việc làm cho kinh tế Nhà nước từng bước vươn lên nắm được
vai trò chủ đạo được xem là một nội dung vô cùng quan trọng của nó.
"Chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế" (V. I. Lênin) là
luận điểm nói lên vai trò năng động, tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của
chính trị đối với kinh tế. Quan điểm đó có tiền đề phương pháp luận xuất phát của
mình từ tính năng động của ý thức đối với vật chất, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội (khi xét chính trị từ phương diện "ý thức chính trị", bao gồm cả quan điểm chính
trị, đường lối chính trị, tâm lý và tình cảm chính trị, chủ trương, chính sách…), của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng (khi xét chính trị là một bộ phận của kiến
trúc thượng tầng). Thực tiễn chứng minh rằng, một quan điểm hay một thiết chế chính
trị sai lầm có tác động rất tiêu cực đối với sự phát triển của kinh tế, của sản xuất; nó có
tác động kìm hãm vô cùng to lớn đối với sự phát triển của kinh tế. Nhận thức chính trị
sai lầm về cơ cấu thành phần kinh tế ngay khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH từ
một nước nghèo nàn, lạc hậu lại bỏ qua chế độ TBCN đã có hậu quả tiêu cực như thế
nào trong thời kỳ trước đổi mới ở nước ta, mọi người đã rõ. Tác động kìm hãm sự phát
triển kinh tế ở thời kỳ đó còn tăng lên do tình trạng quan liêu của các thiết chế chính
trị. Từ khủng hoảng về kinh tế lan sang khủng hoảng về xã hội tạo ra cái mà chúng ta
vẫn nói là "khủng hoảng kinh tế- xã hội" xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ
XX ở nước ta là biểu hiện tập trung nhất của tác động kìm hãm, tác động tiêu cực của
một số yếu tố chính trị sai lầm đối với kinh tế. Ngược lại, sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế, của việc giải phóng lực lượng sản xuất và, do đó, sự tăng trưởng và phát triển
nhanh chóng của đời sống kinh tế dưới tác động của những quan điểm kinh tế, của
đường lối kinh tế (chính trị trên lĩnh vực kinh tế) trong quá trình đổi mới là bằng
chứng nói lên tác động tích cực của chính trị đúng đắn đối với kinh tế.
Vai trò ưu tiên của chính trị so với kinh tế không chỉ biểu hiện ở năng lực tác
động trở lại của chính trị đối với kinh tế (thúc đẩy hoặc kìm hãm); cũng không chỉ ở
chỗ một quan điểm chính trị đúng đắn, khoa học có khả năng can thiệp một cách tự
giác vào tiến trình kinh tế khách quan, điều chỉnh sự vận động, phát triển của kinh tế
theo quy luật khách quan của nó; mà còn ở chỗ: để giải quyết giai cấp công nhân, nhân
dân lao động về mặt kinh tế, trước hết phải giải phóng họ về chính trị, làm cho họ trở
thành chủ thể của quyền lực Nhà nước. Diễn đạt tính tất yếu lôgíc đó, trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xem việc giai cấp
công nhân giành chính trị, trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước là "bước thứ
nhất" của cuộc cách mạng công nhân. Không đạt được tiêu đề chính trị đó mà nói tới
giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động về kinh tế thì chỉ là ảo tưởng mà
thôi.
Như vậy, quan điểm duy vật về lịch sử đòi hỏi phải khẳng định tính thứ nhất của
kinh tế so với chính trị, vai trò quyết định của yếu tố thứ nhất đối với yếu tố thứ hai
vừa nêu. Song, dừng lại ở đó vẫn chưa phải là một quan điểm duy vật khoa học về xã
hội. Chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy kinh tế không chỉ ủng hộ, mà còn
đề cao lên tận mây xanh điều khẳng định đó. Quan điểm duy vật khoa học về xã hội
phải là quan điểm duy vật biện chứng về xã hội nói chung, về quan hệ giữa kinh tế và
chính trị nói riêng. Trong quan điểm đó, một mặt, khẳng định tính thứ nấht của kinh tế
so với chính trị; mặt khác, xem chính trị không phải là cái hoàn toàn thụ động đối với
kinh tế, trái lại, nảy sinh trên nền tảng kinh tế, chính trị có tác động lại đối với kinh tế.
Thêm vào đó, cần lưu ý rằng sự tác động của chính trị đối với kinh tế được thực
hiện cả bằng con đường trực tiếp lẫn con đường gián tiếp; trong đó, tác động qua hoạt
động thực tiễn, hoạt động vật chất của con người là con đường cơ bản nhất, có hiệu
quả nhất. Thực tế những năm đổi mới vừa qua cho thấy, cùng một chủ trương, một
chính sách kinh tế (những cái thuộc về chính trị) như vậy, nhưng kinh tế ở ngành này,
ở địa phương này phát triển nhanh, mạnh; ở ngành kia, địa phương kia lại phát triển rất
yếu, thậm chí không phát triển. Điều đó không chỉ hoàn cảnh, điều kiện khách quan
không như nhau, mà còn do, và chủ yếu là do, ở các ngành đó, địa phương đó, tính
năng động, sự sáng tạo của các cấp lãnh đạo và quản lý có hạn. Cho nên, cần khẳng
định rằng tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế sẽ như thế nào (thúc dẩy nhay
kìm hãm, mạnh hay yếu, hiệu quả cao hay thấp…) - điều đó phụ thuộc vào tính đúng,
sai của chính trị và mức độ của tính đúng, sai đó; tuỳ thuộc vào khả năng thâm
nhập của chính trị vào quần chúng, vào năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ lãnh
đạo và quản lý các quá trình chính trị và kinh tế tương ứng.
Sự tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị (trước hết giữa các quy luật kinh tế
và quy luật chính trị) đóng vai trò to lớn đối với sự vận động của cả cơ sở hạ tầng lẫn
kiến trúc thượng tầng, của xã hội nói chung. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị quyết
định diện mạo và bản chất của các chế độ xã hội có giai cấp, nó cũng có tác động to
lớn tới vị thế của mỗi người.
1.1.2. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị
Nếu hiểu lợi ích kinh tế là giá trị vật chất - kinh tế thoả mãn nhu cầu vật chất kinh tế của chủ thể nhu cầu và được hình thành, được xác định trong mối quan hệ giữa
người với người đối với giá trị vật chất- kinh tế đó thì lợi ích kinh tế là một vấn đề
trung tâm của kinh tế.
Thật vậy, như đã trình bày trên đây, đặt trong mối quan hệ giữa chính trị và kinh
tế, "kinh tế" trước hết và chủ yếu được hiểu là quan hệ giữa người với tự nhiên và giữa
người với người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Xét từ quan hệ thứ hai vừa
nêu, kinh tế bao gồm quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất;
trong tổ chức, quản lý quá trình sản xuất; trong phân phối và tiêu dùng các sản phẩm
được sản xuất ra. Các mặt vừa nêu trong tính tổng hợp của chúng tạo thành quan hệ
sản xuất. Trên từng phương diện của quan hệ sản xuất cũng như xét trong tổng thể
chung của nó, các quan hệ đó đều biểu hiện mối quan hệ giữa người với người đối với
đối tượng thoả mãn nhu cầu. Khi đối tượng thoả mãn nhu cầu được thực hiện đối với
chủ thể nhu cầu này- và, do đó, nó trở thành lợi ích của chính chủ thể nhu cầu đó - thì
khả năng thoả nãm nhu cầu của chủ thể khác không được thực hiện (cũng tức là lợi ích
của chủ thể đó không có). Do vậy, vấn đề lợi ích, quan hệ lợi ích trở thành vấn đề
trung tâm của kinh tế, của các quan hệ kinh tế. Về vấn đề này, Ph. Ăngghen đã nhấn
mạnh rằng những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định được biểu hiện trước hết
dưới hình thức lợi ích. Lợi ích nói chung và lợi ích kinh tế - vật chất nói riêng bao giờ
cũng nảy sinh trên cơ sở nhu cầu và hoạt động nhằm thoả mãn các nhu cầu của con
người. Lợi ích, trong đó lợi ích kinh tế, là cái thoả mãn nhu cầu và là cái đáp ứng nhu
cầu. Nó là một động lực cơ bản thúc đẩy con người hành động.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, các nhân tố cơ bản sau
đây đóng vai trò là những động lực thúc đẩy hoạt động của con người và toàn bộ lịch
sử: Phương thức sản xuất và trao đổi; sự phát triển các lực lượng sản xuất xã hội; mâu
thuẫn; đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội (trong xã hội có giai cấp); nhu cầu và lợi
ích… Tất cả các yếu tố đó đều gắn bó chặt chẽ với con người, chúng được thể hiện
thông qua hoạt động của con người. Trong số các động lực đó, nhu cầu và lợi ích là
nhân tố gắn bó chặt nhất với con người. Do vậy, chúng đóng vai trò là động lực đặc
biệt nhất, thúc đẩy con người làm ra lịch sử của mình, vô luận là lịch sử này diễn ra
như thế nào. Lợi ích kinh tế là nhân tố cuối cùng tạo nên các động lực làm chuyển
động quảng đại quần chúng, những giai cấp và dân tộc trọn vẹn… và đó là sự chuyển
động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại.
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp (thuộc lĩnh vực chính trị)
trước hết và chủ yếu biểu hiện quan hệ giữa các lợi ích mà các giai cấp đó đang theo
đuổi. Quan hệ lợi ích giữa các giai cấp cũng hết sức đa dạng, bởi vì, lợi ích mà các giai
cấp theo đuổi có nhiều loại khác nhau: Có lợi ích vật chất- kinh tế, có lợi ích chính trị,
có lợi ích văn hoá… Trong tính đa dạng, muôn vẻ của các lợi ích đó, quan điểm duy
vật về lịch sử đòi hỏi phải khẳng định vị trí ưu trội, vai trò chi phối của lợi ích vật chất
- kinh tế so với các loại lợi ích khác. Thực tế lịch sử loài người từ khi phân chia thành
giai cấp đến nay mang lại nhiều bằng chứng để khẳng định rằng, giai cấp nào nắm
được hầu hết tư liệu sản xuất trong tay thì đó cũng là giai cấp nắm vị trí chi phối trong
việc tổ chức xã hội về lao động, chiếm hầu hết sản phẩm do xã hội làm ra - tức là lợi
ích kinh tế cơ bản của giai cấp đó được thực hiện. Nhờ vậy, nó cũng là giai cấp chi
phối quyền lực chính trị, chi phối đời sống tinh thần. Tư tưởng thống trị trong mọi xã
hội có giai cấp là tư tưởng của giai cấp chi phối tư liệu sản xuất vật chất. Quan điểm
duy vật lịch sử đó của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết, là sự khái quát trung thực
từ toàn bộ lịch sử xã hội có giai cấp và được chứng minh bởi toàn bộ thực tiễn lịch sử
đó. Hiện thực của chủ nghĩa tư bản hiện đại mang lại cho chúng ta bằng chứng sống
động cho phép khẳng định một lần nữa tính đúng đắn của quan điểm mác - xít nêu
trên. Theo tờ Diễn đàn thông tin quốc tế ngày 4-7-2000, hiện nay tài sản của ba người
giàu nhất thế giới lớn hơn tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của 48 nước kém phát triển
nhất với trên 600 triệu dân; năm 1997, các nước giàu nhất chiếm 20% dân số thế giới
lại nắm 86% GDP, 82% xuất khẩu hàng hoá, 93% người sử dụng Internet; trong khi
đó, các nước nghèo nhất với 20% dân số thế giới thì chỉ nắm có 1%GNP và 0,2%
Internet. Trên quy mô quốc tế, do tình hình trên, quốc tế hoá hiện nay đang đặt dưới sự
chi phối của chủ nghĩa tư bản, làm gia tăng quyền lực của tư bản quốc tế… Đó là cơ sở
để khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên minh hiệp quốc diễn ra ở Giơ-ne-vơ cuối
tháng 6-2000 rút ra kết luận rằng sự nghèo đói, sự phát triển không đồng đều, tình
trạng mất an ninh đã tăng lên trên thế giới kể từ khi toàn cầu hoá được phát triển. Nắm
trong tay nguồn lực kinh tế, khoa học- công nghệ khổng lồ, các nước phát triển đang
khuynh đảo thế giới, liên tiếp gây sức ép toàn diện đối với các nước đang phát triển.
Đó là xét mối tương quan giữa kinh tế và chính trị trên quy mô quốc tế. Còn xét
mối tương quan này trên quy mô quốc gia, chúng ta cũng thấy rằng ngay ở Mĩ, nơi
được giới học giả phương Tây ca ngợi là dân chủ nhất, thì 20% dân số thuộc những
người giầu có cũng kiểm soát trên 80% GDP, 20% dân số gồm có những người nghèo
nhất chiếm không quá 1% GDP. Chính 20% những kẻ giầu có kia hàng ngày đang là
lực lượng có tác động quyết định tới đời sống chính trị Mĩ; hầu hết các quyết định
chính trị quan trọng liên quan tới cả đối nội và đối ngoại được thông qua hay không
đều do áp lực của số này quyết định.
Vai trò quyết định của lợi ích kinh tế đối với lợi ích chính trị không chỉ được
biểu hiện bởi mối quan hệ như vừa nêu trên (nắm được lợi ích kinh tế là cơ sở để nắm
được lợi ích chính trị), mà còn được biểu hiện ở chỗ: Việc giành lấy lợi ích chính trị
không có mục đích tự thân, mà chỉ là phương thức, là con đường, là phương tiện để đạt
lợi ích kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế. Nói cách khác, đấu tranh giành lợi ích chính
trị cũng nhằm phục vụ cho việc giành lợi ích kinh tế, bảo vệ lợi ích kinh tế.
Để khẳng định được rằng quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là
vấn đề trung tâm của quan hệ giữa kinh tế và chính trị, thì việc dừng lại ở sự khẳng
định vai trò cốt lõi của lợi ích kinh tế trong "kinh tế" và vai trò chi phối của lợi ích
kinh tế đối với lợi ích chính trị là chưa đủ, mà còn phải luận chứng được rằng, trong
"chính trị", "quyền lực chính trị" là cốt lõi. Muốn vậy, cần có quan điểm đúng đắn
về quyền lực chính trị và cấu trúc của nó.
Quyền lực chính trị, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, "là bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" [53, tr.628].Quyền lực chính trị của giai cấp
cầm quyền được tổ chức thành Nhà nước, từ đó ra đời quyền lực Nhà nước; nó được
thực hiện bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị nói
chung.
Do vậy, quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị trở thành quan hệ
giữa lợi ích kinh tế với Nhà nước, pháp luật và hệ thống chính trị nói chung. Tất cả các
yếu tố vừa nêu của hệ thống quyền lực chính trị đều có tác động không nhỏ tới kinh tế
và lợi ích kinh tế. Thật vậy, Nhà nước - như Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã nhiều lần
nhấn mạnh- là công cụ của giai cấp thống trị về kinh tế và bảo vệ lợi ích kinh tế của
giai cấp đó. Còn pháp luật? Thì C. Mác cũng dã chỉ ra rằng, pháp quyền tư sản chẳng
qua chỉ là lợi ích, ý chí của giai cấp tư sản được đưa lên thành luật mà thôi, nó nhằm
bảo vệ lợi ích đó [51, tr.619].
Như vậy, lợi ích kinh tế có tác dụng rất quan trọng, thậm chí mang tính quyết
định đối với quyền lực chính trị, đối với việc phát huy vai trò của Nhà nước, pháp luật
và toàn bộ hệ thống chính trị với tư cách là những thể chế và thiết chế thực hiện quyền
lực chính trị. Ngược lại, một khi quyền lực chính trị và các thiết chế chính trị được
củng cố, được hoàn thiện sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ, tăng cường sức
mạnh lợi ích kinh tế của chủ thể quyền lực chính trị tương ứng. Đây là những nội dung
quan trọng của quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị.
Xem xét sâu sắc hơn nữa quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị,
chúng ta còn thấy rằng, khi quan hệ sở hữu được thể hiện về mặt luật pháp thì quyền
sở hữu được xác lập.
Nhưng "quyền sở hữu" là gì? Hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau về vấn
đề này.Trong rất nhiều quan niệm khác nhau đó, có một quan niệm nhấn mạnh sự gắn
kết chặt chẽ vấn đề sở hữu với lợi ích. Đó là quan niệm coi quyền sở hữu gồm 4 quyền
năng: quyền chiếm giữ (mà không phải là quyền chiếm hữu- cái được xem là tương
đương với quyền sở hữu), quyền sử dụng, quyền định đoạt đối tượng sở hữu và quyền
hưởng lợi (tức là lợi ích)[12, tr.25]. Sở hữu gắn với lợi ích, đó là tất yếu khách quan.
Lợi ích là cái thúc đẩy sự chiếm giữ, đến lượt mình, nó lại đặt ra nhu cầu và yêu cầu
hưởng lợi ở những con người hiện thực.
Toàn bộ hoạt động của các thiết chế chính trị với tư cách là công cụ, phương
thức, phương tiện thực hiện quyền lực chính trị đều được định hướng vào việc thúc
đẩy sự vận động của chu trình trên đây theo hướng có lợi nhất cho chủ thể quyền lực.
Do đó, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, mấu chốt của vấn đề là những lợi ích kinh tế mà
quyền lực chính trị phải phục vụ với tư cách là phương tiên. Chính vì vậy, Ph.
Ăngghen cho rằng cần phải giải thích mọi hành vi của con người (trong đó có hành vi
chính trị) từ nhu cầu và lợi ích mà họ theo đuổi. Theo C. Mác, tất cả những gì mà con
người đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi ích của họ. V. I. Lênin thì cho rằng,
chính các lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc.
Trong phép biện chứng giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị thì lợi ích
kinh tế là động cơ và có giá trị hướng đích của quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
và, do đó, của quan hệ sản xuất nói chung. Chính nó là cơ sở nảy sinh và vận động của
quyền lực chính trị; còn quyền lực chính trị là nhu cầu và lợi ích của các quan hệ kinh
tế - chính trị; hoạt động chính trị nhằm thực hiện lợi ích kinh tế. Cái đặc trưng cốt lõi
và mục đích trực tiếp của chính trị là quyền lực chính trị (thuộc lợi ích chính trị). Mục
đích sâu xa của chính trị là kinh tế, là lợi ích kinh tế. Quyền lực chính trị được thúc
đẩy và củng cố nhờ sở hữu quyền lực chính trị; đến lượt nó, sự sở hữu (hay chiếm hữu)
quyền lực chính trị lại là tiền đề để đặt ra nhu cầu và yêu cầu hưởng lợi…
Khi xem xét một cách riêng biệt, có thể thấy mối quan hệ nhân quả giữa lợi ích
kinh tế với quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất cũng tương đồng như mối quan hệ
nhân - quả giữa quyền lực chính trị với quyền sở hữu quyền lực chính trị.
Khi xem xét một cách tổng hợp, chúng ta thấy quan hệ gắn bó giữa lợi ích kinh
tế và quyền lực chính trị có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đó là mối quan hệ mang tính khách quan. Cả lợi ích kinh tế lẫn quyền
lực chính trị đều xuất phát từ hiện thực khách quan. Các yếu tố hình thành nội dung
cũng như các hình thức, phương tiện thực hiện chúng đều do những điều kiện xã hội
(không tuỳ thuộc vào cá nhân) đem lại. Đến lượt mình, chúng sẽ góp phần thúc đẩy
(hoặc kìm hãm) sự phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Chính
điều đó quy định tính khách quan trong mối quan hệ qua lại giữa chính trị và kinh tế,
giữa quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế.
Thứ hai, nó mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, con người cá nhân và
con người giai cấp không tách biệt nhau. Điều đó được quy định trước hết bởi điều
kiện kinh tế, điều kiện sở hữu về tư liệu sản xuất, điều kiện sản xuất vật chất và hưởng
thụ thành quả của quá trình sản xuất vật chất. Điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau sẽ
qui định lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, theo
C. Mác và Ph. Ăngghen cần tìm nguồn gốc của các nhu cầu và lợi ích xã hội ở trong
những quan hệ sản xuất và phải quy những hiện tượng ấy vào lợi ích của những giai
cấp nhất định; cần tìm lời giải thích cho các quá trình kinh tế trong lợi ích của các
nhóm xã hội khác nhau. Đấu tranh giai cấp, suy cho cùng, cũng nhằm thoả mãn lợi ích
giai cấp và lợi ích của mỗi thành viên giai cấp nhất định nào đó. V. I. Lênin cũng đã
cảnh tỉnh là: Chừng nào người ta chưa phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai
cấp khác qua những câu nói, những lời hứa hẹn cho tính chất đạo đức, tôn giáo, chính
trị và xã hội, thì trước sau bao giờ cũng là kẻ ngốc nghếch, bị người khác lừa bịp mình
về chính trị.
Các nhà kinh điển mác - xít cũng đã dự báo sự chuyển hoá từ tính giai cấp nhỏ
hẹp của lợi ích sang tính chung, giá trị phổ biến của nó. Theo c. Mác, sự phụ thuộc của
những cá nhân vào những giai cấp nhất định sẽ bị xoá bỏ, khi hình thành một giai cấp
không phải bảo vệ một lợi ích giai cấp riêng biệt chống lại giai cấp thống trị. Sự ra đời
của giai cấp vô sản cầm quyền sẽ tạo ra điều kiện cho sự chuyển hoá đó. Bởi vì, để giải
phóng mình và toàn xã hội nói chung, sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, nó phải
biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến. Trong quá trình đi đến thủ
tiêu Nhà nước, thủ tiêu giai cấp và, cùng với nó, là lợi ích giai cấp, thì lợi ích kinh tế
và quyền lực chính trị luôn mang dấu ấn giai cấp, luôn in đậm nét quan hệ giữa các
giai cấp trên cơ sở các quan hệ sản xuất cụ thể và kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Thứ ba, quan hệ đó mang tính chất lịch sử - xã hội. Đây là hệ quả của hai tính
chất trên. Tình chất này được xác định bởi chỗ, mức độ thoả mãn và đáp ứng đối với
lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị không thể cao hơn khả năng mà hiện thực có
được. Tính lịch sử - cụ thể của lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị quy định tính lịch
sử- cụ thể trong tính chất và trình độ của thể chế kinh tế và thể chế chính trị cũng như
quan hệ qua lại giữa chúng. Mỗi chế độ xã hội trong nấc thang phát triển cụ thể của nó
có hệ thống nhu cầu riêng, cho nên cũng làm nảy sinh một hệ thống lợi ích kinh tế và
chính trị tương ứng. Chính do tính quy định lịch sử- xã hội này mà sự phát triển, tiến
hoá và tính chất người của lợi ích kinh tế cũng như quyền lực chính trị mang tính lịch
sử - nhân văn mà loài người có được.
Tính quy định lịch sử - xã hội này, một mặt, là sản phẩm của các điều kiện kinh
tế, chính trị đương đại; mặt khác, là sản phẩm của sự kế thừa từ các thế hệ trước cũng
như từ các dân tộc, các quốc gia đương thời. Tính quy định lịch sử - xã hội đối với lợi
ích kinh tế và quyền lực chính trị bộc lộ rõ trong mâu thuẫn xã hội, trước tiên là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng. Những mâu thuẫn này là cơ sở định vị mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị nói chung, đặc biệt, giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị nói riêng.
Thứ tư, quan hệ đó mang tính thống nhất biện chứng: giữa lợi ích cá nhân với
quyền lực chính trị của cá nhân và của giai cấp có sự khác biệt, thậm chí có mâu
thuẫn. Lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị được thể hiện ở cả con người cá nhân - cá
thể lẫn con người giai cấp, con người xã hội - cộng đồng, tộc loại. Trên tinh thần đó,
theo C. Mác, lợi ích (bao gồm cả lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị) cá nhân và lợi
ích xã hội luôn luôn xuất hiện và vận động trong mối quan hệ biện chứng với nhau. C.
Mác đã phân định rạch ròi hai phương diện là cá nhân "lệ thuộc điều kiện giai cấp" và
cá nhân "nhân cách"; đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng, muốn kết hợp được lợi ích cá
nhân với lợi ích xã hội một cách triệt để nhất, phải xoá bỏ tình trạng phân chia xã hội
ra thành các giai cấp để đạt tới chỗ: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do cho tất cả mọi người.
Để thấy rõ hơn tính lịch sử của mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị, dưới đây xin trình bày thêm sự vận động của quan hệ đó trong lịch sử.
Nội dung và tính chất cụ thể của quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị bị quy định bởi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội - giai cấp được nảy sinh từ
cơ cấu kinh tế đó, bởi các mâu thuẫn kinh tế - xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp…
Trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, mối quan hệ đó có nội dung và
hình thức biểu hiện không như nhau.
Trong xã hội cộng sản nguyên tuỷ không có chế độ chiếm hữu tư nhân đối với
tư liệu sản xuất, không có tính trạng phân chia thành giai cấp, không có quan hệ giai
cấp và, do đó, không có chính trị, không có quyền lực chính trị, đương nhiên
cũng không có quan hệ lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị. Trong xã hội này chỉ có
thể ra đời và tồn tại quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực xã hội phi chính
trị. Ở đây, lợi ích kinh tế thể hiện ở sở hữu chung đối với tư liệu sản xuất và tiêu dùng
chung đối với sản phẩm mà công xã làm ra. Phù hợp với phân công lao động còn rất
hạn chế, cơ cấu xã hội chỉ giới hạn ở sự mở rộng của đại gia đình thị tộc. Nhiều thị tộc
hợp thành bộ lạc. Bộ lạc có cơ cấu: Dưới tù trưởng là những thành viên bộ lạc và cuối
cùng là những người lao động. Thoạt đầu, đứng đầu thị tộc là phữn (nên gọi thị tộc
mẫu hệ), về sau, gần cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ, do trồng trọt và chăn nuôi phát
triển, người đàn ông dần dần đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế và , do đó,
giữ địa vị chi phối thị tộc.
Về mặt tổ chức quyền lực xã hội: Mỗi thị tốc có hội nghị toàn thị tộc do tộc
trưởng xếp đặt. Các thị tộc bầu ra tộc trưởng đứng đầu thị tộc và tham gia vào hội
đồng bộ lạc. Khi có chiến tranh, bộ lạc bầu ra thủ lĩnh quân sự. Tù trưởng và thủ lĩnh
quân sự không được ưu đãi về vật chất hơn những người khác. Quyền uy của những
người có cương vị trong công xã chỉ nặng về tinh thần và họ có thể bị hội nghị toàn thị
tộc bãi miễn. Ở đây mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực xã hội phi chính trị,
nhìn chung, là hài hoà và thống nhất.
Cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ, sự thống nhất này bị phá vỡ từng bước và
xuất hiện mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế của người lao động và bộ phận nắm giữ hệ
thống quyền lực xã hội. Mâu thuẫn đó xuất hiện là do sự phát triển của công cụ sản
xuất nói riêng, của lực lượng sản xuất nói chung đã góp phần tăng cường sự phân công
lao động xã hội và gia tăng năng suất lao động. Lao động thặng dư và sản phẩm thặng
dư ngày càng nhiều. Bằng lao động hết sức mình, người lao động có thể tạo ra một
lượng sản phẩm sau khi tiêu dùng ở mức tối thiểu cần thiết, còn có một lượng dư thừa.
Lòng ham muốn chiếm hữu chúng nảy sinh ở người nắm bộ máy quyền lực của công
xã hội. Mặt khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng cho phép người ta có thể
tiến hành sản xuất một cách riêng rẽ và mang lại hiệu quả cao hơn là sản xuất chung
trên cơ sở sở hữu chung đối với tư liệu sản xuất. Chế độ sở hữu tư nhân từng bước
hình thành. Những người nắm hệ thống quyền lực xã hội trong công xã sử dụng quyền
lực của mình để biến tư liệu sản xuất chung thành của riêng. Những chủ nô đầu tiên ra
đời.
Ngoài ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự gia tăng của năng suất lao
động đã làm cho tù binh bắt được trong cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc trở thành
nhân tố có lợi về mặt kinh tế đối với người chiến thắng. Khi đó, tù binh không còn bị
xử lý như trước (hoặc là giết đi, hoặc trả họ về công xã của mình), họ buộc phải lao
động khổ sai để mang lại sản phẩm thặng dư cho giới có cương vị thuộc công xã thắng
trận. Những người nô lệ đầu tiên trong lịch sử đã xuất hiện. Trong quá trình phát triển
tiếp theo, sự "sa cơ lỡ vận" của một bộ phận ngày càng đông đảo của người lao động
khiến họ trắng tay, họ được bổ sung vào hàng ngũ những người nô lệ. Xã hội có giai
cấp đối lập nhau về lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị ra đời. Những cơ quan quyền
lực chung của mọi thành viên công xã trước đây cũng dần dần biến thành công cụ
riêng của những kẻ chủ nô. Để củng cố và hoàn thiện sự cai trị của mình, giai cấp chủ
nô đã hình thành và tăng cường các thể chế quyền lực. Nhà nước chiếm hữu nô lệ xuất
hiện.Cũng từ đây, mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị bắt đầu sự
hiện diện của mình trong xã hội.
Trong xã hội nô lệ, mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị được
thể hiện ở trao đổi hàng hoá, trao đổi quyền chiếm hữu nô lệ. Sự trao đổi đó đầu tiên
được thực hiện giữa các bộ lạc, về sau là giữa các cá nhân tù trưởng và thủ lĩnh quân
sự, một bộ phận người lao động tự do. Chế độ tư hữu đã thúc đẩy mối quan hệ tương
tác giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị không phải theo chiều hướng thống nhất,
hài hoà đối với mọi thành viên xã hội, đối với mọi giai cấp, mà theo chiều gia tăng của
sự đối kháng giữa các giai cấp. Sự gia tăng đó được quy định bởi sự gia tăng của đối
lập trong quan hệ lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị giữa giai cấp thống trị (chủ nô)
và giai cấp bị trị (nô lệ). Đối với từng giai cấp trong hai giai cấp đó luôn có sự thống
nhất: Giai cấp chủ nô là chủ thể của hầu hết tư liệu sản xuất, do vậy, là chủ thể của hầu
hết lợi ích kinh tế thì họ cũng là chủ thể của quyền lực chính trị; ngược lại, nô lệ, về cơ
bản, không có lợi ích kinh tế nên cũng không có lợi ích chính trị và quyền lực chính trị
nói chung.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, lợi ích kinh tế lớn nhất của chủ nô là quyền
chiếm hữu cả về tư liệu sản xuất và nô lệ. Lợi ích kinh tế lớn nhất mà người nô lệ đấu
tranh để thoát khỏi tình trạng nô lệ của mình là trở thành chủ nhân của một mảnh
ruộng nhỏ bé hay đàn gia súc. Mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị
thể hiện ở việc chiếm hữu và đấu tranh thoát khỏi nạn chiếm hữu nô lệ, ruộng đất; ở
việc tăng cường Nhà nước quân sự chủ nô hay chống lại nó.
Nhìn nhận vấn đề từ sự tiến bộ lịch sử, sự tác động qua lại giữa lợi ích kinh tế và
quyền lực chính trị khi ra đời chế độ chiếm hữu nô lệ đã mang lại những tiến bộ nhất
định. Chẳng hạn, Nhà nước chủ nô tập trung số lượng lớn tư liệu sản xuất và nô lệ
(bằng những biện pháp cưỡng bức, bóc lột tàn bạo) để tổ chức việc hiệp tác lao động
giản đơn trên quy mô lớn và lẻ tẻ có sự phân công trong nội bộ từng ngành sản xuất,
tức là, ở mức độ nhất định, có chuyên môn hoá thành những nghề khác nhau. Thật vậy,
trong nông nghiệp, bên cạnh trồng lúa, dần dần có nghề vườn, chăn nuôi súc vật, chế
biến sản phẩm nông nghiệp.v.v. Trong thủ công nghiệp và công nghiệp, có khai
khoáng, luyện kim, rèn mộc, làm đồ trang sức, dệt vải… "Nhờ đó tạo ra được khối
lượng lớn sản phẩm thặng dư và các công trình xây dựng (kiến trúc, thuỷ lợi) to lớn từ
sự tập trung số lượng lớn lao động nô lệ" [79, tr. 54-58].
Sự áp bức, bóc lột dã man của chủ nô đã đưa đến hậu quả chính trị là tăng cường
cuộc đấu tranh giai cấp giữa nô lệ và chủ nô. Quyền lực chính trị tàn bạo của chủ nô đã
mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho giai cấp chủ nô trong điều kiện trình độ lực lượng
sản xuất còn rất thấp kém, hơn nữa, quyền lực chính trị đó đã được tổ chức thành bộ
máy chà đạp người lao động và dùng chiến tranh để duy trì, mở rộng quyền lực chính
trị.
Dưới chế độ phong kiến, lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền (giai cấp địa chủ, phong kiến) được nhằm vào việc chiếm hữu ruộng đất, cống
nạp địa tô của nông dân và duy trì Nhà nước tập quyền với sự cắt cứ của các lãnh chúa
phong kiến. Mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị được đặc trưng
ở sự phụ thuộc và sự cưỡng bức phi kinh tế được thực hiện từ phía giai cấp cầm quyền;
ngược lại, về phía bị trị (nông dân và những người tiểu chủ…), lợi ích kinh tế mà họ
hướng tới là xoá bỏ bóc lột địa tô, yêu cầu quyền lực chính trị mà họ cần có là tham
gia và tiến tới trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước.
Lợi ích kinh tế của giai cấp địa chủ, phong kiến được thực hiện, chẳng hạn, bằng
chế độ đẳng cấp, đạo đức, tôn giáo (như Khổng giáo ở Á Đông) trên cơ sở người nông
dân bị lệ thuộc vào ruộng đất phong kiến [79, tr.65-67]. Tái sản xuất giản đơn rời rạc
của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong từng gia đình nông dân và sự phụ thuộc, sự
cưỡng bức phi kinh tế đã duy trì sản xuất nhỏ tự nhiên và tính chất bảo thủ, trì trệ của
mối dây liên hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị phong kiến kéo dài hàng
ngàn năm. Rốt cuộc, nó đã làm gay gắt mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế, quyền lực chính
trị của giai cấp địa chủ, phong kiến. Do được "gia cố" bằng bóc lột kinh tế và sự cưỡng
bức phi kinh tế đối với nông dân, quyền lực chính trị của địa chủ, phong kiến không
dung hoà và không khai thông được cơ chế vận hành các lợi ích kinh tế của giai cấp
nông dân, làm cho các phong trào khởi nghĩa của giai cấp nông dân ngày càng tăng.
Cùng với sự mở rộng của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tầng lớp thợ thủ công,
nông dân tự do, thị dân và tầng lớp tư sản lớn dần lên và luôn tìm cách thoát ra khỏi cơ
chế cưỡng bức phi kinh tế phong kiến. Điều đó đã góp phần đáng kể vào quá trình phá
vỡ kết cấu kinh tế- chính trị phong kiến.
Trong quá trình hình thành và phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản không còn được thực hiện bằng sự kết hợp sản xuất
và sở hữu theo những cộng đồng nhỏ hẹp như hộ gia đình, phường hội thủ công… Sự
tách rời hoàn toàn giữa lao động và quyền sở hữu tư liệu sản xuất được thực hiện triệt
để, giữa công nhân và tư bản đối lập nhau như là người bán và người mua hàng hoá
[80, tr.22-23]. Động cơ chủ yếu của lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị thuộc giai
cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng dư, tư do mua bán hàng hoá (đặc biệt là hàng hoá sức
lao động), cạnh tranh và thao túng bộ máy Nhà nước vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận
siêu ngạch. Trái lại, lợi ích kinh tế cơ bản và yêu cầu quyền lực chính trị tương ứng
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động là xoá bỏ tình trạng lao động trở thành
hàng hoá, họ phải trở thành chủ thể thực sự của mọi tư liệu sản xuất, loại bỏ tình trạng
bóc lột giá trị thặng dư- mang lại những tiến bộ nhất định. Chẳng hạn, Nhà nước chủ
nô tập trung số lượng lớn tư liệu sản xuất và nô lệ (bằng những biện pháp cưỡng bức,
bóc lột tàn bạo) để tổ chức việc hiệp tác lao động giản đơn trên quy mô lớn và lẻ tẻ có
sự phân công trong nội bộ từng ngành sản xuất, tức là, ở mức độ nhất định, có chuyên
môn hoá thành những nghề khác nhau. Thật vậy, trong nông nghiệp, bên cạnh trồng
lúa, dần dần có nghề vườn, chăn nuôi súc vật, chế biến sản phẩm nông nghiệp, v.v.
Trong thủ công nghiệp và công nghiệp, có khai hoang, luyện kim, rèn, mộc, làm đồ
trang sức, dệt vải, … "Nhờ đó tạo ra được khối lượng lớn sản phẩm thặng dư và các
công trình xây dựng (kiến trúc, thủy lợi) to lớn từ sự tập trung số lượng lớn lao động
nô lệ"[79, tr. 54-58].
Sự áp bức, bóc lột dã man của chủ nô đã đưa đến hậu quả chính trị là tăng cường
cuộc đấu tranh giai cấp giữa nô lệ và chủ nô. Quyền lực chính trị tàn bạo của chủ nô đã
mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho giai cấp chủ nô trong điều kiện trình độ lực lượng
sản xuất còn rất thấp kém, hơn nữa, quyền lực chính trị đó đã được tổ chức thành bộ
máy chà đạp người lao động và dùng chiến tranh để duy trì, mở rộng quyền lực chính
trị.
Dưới chế độ phong kiến, lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền (gia cấp địa chủ, phong kiến) được nhằm vào việc chiếm hữu ruộng đất, cống
nạp địa tô của nông dân và duy trì Nhà nước tập quyền với sự cát cứ của các lãnh chúa
phong kiến. Mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị được đặc trưng
ở sự phụ thuộc và cưỡng bức phi kinh tế được thực hiện từ phía giai cấp cầm quyền;
ngược lại, về phía bị trị (nông dân và những người tiểu chủ…), lợi ích kinh tế mà họ
hướng tới là xoá bỏ bóc lột địa tô, yêu cầu quyền lực chính trị mà họ cần có là tham
gia và tiến tới trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước.
Lợi ích kinh tế của giai cấp địa chủ, phong kiến được thực hiện, chẳng hạn, bằng
chế độ đẳng cấp, đạo đức, tôn giáo (như Khổng giáo ở Á Đông) trên cơ sở người nông
dân bị lệ thuộc vào ruộng đất phong kiến [79, tr. 65-67]. Tái sản xuất giản đơn rời rạc
của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong từng gia đình nông dân và sự phụ thuộc, sự
cưỡng bức phi kinh tế đã duy trì sản xuất nhỏ tự nhiên và tính chất bảo thủ, trì trệ của
mối dây liên hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị phong kiến kéo dài hàng
ngàn năm. Rốt cuộc, nó đã làm gay gắt mâu thuẫn lợi ích kinh tế và yêu cầu quyền lực
chính trị của giai cấp nông dân với lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị của giai cấp địa
chủ, phong kiến. Do được "gia cố" bằng bóc lột kinh tế và sự cưỡng bức phi kinh tế
đối với nông dân, quyền lực chính trị của địa chủ, phong kiến không dung hoà và
không khai thông được cơ chế vận hành các lợi ích kinh tế của giai cấp nông dân, làm
cho các phong trào khởi nghĩa của giai cấp nông dân ngày càng tăng.
Cùng với sự mở rộng của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tầng lớp thợ thủ công,
nông dân tự do, thị dân và tầng lớp tư sản lớn dần lên và luôn tìm cách thoát ra khỏi cơ
chế cưỡng bức phi kinh tế phong kiến. Điều đó đã góp phần đáng kể vào quá trình phá
vỡ kết cấu kinh tế - chính trị phong kiến.
Trong quá trình hình thành và phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản không còn được thực hiện bằng sự kết hợp sản xuất
và sở hữu theo những cộng đồng nhỏ hẹp như hộ gia đình, phường hội thủ công… Sự
tách rời hoàn toàn giữa lao động và quyền sở hữu tư liệu sản xuất được thực hiện triệt
để, giữa công nhân và tư bản đối lập nhau như là người bán và người mua hàng hoá
[80, tr22-23]. Động cơ chủ yếu của lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị thuộc giai cấp
tư sản là bóc lột giá trị thặng dư, tự do mua bán hàng hoá (đặc biệt là hàng hoá sức lao
động), cạnh tranh và thao túng bộ máy Nhà nước vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận siêu
ngạch. Trái lại, lợi ích kinh tế cơ bản và yêu cầu quyền lực chính trị tương ứng của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động là xoá bỏ tình trạng lao động trở thành hàng
hoá, họ phải trở thành chủ thể thực sự của mọi tư liệu sản xuất, loại bỏ tình trạng bóc
lột giá trị thặng dư - hình thức bóc lột cuối cùng trong lịch sử, do đó, cũng là loại bỏ
mọi hình thức bóc lột nói chung; quyền lực chính trị - Nhà nước phải thuộc về nhân
dân, vì nhân dân… Tính đối kháng của lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị giữa hai
giai cấp cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa quy định tính đối kháng đặc trưng của mối
quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị thuộc hai giai cấp đó. Sự đối kháng
này mang tính trực tiếp nhất, rõ ràng nhất; việc khắc phục nó đòi hỏi một sự thay đổi
triệt để nhất theo xu hướng thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà chuyển quan hệ
đối kháng thành không đối kháng, tiến tới sự tiêu vong của bản thân mối quan hệ giữa
lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị (khi không còn chính trị).
Trong quá trình phát triển của lịch sử, sự chuyển hoá từ quan hệ lợi ích kinh tế
và quyền lực chính trị dựa trên chế độ chiếm hữu ruộng đất là chính sang quan hệ giữa
lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị dựa trên chiếm hữu sức lao động là chính là một
bước tiến mang tính lịch sử vĩ đại, nó gắn liền với sự ra đời và củng cố chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đánh giá tiến bộ của kinh tế, chính trị, xã hội do sự ra đời của chủ nghĩa tư
bản mang lại, V. I. Lênin khẳng định: "Vai trò tiến bộ của chủ nghĩa tư bản về mặt lịch
sử có thể tóm tắt bằng hai luận điểm: tăng cường sản xuất của lao động xã hội và xã
hội hoá lao động"[37, tr.753-754].
Từ việc nghiên cứu quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư
bản chủ nghĩa, chúng ta có thể thấy rằng, trước yêu cầu mang tính tất yếu là xoá bỏ
nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc với một thị trường hạn hẹp để mở đường cho những
quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển, những nhà tư tưởng tiến bộ của giai cấp tư
sản đã đưa ra học thuyết kinh tế theo xu hướng trọng thương. Theo đó, tiền tệ, ngoại
thương là nội dung căn bản của cải, là thước đo sự hưng thịnh của quốc gia. Vì thế, vai
trò của Nhà nước (thuộc về chính trị là phải đặt trọng tâm vào việc tạo ra các điều kiện
cho sự phát triển thương nghiệp, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá nội địa và quốc tế, tăng
khối lượng tiền tệ. Về mặt xã hội, Nhà nước nêu cao vai trò của tầng lớp nhân dân.
Khi công trường thủ công ngày càng phát triển, trọng tâm lợi ích kinh tế của giai
cấp tư sản dần dần chuyển lĩnh vực sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp. Từ đó
hình thành chủ nghĩa trọng nông. Theo quan điểm đó, nguồn gốc duy nhất của nguồn
của cải là sự kết hợp giữa sức lao động và ruộng đất. Vai trò quốc gia, vì lẽ đó, là phải
tập trung vào việc phát triển nông nghiệp. Để nông nghiệp phát triển, Nhà nước phải
giải phóng nông dân, giải phóng kinh tế nông nghiệp khỏi những quan hệ phong kiến;
nhờ đó, nông nghiệp được phát triển theo kiểu kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bao trùm lên
tất cả là Nhà nước phải thừa nhận quyền bất khả xâm phạm đối với chế độ sở hữu tư
bản tư nhân kể cả đối với ruộng đất.
Đây là những tiền đề để xác lập tính ưu trội của quyền lực đầy đủ thuộc sở hữu
tư sản đối với sở hữu phong kiến. Sự phát triển nhảy vọt trong lĩnh vực kinh tế, trước
hết trong các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, tạo ra miếng đất màu mỡ gieo mầm
cuộc cách mạng chính trị do giai cấp tư sản tiến hành nhằm thủ tiêu chế độ vương
quyền.
Sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí đã thúc đẩy thị trường dân tộc hình
thành. Nhờ sự xâm lược của hàng hoá và quân đội thực dân mà thị trường quốc tế
được mở rộng. Những thay đổi đó đã mang lại bước tiến mạnh mẽ cho sự phát triển xã
hội. Tuy mới được xác lập trong vòng chưa đầy ba thế kỷ- như sự phân tích của C.
Mác và Ph. Ăngghen trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản-CNTB đã tạo ra
một lượng của cải bằng toàn bộ lượng của cải mà loài người đã tạo ra cho đến lúc đó.
Tuy nhiên, ngay ở giai đoạn phát triển nhất của chủ nghĩa tư bản, lợi ích kinh tế và
quyền lực chính trị tư bản chủ nghĩa, do đó, lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị cũng
chỉ có trong tay những kẻ tư hữu tư liệu sản xuất - một thiểu số trong chế độ xã hội
này. Động cơ lợi nhuận siêu ngạch đã thấm đầy máu trong vòng quay từ lợi ích kinh tế
đến quyền lực chính trị của giai cấp tư sản. Trước thực trạng đó, các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng ở thế kỷ XVIII, XIX đã phân tích một cách sâu sắc với thái độ phê
phán triệt để tình trạng sản xuất vô chính phủ, bị thao túng bởi chủ nghĩa cá nhân, lợi
nhuận và sự gia tăng tình trạng bần cùng của quần chúng lao động. Từ sự phê phán đó,
các ông đòi hỏi phải thủ tiêu sự tha hoá của con người do chế độ chiếm hữu tư nhân
TBCN gây ra, phải làm cho nhân dân lao động trở thành chủ sở hữu thực tế đối với tư
liệu sản xuất để, từ đó, xây dựng một xã hội thực sự công bằng, bình đẳng. Muốn vậy,
nền chính trị phải là nền chính trị của nhân dân và vì nhân dân; nhân dân phải trở
thành chủ thể duy nhất của mọi quyền lực chính trị.
Kế thừa những tư tưởng đó, các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác-Lênin đã bóc
trần bản chất và động cơ làm quay guồng máy và cũng gây ra mâu thuẫn đối kháng
trong quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản trong chủ nghĩa tư bản. Cốt lõi tạo thành sự đối kháng đó là: tính chất xã hội
hoá của lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa tư bản càng cao bao nhiêu, mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá đó với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa đối với tư liệu sản xuất càng gay gắt bấy nhiêu. Mâu thuẫn cơ bản trên lĩnh vực
kinh tế làm gay gắt mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội đó- mâu thuẫn
giữa tư sản và vô sản. Mâu thuẫn đối kháng trong kết cấu kinh tế, xã hội- chính trị của
chủ nghĩa tư bản không chỉ được biểu hiện trong mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản, mà còn được biểu hiện trong mâu thuẫn giữa Nhà nước (thuộc chính trị)
của nhóm đầu sỏ tư bản công nghiệp và tư bản tài chính với quá trình xã hội hoá lực
lượng sản xuất của xã hội. Các mâu thuẫn đó làm tăng cường cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản trong lòng chủ nghĩa tư bản, đẩy mạnh sự phát triển của các cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa tại nhiều nước trên thế giới; đưa phong trào giải phóng của các
dân tộc thuộc địa ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền cuối thế kỷ XIX tiến lên và
thành cao trào vào giữa thế kỷ XX. Mặc dù có những giai đoạn thoái trào và khủng
hoảng, đổ vỡ (như sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vừa
qua), nhưng các tiền đề kinh tế và chính trị để khắc phục vòng quay phi nhân tính của
guồng máy lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị tư bản chủ nghĩa đã và đang được tạo
ra.
Như vậy, trong sự phát triển kế tục của các hình thái kinh tế- xã hội trong lịch
sử, lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị luôn có sự thống nhất đối với một giai cấp cụ
thể: Giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó cũng nắm được
quyền lực Nhà nước; ngược lại, giai cấp đối lập về cơ bản, không có cả hai, nên luôn
đấu tranh để làm thay đổi quan hệ đó: Vươn lên đạt được lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị. Do đó, quan hệ về lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị giữa các giai cấp cơ
bản của chế độ tư hữu luôn nằm trong trạng thái đối lập - đối kháng nhau. Trong giai
đoạn hiện nay của thời đại, biểu hiện của sự đối lập đó là các tập đoàn tư bản tài chính
đã chiếm hữu lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của đại đa số thành viên xã hội,
thông qua các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia để thao túng bộ máy Nhà nước quân
sự và tài phiệt: còn giai cấp công nhân và những người lao động hầu như chỉ có hai
bàn tay trắng trên cả lợi ích kinh tế lẫn quyền lực chính trị. Tính chất đối lập còn được
biểu hiện ở mâu thuẫn không điều hoà được giữa lợi ích kinh tế tư bản tư nhân siêu lợi
nhuận với xu hướng tất yếu phải tiến tới "xã hội hoá" quyền lực chính trị. Đó cũng là
một mâu thuẫn thúc đẩy sự tan rã của chủ nghĩa tư bản, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa [95, tr.78-80].
Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị trong chế độ xã hội chủ
nghĩa mang những điểm mới về nguyên tắc.
Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị, như trên đã trình bày, là cốt
lõi của quan hệ giữa kinh tế (mà cốt lõi là quan hệ sản xuất) và chính trị (mà cốt lõi là
quyền lực chính trị, là Nhà nước). Vì thế, quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị trong chủ nghĩa xã hội mang đậm dấu ấn của quan hệ sản xuất và Nhà nước
XHCN cùng đặc điểm mối quan hệ qua lại giữa chúng. Ở trình độ chín muồi của mình,
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể đối với
những tư liệu sản xuất cơ bản; Nhà nước XHCN thực sự là của dân, do dân, vì dân.
Chủ thể của lợi ích kinh tế cơ bản cũng chính là chủ thể của quyền lực chính trị - đó là
nhân dân. Sự đối kháng trong quan hệ giữa các tập đoàn người về lợi ích kinh tế cũng
như quyền lực chính trị sẽ mất đi.
Sự vận động, phát triển của lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị trong CNXH
phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất yếu, ổn định của quá trình hình thành xã hội
xã hội chủ nghĩa. Đó chính là sự vận động và phát triển theo những quy luật khách
quan, trước hết là các quy luật kinh tế. Trong những xã hội dựa trên chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, các quy luật xã hội, trong giai đoạn có quy luật kinh tế, vận hành
thông qua hoạt động của con người một cách tự phát là cơ bản, tựa như những lực
lượng tự nhiên tác động một cách mù quáng sau lưng người sản xuất. Trái lại, trong xã
hội XHCN,các quy luật kinh tế và chính trị, về cơ bản, được phát huy thông qua sự
hoạt động tự giác của con người; con người có thể và cần thiết tạo điều kiện cho chúng
tác động, vận dụng chúng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, sự
thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã
hội được thực hiện thông qua việc vận dụng có ý thức mối quan hệ biện chứng giữa
các quy luật kinh tế và quy luật chính trị.
Hai điểm mới mang tính nguyên tắc trên dẫn đến các điểm mới căn bản sau
đây trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị
trong chế độ XHCN:
Một là, trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công
nhân, nhân dân lao động muốn giải phóng mình khỏi những quan hệ tư sản (hoặc tiền
tư sản) làm tha hoá con người, trước hết họ phải giành lấy quyền lực chính trị.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi phác hoạ những giai đoạn
lớn của cách mạng XHCN nhằm đem lại dân chủ thực sự, cụ thể là dân chủ trong việc
thực hiện và thoả mãn lợi ích kinh tế cũng như thực hiện quyền lực chính trị của nhân
dân. C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, trước hết giai cấp công nhân phải tự tổ chức
thành giai cấp thống trị và giành lấy dân chủ (với ý nghĩa trực tiếp của nó là giành lấy
quyền lực Nhà nước, tức là giành lấy quyền dân chủ trên lĩnh vực chính trị), rồi sử
dụng quyền lực đó để phát triển kinh tế và mang lại lợi ích kinh tế cho quảng đại quần
chúng nhân dân.
Hai là, trong xã hội XHCN, Nhà nước đóng vai trò là thiết chế cơ bản để thực
hiện lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của quảng đại quần chúng nhân dân.
Học thuyết đấu tranh giai cấp mà C. Mác vận dụng vào vấn đề quan hệ sản xuất,
Nhà nước và cách mạng tất nhiên phải đi đến chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị
của giai cấp vô sản. Chuyên chính vô sản là công cụ chuyên chính của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Chức năng cơ bản nhất của nó không phải chỉ là ở trấn áp
những kẻ thực hiện mưu đồ khôi phục chế độ người bóc lột người, mà còn là - và chủ
yếu là -cải biến toàn diện xã hội cũ; xây dựng thành công xã hội mới trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội theo những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Do vậy,
ngay trong chế độ XHCN, dân chủ và chuyên chính cũng không tách rời nhau. Dân
chủ phải gắn liền với tập trung, với kỷ cương, pháp chế. Cơ sở và mục đích của tập
trung là dân chủ và để thực hiện dân chủ. Tập trung là để bảo vệ dân chủ khỏi bị vi
phạm và xuyên tạc làm cho dân chủ bị biến dạng; tập trung là phương thức thực hiện
dân chủ, nhưng không biến nó thành một cứu cách cũng như không được tuyệt đối hoá
yếu tố này để xem nhẹ hay phủ nhận yếu tố kia. Bời vì, tách dân chủ ra khỏi tập trung
thì không còn là dân chủ theo nghĩa tích cực, lành mạnh của nó nữa. Nó bị biến dạng
thành tự do vô chính phủ, thành dân chủ cực đoan mà thực chất là phá hoại dân chủ.
Chính vì vậy, theo V. I. Lênin, "tập trung dân chủ, một mặt thật khác xa với tập trung
quan liêu chủ nghĩa, và mặt khác thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ"[42, tr.185].
Trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị cơ bản của từng
thành viên xã hội sẽ từng bước tiến tới sự thống nhất hài hoà với lợi ích kinh tế của xã
hội và quyền lực nhân dân để bảo đảm sự thống nhất và ràng buộc lẫn nhau giữa quyền
lợi và nghĩa vụ, gắn liền với pháp luật và kỷ cương xã hội. Do vậy, tập trung dân chủ