Tải bản đầy đủ (.doc) (190 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ NHÀ nước với sự PHÁT TRIỂN KINH tế HÀNG hóa NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY ở CỘNG hòa dân CHỦ NHÂN dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.42 KB, 190 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần một thế kỷ, nhân dân các bộ tộc Lào đã đấu tranh kiên cường
bất khuất, tự lực tự cường chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
phong kiến và tay sai. Phong trào đấu tranh anh dũng của nhân dân Lào đã
giành được những thắng lợi to lớn chưa từng có trong lịch sử, đã xóa bỏ
hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, xây dựng lên một chế độ mới, chế
độ Cộng hòa Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào. Ngày 2 tháng 12 năm
1975 mở ra kỷ nguyên mới: độc lập tự do và từng bước tiến lên theo định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Nhà nước CHDCND Lào được xây dựng trên cơ sở nền kinh tế sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, yếu kém, tồn tại nhiều loại hình sản xuất mang
tính chất tự nhiên, tự cấp tự túc. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên
lạc yếu kém, cơ cấu xã hội nông dân chiếm 90% dân số và tập trung ở vùng
nông thôn.
Những năm đầu của chế độ mới, Nhà nước Lào có chủ trương quốc
hữu hóa trong công nghiệp, tăng cường khu vực Nhà nước trong thương
nghiệp và giao thông vận tải, xúc tiến phong trào hợp tác hóa nông nghiệp.
Chấp nhận hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc dân và thành
phần kinh tế tập thể, với cơ chế quản lý tập trung quan liêu hành chính, bao
cấp làm cho hiệu quả của nền kinh tế bị giảm sút.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân
cách mạng (NDCM) Lào năm 1986 đã nêu rõ: thời kỳ quá độ là thời kỳ còn
tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Chúng ta phải quyết tâm từng bước xóa bỏ
cơ chế cũ, thực hiện cơ chế mới, bằng cách chấp nhận thực trạng sự tồn tại
nhiều thành phần kinh tế gắn liền với cơ chế quản lý mới.
1


Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu lịch sử. Xuất phát


từ tình hình cụ thể về kinh tế - xã hội và thực tiễn của việc xây dựng chế độ
mới của đất nước Lào, cùng với kinh nghiệm ở các nước anh em, Đại hội
lần thứ V của Đảng NDCM Lào đã khẳng định: hiện nay chúng ta đang ở
trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ DCND tạo tiền đề để
từng bước tiến lên CNXH.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, toàn Đảng, toàn dân đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường sự đoàn kết thống
nhất trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức, tích cực khuyến khích
kinh tế nhiều thành phần, nhằm phát triển lực lượng sản xuất cho vững
mạnh, chuyển nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế hàng
hóa, làm cho đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân các bộ tộc Lào
ngày càng phát triển.
Kinh tế nhiều thành phần là bước phát triển tất yếu của quá trình từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường cũng có thể định hướng lên
CNXH mà cũng có thể phát triển sang quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản
(CNTB).
Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN
thì vai trò của Đảng cầm quyền và của Nhà nước cực kỳ quan trọng.
Ở đất nước Lào, việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng XHCN tất yếu phải có sự hướng dẫn, quản lý của Nhà
nước. Chính vì vậy, đề tài này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự
phát triển đất nước Lào khi mà bối cảnh thế giới hiện nay đang trong sự
biến đổi to lớn. Như vậy, việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN, tất yếu phải có sự hướng dẫn của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2



Sự phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, công nghệ trên thế giới
đòi hỏi các quốc gia phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển mạnh mẽ các
ngành sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Do tình hình đó, nhiệm vụ quản lý
hành chính nhà nước hết sức nặng nề, nhất là thực hiện chức năng quản lý
và điều hành nền kinh tế, góp phần đưa đất nước nhanh chóng trở thành
nước công nghiệp trong vài thập kỷ tới theo định hướng XHCN.
Ở Việt Nam có nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu vai trò của Nhà
nước đối với sự quản lý kinh tế trong nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh khác
nhau, trong đó có: Chính sách cơ cấu vùng, kinh nghiệm quốc tế và sự vận
dụng ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996,; Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, bảo đảm
sự tăng trưởng kinh tế bền vững của GS.PTS Vũ Đình Bách, GS.TS Ngô
Đình Giao, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Vai trò quản lý kinh tế
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, kinh nghiệm của các nước
ASEAN của PTS. Nguyễn Duy Hùng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996;
Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam của
PGS.PTS Nguyễn Tĩnh Gia (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1998; Đổi mới và phát triển các thành phần kinh tế của PTS. Đỗ Hoài
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993; Những vấn đề cơ bản về kinh
tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam của PGS.PTS Phan Thanh Phố Nxb Giáo
dục, Hà Nội 1996; Những biện pháp kinh tế tổ chức và quản lý để phát triển
kinh tế nông nghiệp hàng hóa và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc Bộ của
GS.TS Lương Xuân Quý, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 1996; Cơ chế thị trường
và vai trò Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam của GS.TS Lương Xuân
Quỳ, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994; Chính sách kinh tế và vai trò của nó
đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam của PTS. Nguyễn
Văn Bích, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996; Một số vấn đề về định

3



hướng XHCN ở Việt Nam của PGS.PTS Nguyễn Đức Bách, Nxb Lao động,
Hà Nội, 1998.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã đi sâu vào các vấn đề chủ
yếu của quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế. Đã giải quyết
nhiều vấn đề về việc điều tiết vĩ mô của Nhà nước với nền kinh tế quốc
dân, trình bày nhiều kinh nghiệm quản lý tác động vào nền kinh tế.
Ở Lào, hơn 20 năm qua, việc quản lý nhà nước về kinh tế đã được
đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đảng NDCM Lào
đã đưa ra chủ trương, đường lối đổi mới toàn diện vào năm 1986. Theo
phương hướng đó các Hội nghị Trung ương lần thứ V, VI, VII (khóa IV) đã
cụ thể hóa và phát triển những luận điểm mới nhằm biến đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng thành hiện thực.
Tiếp cận với đường lối đổi mới của Đảng đã có một số công trình
nghiên cứu dưới góc độ phương hướng luận chứng như: Một số đặc điểm
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay
của PTS. Khăm Phăn Khun Bo Lin, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội 1991;
Những quá trình kinh tế - xã hội để chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế
hàng hóa ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay của PTS. Mon Sỉ Vi La
Thon, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội 1991; Một số vấn đề cơ bản về
sắp xếp lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước ở CHDCND Lào
của PTS. Thong Xa Lít Măng No Mệc, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội 1994; Xây dựng đội ngũ quản trị kinh doanh trong bước
chuyển sang kinh tế thị trường ở CHDCND Lào của PTS. Chăn Phon Bun
Xu Lin, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1995; Tiếp tục
quản lý ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào của TS. Khăm Phong Bút Đa
Vông, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1998; Đổi mới
quản lý nhà nước nhằm phát triển ngành công nghiệp trong quá trình chuyển

4



sang nền kinh tế thị trường ở CHDCND Lào của TS. Công Chắc No Kéo,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1998; Thành công của
việc thực hiện chính sách đổi mới kinh tế từ năm 1985 - 1995 của
CHDCND Lào của Su Phăn Kéo My Xay, CHDCND Lào 20 năm, Viêng
Chăn 1996; Phân tích vấn đề thực trạng kinh tế - xã hội, vấn đề trước mắt
và lâu dài của CHDCND Lào của PTS. Cụ Kéo Ác Khạ Mun Tỵ,
CHDCND Lào 20 năm, Viêng Chăn 1996; Sự vững mạnh của chính quyền
nhà nước là yếu tố bảo đảm cho nền độc lập, chủ quyền dân tộc của Cha
Lơn Nhìa Pao Hờ. CHDCND Lào 20 năm, Viêng Chăn 1996.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên chỉ giải quyết một số
vấn đề nảy sinh mang tính cấp bách trước mắt, thực chất là giải pháp tình
thế liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước trong công cuộc đổi mới ở từng thời kỳ.
Cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu việc tiếp
tục đổi mới quản lý nhà nước với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần một cách cơ bản, có hệ thống, phù hợp với điều kiện cụ thể của
Lào. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: "Nhà nước với sự phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay ở Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào" làm đề tài nghiên cứu của mình, hy vọng góp phần làm
sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn, làm sáng
tỏ thực chất vai trò, tầm quan trọng của Nhà nước đối với sự quản lý nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Lào, từ đó đề xuất một số phương
hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối
với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở CHDCND Lào hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án

5


- Trình bày một số vấn đề cần thiết về lý luận trong quản lý nhà
nước đối với nền kinh tế nói chung và quản lý kinh tế của Nhà nước
CHDCND Lào nói riêng.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở CHDCND Lào thời gian qua. Chỉ ra những vấn đề
còn tồn tại, thiếu sót và xu hướng biến động trong sự phát triển kinh tế thị
trường ở Lào hiện nay.
- Trình bày vai trò, chức năng quản lý Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường, kinh nghiệm và bài học trong quản lý Nhà nước về kinh tế theo
cơ chế thị trường của một số nước.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý Nhà nước về kinh tế trong công cuộc đổi mới hiện nay ở
CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án không nghiên cứu vai trò, chức năng quản lý Nhà nước nói
chung, mà chỉ nghiên cứu vai trò, chức năng quản lý kinh tế được thể hiện
chủ trương đường lối và giải pháp vĩ mô, có liên quan đến việc quản lý
kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay ở CHDCND
Lào. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục đổi
mới quản lý Nhà nước về kinh tế ở CHDCND Lào. Luận án không đi sâu
nghiên cứu các nhiệm vụ quản lý các thành phần kinh tế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án vận dụng lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản, các quan điểm của
Đảng NDCM Lào, kế thừa những công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học trong và ngoài nước có liên quan.
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp

luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương

6


pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgic trong quá trình
phân tích và luận giải các vấn đề nêu ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích nét đặc trưng của nền kinh tế nhiều thành phần
ở Lào; khả năng điều hành nền kinh tế ở Lào.
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm vai trò quản lý của Nhà nước
Lào đối với sự phát triển kinh tế. Nêu yêu cầu tiếp tục đổi mới bộ máy
quản lý nhà nước, đổi mới phương tiện, công cụ quản lý nhà nước đối với
các thành phần kinh tế.
- Luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
tác động vào quá trình quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế ở
CHDCND Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu để
tham khảo giúp hoạch định các chủ trương, chính sách và các biện pháp đổi
mới việc quản lý nhà nước đối với nền kinh tế Lào trong giai đoạn hiện
nay. Luận án còn làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các
trường đại học, các trường Đảng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, luận án có
3 chương 6 mục.

7



Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ KINH TẾ, SỰ BIỂU HIỆN
CỦA NÓ Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

1.1. NHÀ NƯỚC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1.1. Vai trò của kinh tế đối với Nhà nước
Đời sống của xã hội loài người có nhiều mặt hoạt động như chính
trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo khoa học kỹ thuật..., nhưng
giữa chúng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Xã hội càng phát triển các
hoạt động nói trên càng đa dạng phong phú. Trong các hoạt động đó,
hoạt động kinh tế đóng vai trò rất quan trọng và cơ bản, bởi vì hoạt động
kinh tế là đời sống không thể thiếu được của một cuộc sống con người
trong xã hội. Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử, trong khi
tiến hành các hoạt động loài người cũng phải sống. Muốn sống loài người
phải có ăn, đồ mặc, nhà ở và các thứ cần thiết khác. Để có những cái đó, con
người phải tạo ra chúng.
Bởi vậy, sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội và
lao động sản xuất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Trong lịch sử
phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức kinh tế rõ rệt, là hình
thức kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Kinh tế tự nhiên là hình thức
sản xuất mà sản phẩm lao động chỉ dùng để thỏa mãn nhu cầu của người
sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Đó là kiểu sản xuất tự cấp tự túc.
Đối lập với sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất hàng hóa, là sản xuất ra sản
phẩm để bán. Đó là hình thức tổ chức nền sản xuất xã hội, trong đó mối
quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa những nguời
sản xuất với người tiêu dùng, biểu hiện thông qua thị trường, qua việc
mua bán trao đổi sản phẩm lao động của nhau có phạm vi rộng lớn trong
nền kinh tế đất nước.
8



Có thể nói, kinh tế là phạm trù đặc biệt quan trọng đối với đời sống
xã hội loài người. Trong đó có nói đến của cải nguồn thu nhập, việc làm, sự
giàu, nghèo, phúc lợi, điều kiện sống, môi trường và môi sinh, tiết kiệm,
chống lãng phí nhằm sử dụng của cải có lợi nhất cho việc tạo ra hạnh phúc
và sức khỏe của con người v.v...
Như vậy, khái niệm kinh tế là một khái niệm có ý nghĩa rộng lớn có
người cho rằng kinh tế là tài sản (tiền, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, bất động
sản, vật dụng có giá trị quý hiếm v.v...), có người lại hiểu kinh tế là toàn bộ
công tác buôn bán, sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa. Một cách
hiểu được nhiều người đồng tình cho rằng kinh tế là tổng thể (hoặc một
phần) những yếu tố sản xuất và những quan hệ vật chất của con người phát
sinh trong quá trình sản xuất trực tiếp, phân phối lưu thông trao đổi, tiêu
dùng của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài
người mà mấu chốt là vấn đề sở hữu và lợi ích.
Những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho con người không có sẵn, phải
thông qua lao động của con người sản xuất ra, Mác viết: "đứa trẻ nào cũng
biết rằng bất kể dân tộc nào cũng sẽ diệt vong nếu như nó ngừng lao động,
không phải một năm, mà chỉ mấy tuần thôi. Cũng đúng như vậy, mọi người
đều biết rằng muốn có một lượng sản phẩm tương ứng với những lượng
nhu cầu khác nhau thì phải có những lượng lao động xã hội khác nhau và
theo số lượng nhất định" [27, 749]. Bởi vậy, sản xuất của cải vật chất luôn
luôn có một thuộc tính chung vốn có đó là quy trình tác động lẫn nhau giữa
con người và tự nhiên, trong đó con người biến đổi vật thể tự nhiên và làm
cho chúng thích ứng với việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Sản xuất vật chất
luôn luôn được lặp đi lặp lại không ngừng. Mỗi quá trình lao động sản xuất
đều là sự kết hợp của ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao
động.


9


Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá
trình lao động hợp thành tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là điều kiện quan
trọng không thể thiếu được của quá trình sản xuất, nhưng nếu không được kết
hợp với lao động thì tự nó sẽ không tạo ra được gì cả. Chính lao động tích
cực và sáng tạo đã làm cho tư liệu lao động và đối tượng lao động vận động
và chuyển chúng thành tư liệu sản xuất thực sự bắt chúng phục vụ cho con
người. Người lao động là người sáng tạo ra toàn bộ của cải cho xã hội loài
người.
Sản xuất của cải vật chất bao giờ cũng là một quá trình xã hội.
Trong sản xuất, con người không chỉ tác động vào giới tự nhiên mà còn tác
động lẫn nhau, con người không thể sản xuất được nếu không kết hợp với
nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau. Để sản xuất, con người phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định
với nhau và sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ
diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó. C. Mác viết:
không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó
để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được
người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và sự tác
động của họ vào giới tự nhiên tức là việc sản xuất thì diễn ra trong khuôn
khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó.
Quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân
phối sản phẩm trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất gọi là quan hệ sản
xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của sản xuất xã
hội, chúng gắn bó chặt chẽ với nhau và tác động lẫn nhau, với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với tự nhiên,
biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất


10


biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với
kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng kỹ xảo, thói quen lao động của họ. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển có tính chất tổng hợp của các
yếu tố hợp thành của nó. Trong đó sự phát triển công cụ lao động và trình
độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, kỹ năng của người lao động là những nhân
tố có ý nghĩa quyết định.
Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã
hội. Với tư cách là nhân tố trung tâm, con người luôn luôn giữ vai trò quyết
định đối với sản xuất, dù trong nền sản xuất dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ
công, lạc hậu hay công nghiệp hiện đại con người cũng là mục đích của sản
xuất xã hội. Sản xuất suy đến cùng là để dùng, không có tiêu dùng sẽ
không có sản xuất. Thỏa mãn nhu cầu của con người phát triển con người
là ý nghĩa tự nhiên cuối cùng là mục đích của sản xuất xã hội.
Lực lượng sản xuất là yếu tố năng động nhất, cách mạng nhất của
nền sản xuất xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất không phải chỉ được
biểu thị ở chất lượng của kỹ thuật sản xuất đang được sử dụng và ở kinh
nghiệm sản xuất của con người mà còn được biểu thị ở trình độ phát triển
kinh tế của xã hội, ở trình độ tập trung sản xuất, ở sự phân công lao động
xã hội giữa các khu vực sản xuất, giữa các ngành sản xuất, giữa các cơ sở
sản xuất của xã hội. Những thay đổi trong tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất đòi hỏi phải thay đổi quan hệ sản xuất xã hội tương ứng. Sự
chuyển biến của lực lượng sản xuất từ giai đoạn phát triển khác không diễn
ra ngoài quan hệ sản xuất mà diễn ra bằng cách làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất.


11


Trong thời đại ngày nay, khi mà nền công nghiệp thế giới đã phát
triển ở trình độ cao và đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật như
vũ bão, đã đẩy nền sản xuất xã hội ngày càng hiện đại hóa cao, thì ở
CHDCND Lào lại có nền kinh tế lạc hậu kém phát triển, vì vậy cần phải có
định hướng phát triển lực lượng sản xuất xã hội để từng bước đưa nền kinh
tế đất nước phát triển đuổi kịp và hòa nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Trong đó việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm tư
liệu lao động, đối tượng lao động, quy trình công nghệ và tri thức khoa học cho
lực lượng sản xuất là nhiệm vụ cấp bách nhất trong tình hình hiện nay ở Lào.
Lực lượng sản xuất là cơ sở tồn tại của loài người, đồng thời là lực
lượng quyết định thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội kéo theo đó là những thay đổi
tương ứng về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng bao gồm chính trị,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo, làm thay đổi gương mặt của toàn xã hội, vì đó
là năng lực được tạo ra bởi sự kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất để
tạo ra của cải vật chất và tinh thần nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày
càng đa dạng phong phú của con người. Đó là sự thay đổi căn bản các yếu
tố sản xuất, kết cấu sản xuất, hình thức tổ chức và phương thức quản lý làm
cho bộ mặt của toàn bộ nền sản xuất và xã hội thay đổi theo. Sự phát triển
của một nền kinh tế không chỉ bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển trong cấu
trúc của lực lượng sản xuất, mà còn bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển
trong cấu trúc của hệ thống quan hệ sản xuất, mà sự phù hợp giữa chúng là
động lực. Bởi vậy giữ vững tính hệ thống và tính đồng bộ trong việc xây
dựng quan hệ sản xuất mới có ý nghĩa rất quan trọng [37, 13].
Khi nói đến quan hệ sản xuất là nói đến quan hệ giữa người với
nguời hình thành, vận động và tái tạo lại trong toàn bộ quá trình tái sản xuất

xã hội bao gồm quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản
phẩm xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất. Nó biểu
12


hiện quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu: quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm.
Trong đó, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Nhưng ba
mặt đó liên kết chặt chẽ với nhau trong một cấu trúc đồng bộ, nếu thiếu sự
tương hợp sẽ không thể vận động bình thường không thể trở thành động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Lênin đã dạy chúng ta rằng muốn
chiến thắng CNTB "xét cho cùng thì nguồn lực to lớn nhất để chiến thắng
giai cấp tư sản và cái bảo đảm duy nhất cho những thắng lợi đó được bền
vững và không gì phá vỡ nổi, chỉ có thể là một phương thức sản xuất xã hội
mới cao hơn, chỉ có thể là việc đem sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thay thế
cho sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiểu tư sản" [16, 20-21].
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu là cơ sở kinh tế, là một
trong những căn cứ quan trọng để xác định thành phần kinh tế. Như vậy sở
hữu là một phạm trù kinh tế phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở
hữu với tư cách là hình thức quản lý và điều kiện cần thiết của sản xuất, với
sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, mặt kết quả thực tế trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất [36, 52].
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất tạo thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện
chứng này quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất đó là quy luật
kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất có thể diễn ra
theo hai khả năng; nếu phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng

sản xuất, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong
trường hợp ngược lại, nếu không phù hợp nó sẽ trở thành lực cản đối với

13


sự phát triển của lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản
xuất ảnh hưởng quyết định đến thái độ lao động của người lao động, kích
thích hoặc hạn chế cải tiến kỹ thuật, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất cũng như tổ chức hợp tác phân công lao động... Như
vậy, mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là quy luật khách quan, là động lực nội tại của sự vận động và phát
triển của xã hội [10, 71].
Ở đây quan hệ sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi
chúng còn phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, cũng
như không thể tùy tiện dựng lên hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất
chưa đòi hỏi [10, 72].
Các Mác cũng đã chỉ ra rằng "không một hình thái xã hội nào diệt
vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa
bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển và những quan hệ sản xuất mới
cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật
chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho
nên nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể
giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân
nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất, để giải quyết nhiệm vụ
đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành [22, 15-16].
Với tính cách là những thời đại kinh tế khác nhau, phương thức sản
xuất chính là sự thống nhất biện chứng giữa một bên là lực lượng sản xuất
cái biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên; là sự thống nhất

biện chứng giữa con người với tư liệu sản xuất mà trước hết là với công cụ
lao động; với một bên là quan hệ sản xuất, cái biểu hiện của mối quan hệ
giữa con người với nhau trong sản xuất xã hội [8, 18].

14


Nghiên cứu quá trình sản xuất xã hội chúng ta thấy lực lượng sản
xuất có vai trò rất lớn trong việc thay đổi các quan hệ xã hội, C.Mác viết
"Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản
xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi
phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách
kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay
chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp [23, 187].
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ quản lý, là một nội dung của quan
hệ sản xuất mới cần được xây dựng, thực chất của việc xây dựng quan hệ
quản lý kinh tế mới trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp
tự túc sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường như
Lào hiện nay, thì phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp hình thành tương đối đồng bộ
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đối với vấn đề này phải
tập trung xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường, có nghĩa là phải xây
dựng đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường hàng hóa, dịch
vụ, đảm bảo quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản theo
đúng luật pháp quy định. Phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế
theo hướng ban hành mới, sửa đổi bổ sung một số luật và pháp lệnh. Coi
trọng tính đồng bộ trong hoạt động giữa các cơ quan lập pháp. Đổi mới
công tác kế hoạch hóa theo hướng quán triệt đường lối chủ trương của
Đảng. Tập trung sức vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, chương

trình và các dự án đầu tư lớn, thông qua hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ
mô, xác định tốc độ phát triển cơ cấu, các cân đối lớn và theo đó là các
chính sách dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng kế hoạch. Đi
đôi với việc đổi mới kế hoạch hóa vĩ mô, cần củng cố và tăng cường
công tác kế hoạch vi mô ở các đơn vị kinh tế cơ sở theo định hướng kế

15


hoạch và thị trường. Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ và giá cả tài
chính, ngân hàng tiền tệ và giá cả thuộc khâu phân phối và trao đổi, khâu
phân phối và trao đổi là khâu trung gian tác động đến sản xuất tiêu dùng,
đòi hỏi cần được tiếp tục đổi mới, theo hướng thúc đẩy sản xuất, phát
triển trên cơ sở huy động tích lũy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
lành mạnh hóa ngân hàng nhà nước, thực hiện nghiêm ngặt chế độ kế
toán, kiểm toán và thanh tra, kiểm tra tài chính.
Về chính sách tiền tệ và hoạt động các ngân hàng trung ương và các
ngân hàng thương mại cần có chính sách và biện pháp đồng bộ để điều hòa
lưu thông tiền tệ. Hoàn thiện hệ thống giá cả trên cơ sở tăng cường lực
lượng dự trữ quốc gia, xây dựng cơ chế hình thành quỹ bình ổn giá cả và
phương thức can thiệp của Nhà nước vào một số hàng hóa thiết yếu, nhất là
việc thu mua lương thực của nông dân đẩy mạnh xuất khẩu.
Về quan hệ phân phối. Phân phối là một giai đoạn của tái sản xuất
sản phẩm xã hội, gắn liên với tiêu dùng và sản xuất. Phân phối bao gồm
phân phối tư liệu sản xuất và phân phối vật phẩm tiêu dùng. Tính chất của
việc phân phối tư liệu sản xuất giữa các giai cấp khác nhau là do hình thức
sở hữu chiếm địa vị thống trị trong mỗi xã hội quyết định. Việc phân phối
sản phẩm giữa các giai cấp xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào việc phân phối
tư liệu sản xuất. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định mối quan hệ
giữa các tập đoàn xã hội trong sản xuất. Tính chất của việc phân phối tư liệu

sản xuất và vật phẩm tiêu dùng biểu hiện ở việc phân phối thu nhập quốc dân.
Trong nền kinh tế chỉ huy, tập trung quan liêu, bao cấp hình thức phân
phối theo kết quả lao động và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Khi chuyển
sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN thì thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác

16


vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Ngoài các hình thức phân phối nói trên, với chức năng công bằng xã hội
thông qua các chính sách luật pháp, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động, thực hiện chế độ bảo hiểm xã
hội đối với người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế; không để quan hệ
này biến thành quan hệ thống trị, dẫn tới sự phân hóa xã hội thành hai cực
đối lập như Văn kiện Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: "phân
phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức
sống và trình độ phát triển giữa các vùng các tầng lớp dân cư" [49, 92-93].
Tóm lại, quan hệ sản xuất trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất là nhân tố quyết định xu hướng và mục đích của phát triển lực lượng
sản xuất, quyết định bản chất của chế độ xã hội. Do đó quyết định xu
hướng phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có quan hệ sản xuất mới nói lên xã
hội đó là xã hội gì? Đây là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ
kinh tế - xã hội khác nhau [10, 74].
Lịch sử loài người từ trước đến nay đã trải qua nhiều kiểu quan hệ
sản xuất như: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Sản xuất bao giờ cũng mang tính xã hội,

không có sản xuất nào diễn ra đơn độc riêng lẻ. Xã hội hóa sản xuất là sự
liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội. Nó
là một quá trình được hình thành, hoạt động và phát triển liên tục tồn tại
như một hệ thống hữu cơ với nhau. Ở dạng chung nhất, xã hội hóa sản xuất
biểu hiện ở sự phân công lao động xã hội phát triển; mối liên hệ giữa các
ngành, các khu vực, các vùng ngày một chặt chẽ sản xuất tập trung với quy
mô hợp lý, xã hội hóa sản xuất không trực tiếp gắn với nền sản xuất nhỏ,
mà trực tiếp gắn với nền sản xuất lớn. Trong lịch sử, đã và đang diễn ra hai
loại sản xuất lớn TBCN và XHCN.

17


Sự phát triển nhanh mạnh và sâu rộng của lực lượng sản xuất trong
các nước tư bản sau chiến tranh, trước hết phản ánh xu hướng chung của sự
phát triển không ngừng và ngày càng nhanh của lực lượng sản xuất trong
tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Vì lực lượng sản xuất phản ánh
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Theo sự phát triển của xã hội loài
người, nhận thức của con người đối với giới tự nhiên ngày càng sâu rộng,
con người ngày càng vận dụng được nhiều quy luật khách quan. Nó được
phản ánh trong những tiến bộ không ngừng của khoa học - kỹ thuật.
Tất nhiên sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, khoa học
công nghệ nói riêng trong các nước tư bản có nhiều nguyên nhân đặc biệt
trong đó có ba nguyên nhân chính:
Một là, quy mô tích lũy tư bản tăng nhanh hơn nhiều so với trước
chiến tranh do quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích tụ tập trung tư bản được
phát huy mạnh hơn trong điều kiện khoa học công nghệ tiến nhanh hơn
và Nhà nước điều tiết đời sống kinh tế xã hội sâu hơn, hiệu quả hơn. Cạnh
tranh ngày càng mạnh đặc biệt cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt càng
thúc đẩy các nước tư bản gia tăng tích lũy để mở rộng sản xuất xã hội.

Hai là, cách mạng khoa học công nghệ trở thành nhân tố trực tiếp
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội ở các nước tư bản
sau chiến tranh. Nó được biểu hiện chủ yếu trên các mặt sau đây:
Các ngành công nghiệp mới dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật công
nghệ hiện đại ra đời và phát triển rất nhanh, trở thành những ngành tiên
phong chủ đạo của sự phát triển.
Nhờ khoa học công nghệ hiện đại các ngành công nghiệp truyền
thống đã được cải tạo không ngừng, năng suất lao động tăng lên. Cơ cấu
ngành thay đổi chuyển dịch nâng cấp lên trình độ mới phù hợp với nền sản
xuất hiện đại, kỹ thuật cao hàm lượng trí tuệ lớn.

18


Phân công lao động phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Chuyên
môn hóa chi tiết trong từng ngành, phân công chuyên môn hóa chi tiết giữa
các ngành, phân công liên kết chuyên môn hóa giữa các nước, trong một số
ngành đã xuất hiện dây chuyền sản xuất quốc tế.
Tái sản xuất mở rộng ngày càng phát triển theo chiều sâu lấy đầu tư
khoa học kỹ thuật làm chính để nâng cao chất lượng lao động, tăng năng
suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm.
Ba là, năng lực điều tiết kinh tế xã hội của Nhà nước tăng lên rõ rệt.
Nhà nước đã tích cực thỏa mãn đòi hỏi của sự phát triển lực lượng sản xuất
đối với cơ cấu hạ tầng hiện đại đảm bảo cho tái sản xuất xã hội vận hành
bình thường theo hướng mở rộng không ngừng trên cơ sở vật chất kỹ thuật
tiên tiến.
Sự chuyển biến vai trò kinh tế của Nhà nước tư bản từ nhân tố bên
ngoài, nhân tố tạo điều kiện môi trường cho sự vận động của các quá trình
kinh tế, sang thành nhân tố bên trong, nhân tố quyết định phương hướng
phát triển của chúng là một tiến trình biện chứng. Tiến trình biến đổi từ

lượng sang chất. Qua sự biến đổi của các chỉ tiêu về lượng ở các ngành lĩnh
vực mà Nhà nước trực tiếp tác động vào, ta cũng có thể nhận biết được ở
mức tương đối xu hướng của hoạt động này có thể thấy rõ vai trò kinh tế
của Nhà nước qua các biểu hiện: ở nước tư bản phát triển chủ chốt, các xí
nghiệp nhà nước do Chính phủ quốc hữu hóa và trực tiếp đầu tư xây dựng
đã có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước chuyển một phần lớn
thu nhập tài chính thành tư bản tài chính. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
số tư bản tài chính do Nhà nước tư bản nắm giữ tăng lên và trở thành bộ
phận quan trọng trong cấu thành tư bản nhà nước.
Ngoài ra, thông qua ngân hàng trung ương, nhà nước tư bản phát
hành tiền và kiểm soát lưu thông tiền tệ trên thực tế, Nhà nước là người sở
hữu tư bản tiền tệ. Nhà nước còn lập ra các tổ chức tài chính chính phủ;
19


những tổ chức tài chính này đã phát huy vai trò quan trọng đối với đời sống
kinh tế - xã hội. Việc Nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong điều chỉnh hệ thống
tài chính - tiền tệ đã tạo ra cho Nhà nước một ưu thế tuyệt đối trước các tổ
chức độc quyền và nhờ hệ thống này, Nhà nước chủ động điều chỉnh được
hoạt động kinh doanh của tư bản tư nhân, dù đó là một tập đoàn tư bản lớn.
Trong quá trình điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế, Nhà nước
sử dụng các công cụ như: tài chính, tiền tệ... để can thiệp và điều chỉnh
kinh tế. Những biến đổi về lượng phản ánh không chỉ sự tăng cường hoạt
động kinh tế của Nhà nước tư bản, mà còn nói lên sự tăng cường vai trò
của Nhà nước đối với vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong thực tế lịch sử, lực lượng chính tấn công vào thành trì quyền
lực là của giới doanh nghiệp, với hình thức kinh tế mới họ đã tạo ra một thế
giới vật phẩm hàng hóa khổng lồ và nắm giữ năng lực sản xuất to lớn. Điều
đó phản ánh sức mạnh và vai trò thực tế của giới doanh thương đối với xã
hội. Sức mạnh trong kinh tế thường tìm đạt sự biểu hiện trong chính trị.

Thời này giới doanh thương đấu tranh hạn chế quyền lực của chính quyền;
đòi Nhà nước không được can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Nếu như sự phát triển của kinh tế TBCN tự do kinh tế là cơ sở cho
sự cải tiến Nhà nước và hệ thống chính trị của TBCN thành những cấu trúc
và thể chế chính trị TBCN hiện đại, thì vấn đề có ý nghĩa sâu xa quyết định
tới sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế TBCN hiện đại lại là
sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại.
Nền kinh tế phát triển gắn liền với việc thay đổi căn bản cơ cấu nền
kinh tế cơ sở để nuôi dưỡng sự phát triển. Tương quan giữa nông nghiệp công nghiệp - dịch vụ biến đổi mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng lao động
vào công nghiệp, dịch vụ cũng như phần đóng góp của nó trong tổng sản
phẩm quốc dân. Các ngành sản xuất dựa trên công nghệ hiện đại phát triển

20


mạnh. Các ngành dịch vụ trở thành ngành kinh doanh chủ yếu. Khu vực
công nghiệp truyền thống giảm tới mức thấp nhất trên cơ sở khoa học kỹ
thuật hiện đại với năng suất lao động cao.
Trong toàn bộ lịch sử phát triển hiện thực của CNTB giai đoạn
CNTB tự do kinh tế có ý nghĩa quan trọng, tích cực về đời sống vật chất
cũng như những giá trị tinh thần mà nó đã tạo ra. CNTB tự do kinh tế đã
từng có những đóng góp lớn cho hạnh phúc, văn minh nhân loại. Tuy nhiên,
sự phát triển tự do tự phát ấy cũng để lại những hậu quả về sự phân cực
ngày càng sâu giữa giàu và nghèo trong xã hội; những chu kỳ khủng hoảng,
kéo theo sự suy sụp kinh tế từng thời kỳ như đã và đang diễn ra ở các nước
trong khu vực và trên thế giới trong tình hình hiện nay đã gây nên những
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của các nước cũng
như toàn thế giới. Biểu hiện bao trùm nhất và rõ ràng nhất trong xã hội tư
bản thời kỳ này là mâu thuẫn đối kháng giai cấp giữa giai cấp vô sản và tư
sản ngày càng mở rộng, sâu sắc. Đấu tranh giai cấp trong kinh tế, chính trị,

tư tưởng diễn ra gay gắt. Sự tranh giành thị trường ở các nước tư bản công
nghiệp lớn ngày càng quyết liệt.
Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ đó làm biến đổi sâu sắc tình hình
kinh tế - xã hội. Quá trình quốc tế hóa sâu sắc quan hệ kinh tế đặt ra sự cần
thiết phải khai thác tiềm năng trí tuệ của từng cá nhân người lao động, đồng
thời cũng làm cho những quan hệ những mâu thuẫn chính trị xã hội ngày
càng phức tạp trên bình diện quốc tế. Điều đó trực tiếp đòi hỏi phải nâng
cao vai trò chủ đạo điều tiết quản lý cả kinh tế - xã hội chính trị của Nhà nước.
1.1.2. Vai trò Nhà nước trong sự phát triển kinh tế
Trong xã hội có giai cấp thống trị quyền lực chính trị thuộc về giai
cấp thống trị hay liên minh giai cấp thống trị bằng quyền lực chính trị của
giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp
mình dưới sự cưỡng chế của Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước là một tổ chức
21


quyền lực có chủ quyền quốc gia. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ Nhà nước
có quyền tự quyết định những vấn đề đối nội, đối ngoại của mình, không
phụ thuộc vào bất kỳ một thế lực nào bên ngoài, và quyền lực nhà nước có
hiệu lực trên toàn bộ đất nước đối với tất cả dân cư, mọi tổ chức xã hội
sống và làm việc trên lãnh thổ nhà nước, văn bản của Nhà nước có hiệu lực
thực thi trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Để duy trì cơ quan chính quyền nhà nước, cần phải có chi phí. Nguồn
chi phí đó lấy từ thuế. Thu thuế của nhân dân cũng là một trong những điều
kiện tồn tại của Nhà nước. Trong Nhà nước của giai cấp bóc lột, thuế khóa là
một trong những thủ đoạn để giai cấp bóc lột, cướp bóc thêm người lao động.
Từ những đặc điểm trên, có thể định nghĩa: Nhà nước là công cụ cơ
bản của quyền lực chính trị, là bộ máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện
các chức năng quản lý đối với xã hội. Nhà nước là một tổ chức quyền lực
đặc biệt của giai cấp thống trị, là một hình thức trong đó những cá nhân của

giai cấp thống trị thực hiện lợi ích chung của giai cấp mình [38, 76].
Bản chất của Nhà nước như Ph. Ăngghen chỉ rõ: "Nhà nước chẳng
qua chỉ là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác,
điều đó trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế
độ quân chủ" [26, 291].
V.I. Lênin nhấn mạnh: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, bất cứ ở đâu, hễ lúc nào
và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được" [15, 9].
Nhà nước CHDCND Lào là Nhà nước kiểu mới, có bản chất khác
với bản chất Nhà nước của giai cấp bóc lột trước kia. Bản chất Nhà nước
Lào là do cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của Lào quy định - đó là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước Lào là một tổ chức thể hiện ý

22


chí, quyền lực của nhân dân mà nền tảng là liên minh công nhân - nông dân
và tầng lớp trí thức do Đảng NDCM Lào lãnh đạo.
Nhà nước trước hết là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai
cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất duy trì sự thống trị giai cấp. Trong
xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị của giai cấp thống trị đối với những
giai cấp bị trị thường được biểu hiện bằng quyền lực chính trị, quyền lực tư
tưởng và quyền lực kinh tế. Trong đó quyền lực thống trị về mặt kinh tế
bao giờ cũng giữ một vai trò quyết định. Trước hết nó tạo ra sự phụ thuộc
của các giai cấp bị thống trị về mặt kinh tế không thể duy trì được các quan
hệ bóc lột. Như vậy, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực
của giai cấp thống trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị
bóc lột, nhờ đó giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về

chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành lực lượng xã hội
chủ yếu của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Bộ máy cưỡng chế
đặc biệt này là Nhà nước. Giai cấp thống trị sử dụng Nhà nước để tổ chức
và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình thông qua Nhà nước, ý
chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và
hợp pháp hóa thành ý chí của Nhà nước. Ý chí Nhà nước có sức mạnh bắt
buộc các giai cấp khác phải tuân theo một trật tự do giai cấp thống trị đặt ra
và phải phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, làm như vậy giai cấp
thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp mình đối với các giai
cấp khác. Công cụ chủ yếu để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không chỉ
đơn thuần dựa vào bạo lực và cưỡng chế mà còn cần đến sự tác động vào
chính trị, tư tưởng nữa. Giai cấp thống trị đã thông qua Nhà nước và các
thiết chế xã hội khác để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ
tư tưởng thống trị xã hội. Cũng như Mác nói "toàn bộ lịch sử đã qua, trừ
trạng thái nguyên thủy đều đã là lịch sử của đấu tranh giai cấp; rằng những
giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản phẩm những

23


quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là những sản phẩm của những
quan hệ kinh tế của thời đại của giai cấp ấy, do đó cơ cấu kinh tế của xã hội
luôn luôn là cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta phải dựa vào mới giải
thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp quyền và chế độ
chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm
khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định" [25, 303].
Mọi Nhà nước bóc lột đều có bản chất chung, đó là bộ máy đặc biệt
thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột thiểu số đối với đa số nhân
dân. Nhà nước chủ nô là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô được tổ
chức và thành lập nhằm mục đích duy trì sự thống trị của giai cấp chủ nô đối

với nô lệ và các giai cấp khác. Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính
của giai cấp phong kiến được tổ chức nhằm mục tiêu duy trì, thực hiện sự
thống trị của giai cấp phong kiến. Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của
giai cấp tư sản được tổ chức ra nhằm mục đích duy trì sự thống trị của mình
đối với công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác trong chế độ tư bản.
Đến thời kỳ CNTB độc quyền - CNTB hiện đại. Đặc điểm nổi bật
của thời kỳ này là Nhà nước tư bản hiện đại có vai trò to lớn, quan trọng
không chỉ trong đời sống chính trị mà cả trong đời sống kinh tế, Nhà nước
đóng vai trò quyết định trong việc xác định chiến lược, mô hình phát triển
kinh tế. Bản thân Nhà nước sở hữu và điều hành một bộ phận quan trọng
của nền kinh tế là bộ máy quản lý kinh tế với các phương tiện công cụ thiết
yếu như tiền tệ, thuế, các chính sách kinh tế... và bảo đảm các dịch vụ xã
hội cơ bản như: giáo dục, y tế, nhà cửa, an ninh...
Nhà nước góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển khoa học
kỹ thuật công nghệ sau chiến tranh bằng cách đáp ứng phần lớn nhu cầu
đầu tư vào nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ một lĩnh vực đòi
hỏi lượng đầu tư rất lớn, nhiều rủi ro, nên không hấp dẫn tư bản tư nhân,

24


nhưng lại có vai trò quyết định cho họ phát triển lực lượng sản xuất sau
chiến tranh.
Nhà nước tham gia điều chỉnh quan hệ sản xuất xã hội, làm dịu mâu
thuẫn giai cấp, tạo dựng điều kiện xã hội thuận lợi cho phát triển. Một mặt
các chính phủ tư bản dùng chính sách thu nhập và các chính sách tài chính
để điều chỉnh mức độ chênh lệch quá bất công trong lĩnh vực phân phối xã
hội, mặt khác tăng cường phúc lợi xã hội, đảm bảo nhu cầu đời sống cơ bản
cho đa số dân cư.
Nhà nước quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế một cách hiệu quả

hơn, đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng tương đối ổn định, biên độ
giao động, chu kỳ không lớn, tốc độ tăng trưởng cao.
Điều chỉnh quan hệ quốc tế của Nhà nước tư bản cũng mang lại
hiệu quả rõ rệt đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. Với các nước đang
phát triển, họ đã thực hiện phương thức bóc lột bằng kinh tế và kỹ thuật
thay cho phương thức bóc lột thuộc địa như trước đây nên đã tránh được
chống đối và xung đột vừa tăng được lợi nhuận, vừa thúc đẩy kinh tế các
nước đang phát triển tăng tiến. Với các nước phát triển với nhau, họ cũng
có sự điều chỉnh, phối hợp quan trọng tạo nên tình thế mới; cạnh tranh và
hợp tác đan xen, rất có lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất [41, 31].
Như vậy, trong cấu trúc thể chế chính trị của CNTB hiện đại Nhà
nước giữ vai trò to lớn trong chính trị, kinh tế cũng như trong quản lý xã
hội nói chung. Nhân danh lợi ích toàn xã hội Nhà nước tư bản hiện đại
bằng bộ máy và chính sách của mình quản lý và điều tiết các mặt kinh tế,
chính trị cân đối và dung hòa lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, giữ
cho những mâu thuẫn về lợi ích giữa chúng ở mức có thể chấp nhận, không
vượt qua tới ngưỡng nguy hiểm bảo đảm được chế độ chính trị kinh tế mà
về chủ đạo là phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Theo hướng đó, hệ thống
chính trị của CNTB hiện đại nói chung, Nhà nước tư sản nói riêng ngày

25


×