Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Những kinh nghiệm lịch sử trong công tác tuyên truyền cổ động của Đảng từ năm 1930 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.52 KB, 33 trang )



TIỂU LUẬN
Đề tài:
Những kinh nghiệm lịch sử trong công tác tuyên truyền
cổ động của Đảng từ năm 1930 đến nay

TP.HCM – 2016


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
86 năm qua kể từ ngày thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân liên tục đấu
tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng rất coi trọng công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng, tuyên truyền
cổ động của Đảng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của Đảng và nhân
dân ta trong 86 năm qua. Những bài học phong phú của công tác tuyên truyền cổ
động của Đảng 86 năm qua cần được tổng kết sâu sắc để góp phần xây dựng lý
luận về công tác tư tưởng, tuyên truyền cổ động và để vận dụng và phát huy trong
những năm bước sang thế kỷ mới - thế kỷ XXI.
Thực hiện nhiệm vụ lịch sử bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, xây dựng, củng cố và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội. Đây là một việc lớn, đòi hỏi
nghiên cứu công phu, gắn liền với tổng kết xây dựng và tổ chức thực hiện đường
lối của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Với tư cách là một sinh viên – một tri thức trẻ hiện nay, nhất là khi được tiếp
cận với môn Lịch sử công tác tư tưởng của Đảng Cộn sản Việt Nam thì việc tìm
hiểu và nghiên cứu đề tài “Những kinh nghiệm lịch sử trong công tác tuyên
truyền cổ động của Đảng từ năm 1930 đến nay” là rất cần thiết và ý nghĩa. Bởi
vậy tôi đã chọn vấn đề này làm chủ đề cho tiểu luận.
Trong phạm vi tiểu luận “Những kinh nghiệm lịch sử trong công tác tuyên


truyền cổ động của Đảng từ năm 1930 đến nay”, tôi chỉ sơ bộ nêu lên một số
kinh nghiệm, bài học rút ra từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng và chủ tịch
Hồ Chí Minh.


II. Mục Đích
- Khái quát được Những kinh nghiệm lịch sử trong công tác tư tưởng tuyên truyền
cổ động của Đảng từ năm 1930 đến nay.
- Nắm bắt và nhận thức được điểm tích cực cũng như hạn chế trong công tác tư
tưởng tuyên truyền cổ động của Đảng từ năm 1930 đến nay.
- Rút ra những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm và một số phương hướng,
giải pháp nâng cao chất lượng ,hiệu quả công tác tư tưởng tuyên truyền cổ động
của Đảng từ năm 1930 đến nay.
III. Phương Pháp Nghiên cứu
a. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu, học tập môn Lịch sử công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam phải trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và
các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh.
b. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic
– liệt kê, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so
sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa... thích hợp với từng nội
dung của môn học.


B. NỘI DUNG
I. Những kinh nghiệm lịch sử trong công tác tuyên truyền cổ động của Đảng từ
năm 1930 đến nay
I.1. Công tác tuyên truyền cổ động trước hết phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn để vận dụng sáng tạo, phục vụ

cho việc xây dựng dường lối chính trị, đưa đường lối ấy vào cuộc sống, thực hiện
nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng
Đảng ta là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng tạo nên bước ngoặt của
cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng con đường cứu nước của dân
tộc ta.
Trong quá trình cách mạng lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm cốt lõi, tiếp thu những tinh hoa truyển thống dân tộc và tư tưởng
của nhân loại, vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, hình thành nên một hệ
thống tư tưởng lý luận và quan điểm chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng
Hồ Chí Minh bao gồm nhiều vấn đề về cách mạng ở các nước thuộc địa, về chủ
nghĩa dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, về mục tiêu, chiến lược, sách
lược, phương pháp cách mạng, đường lối kháng chiến kiến quốc, xây dựng chế độ
mới, xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đạo đức, tác phong cách mạng… Đó là
thành quả lý luận của Đảng ta, là tài sản tinh thần quí báu của dân tộc. Đó cũng là
đóng góp của Đảng ta vào sự phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào cách
mạng thế giới.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
đã xây dựng đường lối chính trị của mình qua các thời kỳ cách mạng. Đảng đã kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,phát huy lòng yêu nước và ý thức xã hội


chủ nghĩa, tuyên truyền đường lối, chủ trương cho cán bộ đảng viên, quần chúng,
gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị từng thời gian. Trong quá trình đưa
đường lối vào cuộc sống, Đảng đã thông qua công tác thực tiễn, lắng nghe ý kiến
nhân dân để tổng kết kinh nghiệm, bổ sung và hoàn thiện đường lối, chủ trương
làm cho nó ngày càng đúng đắn và sát hợp hơn với cách mạng nước ta.
Ngay từ khi Đảng ta ra đời, công tác tư tưởng, tuyên truyền cổ động đã được
đặt lên vị trí hàng đầu nhằm giác ngộ quần chúng về chủ nghĩa cộng sản, về Cương

lĩnh cứu nước của Đảng, phát triển phong trào công nhân thành một lực lượng
chính trị đọc lập, nâng cao chất lượng phong trào yêu nước theo lập trường của giai
cấp công nhân. Công tác tuyên truyền cổ động đã thường xuyên vạch tội ác và các
thủ đoạn áp bức bóc lột của địch, giải thích về con đường cứu nước, cứu dân gắn
với cuộc đấu tranh của quần chúng giành quyền dân sinh, dân chủ. Sau thất bại của
phong trào năm 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, ngay ở trong tù, trong hoàn
cảnh cực kỳ khó khăn, các cán bộ đảng viên đã tổ chức việc học tập lý luận chính
trị, vận dụng những điều đã học để tổng kết kinh nghiệm hoạt động, giữ vững tinh
thần kiên cường đấu tranh để bảo vệ tổ chức, giảm nhẹ chế độ hà khắc của nhà tù.
Truyền thống này đã được các thế hệ cán bộ và chiến sĩ cách mạng bị giam trong
các nhà tù của đế quốc tiếp nối liên tục cho tới khi giải phóng đất nước.
Trải qua các thời kỳ phát triển, từ Mặt trận dân chủ đến Mặt trận Việt Minh,
và cao trào giải phóng dân tộc, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mỹ xâm lược, công tác tư tưởng đặc biệt về tuyên truyền cổ động
đã gắn với thực tiễn làm cho cán bộ đảng viên, nhân dân thấu suốt đường lối, nâng
cao ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Thông qua việc tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, nhiều thành quả lý luận đã được thể hiện trong các Nghị quyết
Trung ương, trong các tác phẩm, bài phát biểu hay bài báo quan trọng của các đồng
chí lãnh đạo. Đó là những căn cứ lý luận để xây dựng, bổ sung và hoàn thiện
đường lối chính sách của Đảng trước bối cảnh trong và ngoài nước.


Nhờ vậy Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta trải qua muôn vàn thử thảch, giành
được những thắng lợi lịch sử: đánh thắng hai đế quốc lớn Pháp, Mỹ, giành độc lập
tự do, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những vấp váp, sai lầm của Đảng ta trong các thời kỳ như trong cải cách
ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, trong xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa sau khi
lập lại hoà bình đều là do khuyết điểm máy móc, giáo điều, dập khuôn cách làm
của nước ngoài, lạc hậu về lý luận, không xuất phát từ thực tế Việt Nam và thiếu
lắng nghe ý kiến nhân dân, tổng kết kinh nghiệm của mình.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới nên đã thu được nhiều
thắng lợi quan trọng. Chúng ta đã dũng cảm phê bình, tự phê bình, phát huy tinh
thần độc lập tự chủ, đổi mới tư duy để nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã
hội, tổng kết những tìm tòi, sáng tạo của cán bộ đảng viên, nhân dân, tìm ra con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
Trong tình hình thoái trào của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, chúng ta đã giữ
vững được bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, tăng cường
được mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vượt qua được khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh,
quốc phòng, đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay công cuộc đổi mới đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp,
chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn và thử thách lớn đan xen nhau trong một xã
hội có nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, toàn cầu
hóa, vận động theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Đây là con đường chưa có tiền lệ trong lịch sử, đòi hỏi phải tìm
tòi, khám phá. Các thế lực thù địch lại đang thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường công tác lý luận gắn với thực tiễn, tiếp thu những


kiến thức mới của nhân loại để bổ sung, phát triển nó, hoàn thiện nhận thức của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy công tác tư tưởng, tuyên truyền cổ động cần:
- Bám sát cơ sở, bám sát thực tiễn, chống quan liêu hoá, hành chính hoá, hình
thức phô trương, từ đó xem xét khách quan hiệu quả của công tác tư tưởng, tác
động của các chủ trương, chính sách với các mặt của đời sống xã hội.
- Tin tưởng ở nhân dân, tìm hiểu nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng tư tưởng, tình
cảm của họ, lắng nghe những ý kiến đúng đắn, tập hợp được những kinh nghiệm,
sáng kiến của nhân dân trong việc thực hiện chủ trương, chính sách.

- Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ trong giảng dạy và học tập lý luận, có
phương pháp nghiên cứu biện chứng, tổng kết kinh nghiệm công tác thực tiễn, phát
huy trí tuệ tập thể, tiếp thu những ý kiến đúng đắn để phát triển lý luận, tìm ra
những giải pháp thích hợp để tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách.
Chỉ có như vậy chúng ta mới nâng cao được chất lượng, hiệu quả của công tác
tư tưởng - tuyên truyền cổ động, trả lời đúng, có sức thuyết phục các vấn đề mới do
cuộc sống đặt ra, không chỉ giải thích đường lối, chính sách, mà phát hiện, tham
gia giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình cách mạng. Chỉ có như vậy
công tác tư tưởng mới góp phần giữ vững bản chất công nhân và tính tiên phong
của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
thành công ở nước ta.
I.2. Công tác tư tưởng - tuyên truyền cổ động phải gắn liền với công tác tổ chức,
với phong trào cách mạng của quần chúng, nói đi đôi với làm
1. Công tác tuyên truyền cổ động phải gắn liền với công tác tổ chức
Công tác tuyên truyền cổ động trước hết là phải tiến hành việc nghiên cứu lý
luận , tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giáo dục phẩm chất cách mạng cho cán bộ


và quần chúng, làm cho họ có nhận thức đúng, biến nó thành niềm tin và thành tư
tưởng chỉ đạo hành động. Vì vậy, công tác tuyên truyền cổ động nâng cao tính tự
giác, chỉ đạo hành động của họ trong đấu tranh cách mạng. Nhưng nếu chỉ có công
tác tuyên truyền cổ động thì tư tưởng chưa thể biến thành hành động. Phải có công
tác tổ chức thích hợp với những hình thức tổ chức, kế hoạch, biện pháp đúng, lôi
cuốn đượ đông đảo quần chúng hành động. Đúng như câu nói “lý thuyết phải có
hành động” mới đem lại kết quả cuối cùng…Công tác tuyên truyền cổ động mang
tính tư tưởng – lý thuyết cần được vận dụng và đi vào thực tiễn bằng những hành
động.
Xét trong một phạm vi lớn như ở một thời kỳ cách mạng, sau khi có đường lối
chính trị, có phương hướng công tác tư tưởng, tuyên truyền cổ động thì phải có

phương hướng, kế hoạch công tác tổ chức để bảo đảm thực hiện. Như trong thời kỳ
Mặt trận dân chủ 1930 - 1939: trong khi tuyên truyền cho đường lối chống chế độ
phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi dân chủ, hoà bình, Đảng ta
đã chuyển hướng công tác tổ chức, phân công các bộ phận đảng viên hoạt động
hợp pháp, nửa hợp pháp và bộ phận bí mật, lập Mặt trận dân chủ, phát triển và đổi
tên các đoàn thể như Đoàn thanh niên Cộng sản thành Đoàn thanh niên dân chủ,
Công hội đỏ thành Công hội, Nông hội đỏ thành Nông hội, lập ra các tổ chức hợp
pháp rộng rãi như Hội ái hữu, Hội Thể thao.. . , sử dụng các hình thức hợp pháp,
nửa hợp pháp. tổ chức các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, kết hợp chặt chẽ
các khẩu hiệu chính trị với khẩu hiệu kinh tế. Nhờ đó, đã tạo ra cao trào quần
chúng giành nhiều thắng lợi.
Để công tác tư tưởng gắn liền với công tác tổ chức thì công tác tuyên truyền
cũng cần gắn chặt với công tác cổ động, khi cần thiết phải có những khẩu hiệu sát
hợp hướng dẫn tư tưởng và hành động của quần chúng. Sau cuộc đảo chính Nhật
Pháp ngày 9-3-1945, để phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho
Tổng khởi nghĩa, Đảng đã sử dụng những hình thức tuyên truyền mạnh bạo hơn


như tuyên truyền xung phong có vũ trang, hình thức đấu tranh cao hơn như bãi
công chính trị, biểu tình tuần hành vũ trang. Đảng đã thay đổi khẩu hiệu "đánh
đuổi phát xít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật". Trước tình
hình địch vơ vét thóc, gạo, phá lúa trồng đay gây ra nạn đói, Đảng đưa ra khẩu hiệu
"phá kho thóc: giải quyết nạn đói" đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của quần
chúng, phát động được đông đảo quần chúng vùng dậy với khí thế hừng hực tham
gia khởi nghĩa.
2. Công tác tuyên truyền cổ động phải gắn liền với cách mạng quần chúng
Xét trong phạm vi hẹp hơn, đối với một cuộc vận động phong trào quần chúng
về một mặt công tác như sản xuất, thủy lợi, xoá nạn mù chữ, xoá đói giảm nghèo,
cũng phải có mục tiêu cụ thể, thiết thực, kế hoạch rõ ràng, có điều kiện vật chất, cơ
chế chính sách, cán bộ để thực hiện. Công tác tư tưởng phải gắn liền với các khâu

thực hiện, nói đi đôi với làm. Phải kịp thời nàm được diễn biến tư tưởng của quần
chúng để có biện pháp xử lý đúng, giúp cho phong trào hành động có hiệu quả.
Một vấn đề rất quan trọng trong việc gắn liền công tác tư tưởng tuyên truyền
cổ động với công tác tổ chức, với phong trào quần chúng là thái độ gương mẫu của
cán bộ) đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo từ Trung ương tới cơ sở.
Cán bộ, đảng viên phải thông suốt chủ trương, có lòng tin mạnh mẽ, gương
mẫu trong hành động, dẫn đầu phong trào quần chúng. Nhân dân ta đã khái quát
việc này là "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Đảng viên đi trước không
phải là đơn độc một mình mà phải lôi cuốn được quần chúng.
Một đơn vị vũ trang muốn có phong trào thi đua chiến đấu cao thì các đảng
viên phải là các chiến sĩ sẵn sàng xả thân vì nước, dũng cảm, mưu trí, có kỹ thuật
chiến đấu giỏi. Muốn có phong trào tòng quân thì các đảng viên trẻ, con em cán bộ
đảng viên phải xung phong trước. Muốn có phong trào đấu tranh của nhân dân
vùng sau lưng địch thì cán bộ, đảng viên phải chịu đựng hy sinh gian khổ, bám đất,


bám dân, biết chỉ đạo đấu tranh, không nằm im, chạy dài. Muốn có phong trào sản
xuất thì cán bộ đảng viên phải là những người lao động gương mẫu, có năng suất,
chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương cho toàn Đảng về mặt
này trong suốt cả cuộc đời mình. Một việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý
nghĩa lớn là khi kêu gọi phong trào cứu đói năm 1945 - 1946, Người đã thực hiện
nghiêm chỉnh việc mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo cứu đói. Chình vì vậy,
nhân dân càng thấy rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cách mạng chân chính, chế
độ mới thực sự là của nhân dân, do dân, vì dân, mọi người sẵn sàng tin theo đường
lối kháng chiến, kiến quốc và hưởng ứng mọi phong trào cách mạng lúc ấy.
Tổ chức và hoạt động thực tiễn cũng là cơ sở vật chất cho sự tồn tại của tư
tưởng. Nếu cán bộ, đảng viên, nhân dân được sinh hoạt trong một tổ chức trong
sạch, vững mạnh, hoạt động trong một phong trào sôi nổi thì tư tưởng tiên tiến
ngày càng nảy nở, phát triển, tư tưởng lạc hậu bị đẩy lùi.
Một đảng tiên phong thì tuyệt đại bộ phận đảng viên phải giữ được vai trò tiên

phong. Công tác tư tưởng gắn với công tác tổ chức, với phong trào hành động cách
mạng mới rèn luyện được một đội ngũ đảng viên như vậy. Cũng chỉ như vậy công
tác tư tưởng mới nâng cao được hiệu quả xây dựng tư tưởng, tình cảm, lối sống,
nhân cách con người mới Việt Nam.
I.3. Công tác tuyên truyền cổ động phải định hướng tư tưởng đúng và kịp thời,
nhất là khi có tình hình biến động phức tạp và trong các bước ngoặt của cách
mạng
Cách mạng là cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại các thế lực thù địch, cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nó không thể diễn ra bình lặng trên con đường
thẳng tắp mà quanh co, khúc khuỷu, có những biến động phức tạp, có những bước
ngoặt kèm theo những tác động về tư tưởng ảnh hưởng đến hành động của mọi


người. Công tác tư tưởng cần bám sát thực tiễn, kịp thời nắm bắt diễn biến tư
tưởng, dự báo chiều hướng phát triển để định hướng tư tưởng đúng và kịp thời.
Định hướng đúng và kịp thời thì thống nhất được tư tưởng và hành động, phát
huy được các nhân tố tích cục, hạn chế tiêu cực, làm cho cách mạng phát triển
thuận lợi. Trong lịch sử, đã có nhiều thời kỳ tình hình thế giới và trong nước có
những biến động phức tạp, cách mạng có nhung bước ngoặt, Đảng ta đã có những
định hướng đúng và kịp thời. Có thể nêu một số trường hợp sau đây:
Sau cao trào cách mạng 1930 - 193l và Xôviết Nghệ Tĩnh, địch tăng cường
đàn áp trắng trợn, hầu hết cán bộ lãnh đạo bị bắt, một số bị giết, cơ sở đảng và
đoàn thể phần lớn tan vỡ. Đảng đã kịp thời công bố bản chương trình hành động
phân tích tình hình, biểu dương những thành tích đã đạt được trong hai năm cao
trào cách mạng, biểu dương tinh thần đấu tranh bất khuất của các chiến sĩ cách
mạng, khẳng định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ là đúng đắn, những mâu
thuẫn dẫn đến cách mạng vẫn chưa được giải quyết, sự đàn áp của địch không thể
dập tắt được phong trào cách mạng. Bản chương trình hành động cũng phê phán
chủ nghĩa cải lương tư sản phản động, vạch ra phương hướng khôi phục phong trào
và phát động đấu tranh trong tình hình mới. Bản chương trình đã củng cố lòng tin

của đảng viên và quần chúng vào tiền đồ cách mạng, chỉ cho họ phương hướng
hành động và đẩy lùi tư tưởng bi quan, dao động, tạo điều kiện cho việc khôi phục
nhanh chóng hệ thống tổ chức và phong trào quần chúng.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đầu tháng 9-1939, Đảng đã thấy
được chiến tranh sắp nổ ra, đã chuẩn bị tư tưởng cho đảng viên rút vào hoạt động
bí mật. Khi chiến tranh tới, Trung ương Đảng đã kịp thời ra bản "Thông cáo cho
các cấp đảng bộ" nêu rõ hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề giải
phóng dân tộc, chỉ cho các cấp chuyển hướng các mặt công tác. Trung ương cũng
xuất bản tài liệu giải thích về việc Liên Xô ký Hiệp ước Xô - Đức để lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng ngũ đế quốc, tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc


phòng, phá âm mưu của đế quốc Anh - Mỹ thúc đẩy phát xít Đức tấn công Liên
Xô. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu tháng 11-1939 đã nhận định "Chiến
tranh sẽ gây tai hoạ cho phần lớn nhân loại, nhưng tiền đồ cách mạng sẽ rất sáng
sủa", "một thế giới quang vinh rực rỡ sẽ thay thế cho cái thế giới tối tăm mục nát
này" và dự đoán Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương. Hội nghị xác định mục tiêu
chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai,
giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Các
văn kiện trên đã có ý nghĩa quan trọng định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên
và quần chúng, mở đầu việc phát động cao trào giải phóng dân tộc.
- Tháng 3- 1945, sau cuộc đảo chính Nhật lật Pháp, căn cứ vào Nghị quyết
Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương, chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta" đã phân tích tình hình, vạch ra phương hướng hành động để
gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa. Bản chỉ thị dự kiến các thời cơ cụ thể để
phát động tổng khởi nghĩa, vạch ra các chủ trương chuyển hướng các mặt công tác
trong thời kỳ tiền khởi nghĩa: vũ trang tuyên truyền, phá kho thóc, giải quyết nạn
đói, thành lập căn cứ địa mới, lập Uỷ ban nhân dân cách mạng, v.v. . Chỉ thị đã
định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, soi sáng mục tiêu, nội dung và phương pháp
đấu tranh, tạo điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa về sau phát triển thuận lợi.

- Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, nêu rõ 6 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới. Kết luận số 20 của
Bộ Chính trị (11-1988) và các Nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương (khoá VI) đã giữ
vững sự thống nhất về chính trị tư tưởng, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, cụ thể
hoá thêm đường lối đổi mới, bác bỏ quan điểm muốn dập khuôn cải tổ, cải cách
của nước ngoài, đòi "đa nguyên, đa đảng". Nhờ đó, cách mạng nước ta đã đứng
vững trong cơn chấn động chính trị lớn trên thế giới và tiếp tục phát triển thắng lợi.
Việc định hướng tư tưởng đúng và kịp thời không những quan trọng đói với
các vấn đề chiến lược hoặc những biến động chính trị lớn mà còn cần thiết cả đối


với các vấn đề thời sự quan trọng, những vấn đề mới nảy sinh trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đối với những thủ đoạn lừa bịp, phá hoại của kẻ thù, việc chỉ
đạo tư tưởng cần đi sát cuộc sống, có định hướng đúng, nhất là đối với báo chí, văn
nghệ là những công cụ quan trọng, nhạy cảm, hàng ngày tác động đến đông đảo
quần chúng.
I.4. Công tác tuyên truyền cổ động phải giữ vững và phát huy thế chủ động, tiến
công trên mặt trận tư tưởng, kết hợp chặt chẽ "xây" và "chống', biểu dương và
phê bình, lấy "xây" là chính
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ. Mỗi bước tiến lên của cách mạng đều có sự đấu tranh giữa
tiến bộ và phản động, giữa tiên tiến và lạc hậu. Trên mặt trận tư tưởng, hàng ngày
phải hướng dẫn tư tưởng, hành động của nhân dân, đấu tranh chống lại các thủ
đoạn xảo quyệt và các luận điệu thù địch, những tư tưởng, quan điểm sai trái. Do
đó công tác tư tưởng phải giữ vững và phát huy thế chủ động, không thể thụ động,
né tránh, bỏ trống trận địa tư tưởng. Muốn vậy phải bám sát thực tiễn, có sự phân
tích lý luận, chính trị đúng, dự kiến được sự phát triển của tình hình chính trị, tư
tưởng từng thời gian, đề ra phương hướng công tác tư tưởng đúng đắn, chủ động
đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu thù địch. Nâng cao tính thuyết
phục, mở rộng đối thoại trong đấu tranh tư tưởng đối với những người có quan

điểm sai trái. Đó cũng là tính khoa học và tính chiến đấu của công tác tư tưởng.
Trong cao trào giải phóng dân tộc, Đảng đã dự đoán trước được Nhật sẽ xâm
lược Đông Dương, sớm muộn Nhật sẽ hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông Dương.
Vì vậy, Đảng đã sớm tố cáo tội ác và các thủ đoạn lừa bịp của bọn phát xít Nhật và
tay sai, phê phán tư tưởng phục Nhật, sợ Nhật, muốn lợi dụng Nhật để giành độc
lập. Đảng đã dự kiến các thời cơ khởi nghĩa, chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng


viên và nhân dân nắm thời cơ nổi dậy, chống các khuynh hướng rụt rè, do dự hoặc
phiêu lưu, nóng vội, manh động.
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên
ngôn độc lập tuyên bố với thế giới "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
đọc lập ấy".
Bản tuyên ngôn có ý nghĩa lịch sử về nhiều mặt. Nó đã nêu cao chính nghĩa
của nhân dân ta, chủ động tiến công vào những mưu mô xâm lược của bọn đế quốc
và phản động Tưởng Giới Thạch. Nó cũng chuẩn bị tư tưởng cho nhân dân ta tiến
vào một thời kỳ mới, đấu tranh để bảo vệ chính quyền cách mạng, tiến hành kháng
chiến để bảo vệ quyền tự do, độc lập.
Trong hai cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp và Mỹ, Đảng ta đã nhận định
đúng và kịp thời các âm mưu, kế hoạch, thủ đoạn chiến tranh của địch nên đã chủ
động tiến công trên tất cả các mặt tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại giao, phát huy
nghị lực chiến đấu phi thường và trí tuệ sáng tạo của nhân dân ta để giành toàn
thắng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, ngay từ đầu Đảng ta đã chủ động xác định phương
hướng công tác tư tưởng đúng đắn: đổi mới tư duy, phát huy tinh thần độc lập tự
chủ, tìm tòi đổi mới tích cực: nhưng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, không dao động m ất phương hướng, không giáo điều, sao chép, dập
khuôn, sửa sai nhưng không phủ nhận thành tựu của cách mạng và kinh nghiệm

đúng của quá khứ. Công tác tư tưởng đã chủ động góp phần tìm tòi phát hiện
những sáng tạo của cán bộ, đảng viên, nhân dân ở địa phương và cơ sở, góp phần
vào việc tổng kết kinh nghiệm để hình thành và phát triển đường lối đổi mới. Đồng
thời đã thường xuyên đấu tranh chống lại những luận điệu thù địch nhằm "chuyển
hoá hoà bình", chống lại những quan điểm lệch lạc ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư


bản, chủ nghĩa xã hội dân chủ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành
tựu của cách mạng, dao động, mất lòng tin vào chủ nghĩa xã hội, đòi tự do tư sản,
đa nguyên, đa đảng.
Tính chủ động của công tác tư tưởng còn thể hiện ở chỗ cổ vũ biểu dương
những điển hình tốt, những hiện tượng tích cực trong cuộc sống, đi đôi với phê
phán những điển hình xấu, những hiện tượng tiêu cực, kết hợp "xây" và "chống",
bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cách mạng với việc phê phán những biểu hiện tư
tưởng lạc hậu, phi vô sản, biểu dương ưu điểm đi đôi với phê bình khuyết điểm.
Chúng ta lấy "xây" là chính, vì đó là cách "chống" chủ động để ngăn ngừa cái xấu.
Nhưng "xây" phải đi liền với chống thì mới "xây" được vững chắc.
Trong quá trình giáo dục đối với một con người, một tập thể cần khơi gợi,
phát huy những mặt tốt của họ để khắc phục những mặt yêu kém, phát huy ưu
điểm để sửa chữa khuyết điểm. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước nhằm phát huy
truyền thống yêu nước của dân tộc để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Đã có nhiều đơn vị tiêu biểu, đơn vị anh hùng, chiến sĩ anh hùng trong nhân dân
cùng với hàng chục triệu người bình thường thuộc mọi tầng lớp làm những việc tốt
trong công việc hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng việc nêu
gương người tốt, việc tốt, lấy gương ấy để giáo dục xây dựng con người mới, xây
dựng các tổ chức cách mạng và xây dựng Đảng. Theo Người thì trong mỗi con
người đều có cái thiện, cái ác, phải biết làm cho phần tốt, phần thiện phát triển,
phần xấu, phần ác mất đi. Trong thời kỳ chống Mỹ, Đảng đã tổng hợp kinh nghiệm
trong phong trào thi đua ở Quảng Bình, Thái Bình, chỉ đạo việc báo công, lập công

trong nhân dân ở các địa phương có nhiền kết quả tốt. Báo công, lập công chính là
một hình thức giáo dục lấy biểu dương ưu điểm là chính để khắc phục khuyết
điểm, lấy quần chúng giáo dục quần chúng, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.


Đó cũng là một hình thức tốt để tiến hành việc tự phê bình của cán bộ, đảng viên
trước quần chúng.
I.5. Giáo dục toàn diện, kết hợp ba mặt giáo dục: lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng; kiến thức văn hoá, quản lý, kỹ
thuật; phẩm chất và đạo đức cách mạng
Nhân dân ta là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Để phát huy vai trò
làm chủ, mọi người đều cần hiểu biết về phương hướng chính trị, đường lối chính
sách của Đảng, có thái độ đúng đối với các vấn đề của cuộc sống, có những kiến
thức cần thiết về văn hoá, khoa học kỹ thuật nghiệp vụ cần cho công việc của
mình, có phẩm chất đạo đức công dân. Cán bộ đảng viên là người lãnh đạo lại cần
có sự hiểu biết về lý luận, chính trị sâu sắc hơn, có kiến thức cần thiết để lãnh đạo,
có phẩm chất đạo đức của người cách mạng.
Sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân, vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn tin tưởng ở sức mạnh, tinh thần sáng tạo của nhân dân, giác ngộ và tổ
chức nhân dân, bồi dưỡng sức mạnh và tinh thần sáng tạo ấy để chiến thắng kẻ thù,
xây dựng xã hội mới. Ngay từ khi ra đời Đảng đã tiến hành việc tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin và Cương lĩnh cứu nước của mình, gắn liền với việc cổ động
đấu tranh cho các mục tiêu dân sinh, dân chủ trước mắt. Các nghị quyết của Trung
ương Đảng thường xuyên nhấn mạnh việc tuyên truyền chủ nghĩa, đường lối chính
sách phải gắn liền với việc tố cáo kẻ thù, phát động cuộc đấu tranh vì quyền lợi
thiết thực của quần chúng. Từ thời kỳ Mặt trận dân chủ, Đảng đã vận động lập
"Hội truyền bá quốc ngữ" để giúp những người lao động nghèo biết chữ, đọc được
sách báo cách mạng, nâng cao được dân trí. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã phát động việc "chống giặc dốt" cùng với việc
"chống giặc đói" và "giặc ngoại xâm" vì một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Trong

kháng chiến chống Pháp, công tác xoá nạn mù chữ vẫn được thực hiện rộng rãi


trong cả nước cùng với việc bổ túc văn hoá cho cán bộ công nông để tạo điều kiện
thuận lợi cho họ nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn.
Trong việc giáo dục cán bộ đảng viên, Đảng luôn coi trọng việc thống nhất lý
luận và thực tiễn, học đi đôi với hành. Học lý luận là để hiểu những chân lý phổ
biến, áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta, để quán triệt
sâu sắc hơn đường lối chính sách của Đảng, để xử trí đúng đối với mọi việc, mọi
người và đối với bản thân. Học đường lối chính sách cũng phải hiểu được những
căn cứ lý luận và thực tiễn của đường lối chính sách, tự giác chấp hành một cách
sáng tạo.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của cán
bộ. Đảng yêu cầu cán bộ nâng cao kiến thức khoa học, nhất là các khoa học kinh
tế, quản lý, khoa học kỹ thuật hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người
cách mạng. "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không
có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì".
Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết về "Tư cách người cách mệnh" trong
cuốn "Đường cách mệnh". Từ đó về sau Người viết bài, viết sách, viết thư gửi cán
bộ về đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cho tới khi viết Di chúc lại
nhắc nhở vấn đề này.
Không những Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra những chuẩn mực chung cho cán
bộ, đảng viên như "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư" mà còn nêu ra những
chuẩn mực riêng cho nhiều tầng lớp người. Khi nói về văn hoá, Người cũng chỉ rõ:
cần làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của nhân dân, nghĩa là văn hoá
phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, xa xỉ. Tâm lý của ta lấy tự do độc lập
làm gốc, văn hoá phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do…



Từ sau khi giải phóng đất nước năm 1975, trong hoàn cảnh mới, do chúng ta
chưa làm tốt việc giáo dục rèn luyện cán bộ đảng viên, do cơ chế chính sách chưa
đồng bộ và có nhiều sơ hở và những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nên
một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống.
Biểu hiện phổ biến là nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công, lối sống xa
hoa, truỵ lạc đang gây tác hại nghiêm trọng trước hết là đến uy tín và sự lãnh đạo
của Đảng. Vì vậy, việc giáo dục lý luận chính trị cần gắn chặt với giáo dục phẩm
chất đạo đức cách mạng. Muốn nắm vững thực chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vừa phải có tri thức cách mạng, vừa phải có tinh thần cách
mạng, nhiệt tình cách mạng. Sự tha hoá về đạo đức tất nhiên sẽ dẫn tới sự tha hoá
về chính trị.
Cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ và nguy cơ, thuận lợi và
khó khăn đan xen nhau, chúng ta phải phát huy mạnh mẽ các nhân tố nội sinh,
trước hết là nhân tố con người, để giải quyết thắng lợi những nhiệm vụ nặng nề và
phức tạp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta đã coi công tác giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nó không chỉ
nhằm vào thanh thiếu niên đang học trong nhà trường mà còn nhằm vào toàn bộ
lực lượng lao động và mọi công dân trong xã hội. Việc giáo dục toàn diện đối với
cán bộ, đảng viên là một nội dung rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng, làm
cho Đảng ta thực sự tiên phong về đạo đức cách mạng, về trí tuệ và năng lực tổ
chức thực tiễn trong tình hình hiện nay.
I.6. Nâng cao tính khoa học, thực hiện dân chủ trong công tác tuyên truyền cổ
động
1. Nâng cao tính khoa học trong công tác tuyên truyền cổ động
Tính khoa học là một nguyên tác cơ bản của công tác tư tưởng. Nó đòi hỏi
công tác tư tưởng phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,



lấy đó làm cơ sở để giải thích các vấn đề do thực tiễn đặt ra một cách có căn cứ
khoa học, thuyết phục được quần chúng để họ hành động tự giác và có hiệu quả.
Trong điều kiện hiện nay, khi trình độ cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng
được nâng cao thì càng phải nâng cao tính khoa học của công tác tư tưởng mới đạt
được hiệu quả mong muốn.
Như vậy, chúng ta phải tãng cường việc nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh gắn với việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Phải có các đề tài
cụ thể để hiểu được bản chất, quy luật phát triển, biến đổi của các sự kiện, hiện
tượng xã hội, phân tích, lý giải một cách khoa học làm căn cứ cho đường lối chính
sách của Đảng, cung cấp được câu trả lời cho các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Tính khoa học của công tác tư tưởng còn thể hiện trong việc phản ánh đúng
hiện thực khách quan, quy luật vận động khách quan, phản ánh đúng sự thật. Đó
cũng là tính chân thật của công tác tư tưởng. Thái độ của Đảng là nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng, nói rõ sự thật cho nhân dân biết, không
che đậy. Công tác tư tưởng cần nói cả thắng lợi của cách mạng để phát huy, khó
khăn, khuyết điểm, nguyên nhân để khắc phục, không "tô hồng" cũng không "bôi
đen". Việc biểu dương hay phê phán một cá nhân, một tập thê cũng phải đúng mức,
tôn trọng sự thật. Việc trình bày sự thật nhiền khi gắn với phê bình, tự phê bình
nên đòi hỏi sự trung thực, dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng và
nhân dân. Nhiều nghị quyết của Đảng và bài viết của các đồng chí lãnh đạo tiên
biểu cho vấn đề này, như Nghị quyết Dại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định
những thành tựu và chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ chương,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và nguyên nhân của những sai lầm ấy. Nhân
dân biết rõ sự thật mới hiểu rõ tình hình nhiệm vụ và hành động một cách tự giác.
Tính khoa học của công tác tư tường còn đòi hỏi phải nghiên cứu đặc điểm
của các tầng lớp nhân dân, từng đối tượng để có nội dung, phương pháp thích hợp.
Hiện nay, sau hơn mười năm đổi mới, các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng


viên đã có sự phát triển mới, không phải là một khối thuần nhất. Như vậy, phải có

đỉều tra nghiên cứu để tìm hiểu sâu sắc hơn, coi trọng công tác điền tra dư luận xã
hội để có thể đánh giá tình hình tâm trạng, tư tưởng có cơ sở khoa học hơn. Phải
vận dụng những thành tựu của các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn
tâm lý học, sư phạm học, xã hội học, sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại
Công tác tư tưởng bao gồm tuyên truyền miệng, báo chí, xuất bản, văn học
nghệ thuật, trưởng học. Mỗi loại đều có khoa học nghiệp vụ nhất định, cần có tổng
kết kinh nghiệm để nâng cao sức thuyết phục, sức hấp dẫn và tính nghệ thuật.
2. Thực hiện dân chủ trong công tác tuyên truyền cổ động
Thực hiện dân chủ là nlột phương châm cơ bản của công tác tư tưởng. Trong
bài phát biểu ở lớp nghiên cứu chính trị của một số anh em trí thức năm 1956, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: ". . . chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do.
Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp
phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư
tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý".
Như vậy, về những vấn đề tư tưởng, không thể áp đặt, cưỡng ép. Con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta là con đường mới mẻ, đầy thử thách. đòi
hỏi phải có nhiều tìm tòi: khám phá, sáng tạo. Trong hoàn cảnh mới, chúng ta lại
có nhiều điều kiện để tiếp cận thông tin, thu nhận được những thành tựu mới về lý
luận, kiến thức của nhân loại, nhưng cũng có nhiều những luồng thông tin sai lệch,
lý thuyết phản động thâm nhập bằng nhiều con đường, thực tiễn trong nước và thế
giới lại rất phong phú, phức tạp. Trên con đường tiếp nhận thông tin, tìm tòi? khám
phá tất nhiên nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề lý luận và thực tiễn
đang đặt ra. Vì vậy, cần thực hiện dân chủ trong công tác tư tưởng, trước hết trong
công tác nghiên cứu lý luận. Cần có cơ chế khuyến khích phát huy tự do tư tưởng,


tránh chụp mũ, thành kiến, tạo môi trường cho sự thảo luận dân chủ, tranh luận để
tìm ra chân lý khách quan, tránh được những kết luận chủ quan một chiều, đồng
thời bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ và phát triển được chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại các lý thuyết phản động, các quan điểm
sai lầm.
Thực hiện mở rộng thông tin, bảo đảm quyền được thông tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Thông tin kịp thời có định hướng là rất quan trọng để nâng cao
dân trí, hướng dẫn dư luận, giáo dục chính trị tư tưởng, chủ động ngăn chặn và đấu
tranh với những luồng thông tin sai lệnh, các luận điệu xuyên tạc, phản động.
Thông tin cần đa dạng để dáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân nhưng phải
chống khuynh hướng thương mại hoá, chạy theo những thị hiếu không lành mạnh.
Thông tin ngày càng phong phú, dân trí ngày càng cao, trên nhiều vấn đề
thường có ý kiến mới, ý kiến khác nhau, phản ánh những nhận thức khác nhau,
những kinh nghiệm sống và những lợi ích cụ thể khác nhau. Cần mở rộng những
hình thức đối thoại, thảo luận dân chủ cởi mở với các tầng lớp nhân dân, qua đó mà
hiểu được nhận thức và tâm trạng của họ, trả lời đúng các vấn đề mà họ quan tâm,
giải đáp được những băn khoăn thắc mắc của họ. Cũng qua đó mà thu thập ý kiến
phê bình, nguyện vọng, đề nghị và sáng kiến của họ phản ánh kịp thời với cơ quan
lãnh đạo. Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân
mới làm thầy học được dân. Cán bộ làm công tác tư tưởng và cán bộ lãnh đạo các
ngành, các cấp cần gần gũi nhân dân, thực sự lắng nghe ý kiến họ, học hỏi họ, vừa
tạo được sự nhất trí có căn cứ của họ đối với chủ trương chính sách, vừa thu thập ý
kiến họ để bổ sung và hoàn thiện nó. Thực hiện dân chủ trong công tác tư tưởng
cũng là một biện pháp quan trọng để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, chống quan liêu, xa thực tế, ngăn
ngừa và hạn chế sai lầm.


I.7. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, cải tiến phương thức lãnh đạo, phát
huy sức mạnh tổng hợp trong công tác tuyên truyền cổ động
Thắng lợi của cách mạng nước ta là kết quả tổng hợp của một loạt nhân tố,
nhưng nhân tố quyết định nhất là sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo ấy là tất yếu
để hiện nay chúng ta bảo đảm được độc lập thật sự của đất nước, quyền làm chủ

của nhân dân và sự phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa .
Hiện nay chúng ta đang đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, mới mẻ của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Các
thế lực thù địch đang mưu toan thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, đưa nước ta đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, nhất là
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vẫn tác động vào
tâm tư, tình cảm, làm suy giảm lòng tin của nhiều người. Cuộc đấu tranh tư tưởng
vẫn đang diễn ra gay gắt. Vì vậy tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về tư tưởng có
ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Từ những kinh nghiệm lịch sử đã trình bày trên, chúng ta thấy cần tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng trên các mặt sau đây:
- Tăng cường chỉ đạo việc nghiên cứu lý luận, nghiên cứu các môn khoa học
xã hội và nhân văn, tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo các lĩnh vực công tác để khắc
phục sự chậm trễ về lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm căn cứ cho việc xây dựng và hoàn thiện đường lối chính
sách, nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác tư tưởng. Trong tình hình mới,
cần đặc biệt coi trọng tổng kết thực tiễn, trên cơ sở đó mà phát triển lý luận cách
mạng phù hợp với tình hình đất nước. Phải phát huy vai trò và tiềm lực của đội ngũ
cán bộ lý luận, cán bộ khoa học xã hội, cán bộ có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
vào việc này để thực hiện các chương trình nghiên cứu thiết thực phục vụ cho các
nhu cầu của cách mạng.


- Định hướng chính trị tư tưởng đúng và kịp thời thông qua việc xác định
phương hướng nhiệm vụ công tác tư tưởng từng thời gian, trên các lĩnh vực công
tác quan trọng và đối với những diễn biến phức tạp trong nước và quốc tế, đặc biệt
là khi có những bước ngoặt của cách mạng. Lắng nghe các ý kiến khác nhau, tiếp
thu những điều hợp lý, trao đổi ý kiến thẳng thắn đối với những người có quan
điểm không đúng.
Nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, bảo đảm tính khoa học và độ tin

cậy trong việc điều tra dư luận xã hội, nâng cao năng lực dự báo các chiều hướng
phát triển. Đấu tranh sắc bén với các thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực
thù địch.
- Chỉ đạo chặt chẽ việc tuyên truyền đường lối, chính sách, Nghị quyết, quan
điểm của Đảng và luật pháp Nhà nước trên các lĩnh vực, trước hết trong đội ngũ
cán bộ phụ trách các cấp, các ngành, chống các khuynh hướng, quan điểm sai lầm.
- Tăng cường việc giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đang viên. Đồng thời giáo dục những tiêu chuẩn về đạo đức và lối sống trong
điều kiện thực hiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Việc giáo dục lý
tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng cần đi đôi với các biện pháp kinh tế, tổ chức,
hành chính, gắn giáo dục với rèn luyện trong phong trào quần chúng xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tư tưởng (cán bộ lý luận,
giảng viên, báo chí, xuất bản, cán bộ quản lý và tham mưu về công tác tư tưởng…)
bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ làm công tác tư tưởng cần:
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với
đường lối của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
- Trung thực, có ý thức trách nhiệm cao và tinh thần sáng tạo.


- Thường xuyên học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực nghiệp vụ, bổ
sung những kiến thức mới đáp ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng khoa học - công
nghệ.
- Có đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh.
- Bám sát cơ sở, tôn trọng và lắng nghe y kiến nhân dân.
Có chế độ, chính sách phù hợp để phát huy năng lực, sử dụng nhân tài. Bố trí
đúng đội ngũ cán bộ phụ trách các cơ quan công tác tư tưởng quan trọng như: giám
đốc trường Đảng, tổng biên tập báo, đài, nhà xuất bản, phụ trách các cơ quan điện
ảnh, nhà hát… Coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết và phổ biến kinh nghiệm tốt,

uốn nắn sai lầm, chống quan liêu, buông lỏng công tác tư tưởng.
Đi đôi với việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, cần cải tiến phương
thức lãnh đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác tư tưởng. Trong điều kiện
Đảng cầm quyền, nội dung lãnh đạo ấy cần chú ý cả hai mặt:
- Chỉ đạo chặt chẽ về định hướng chính trị tư tưởng, triển khai việc thực hiện
công tác tư tưởng thông qua các cấp uỷ, các tổ chức Đảng, huy động và phối hợp
lực lượng toàn Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng (các cơ
quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, lực lượng vũ trang. . .). Kết hợp các lục lượng
chuyên trách và không chuyên trách, phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác tư
tưởng.
- Phát huy vai trò và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước trên lĩnh tuyên
truyền cổ động. Các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này cần thể chế hoá kịp
thời các quyết định của Đảng, có chính sách thích hợp thúc đẩy sự phát triển của
các hoạt động tư tưởng, văn hoá, có sự đầu tư cơ sở vật chất cần thiết. Ngăn chặn
và xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật.
Cùng với sự phát triển của sự nghiệp đổi mới, trình độ dân trí ngày càng nâng
cao, việc lãnh đạo như trên đã trình bày cần coi trọng nâng cao tính khoa học và
phát huy dân chủ trong công tác tư tưởng. Điều này cần quán triệt vào các hình


thức và phương pháp công tác tư tưởng: tuyên truyền miệng, sinh hoạt chính trị
trong Đảng và các đoàn thể, báo chí, xuất bản, giáo dục chính trị lý luận trong các
trường lớp, v.v, chống cách làm công thức nghèo nàn, đơn điệu.
Hiện nay các phương tiện thông tin hiện đại ngày càng phát triển và giữ vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội (truyền hình, Internet – nhất là sự bùng nổ của
mạng xã hội…). Chúng ta cần sử dụng để làm cho công tác tư tưởng tuyên truyền
cổ động nhanh nhạy và có hiệu quả hơn, đồng thời phải quản lý tốt để đấu tranh và
ngăn chặn luồng thông tin xấu, độc hại, bảo vệ an ninh tư tưởng và bản sắc văn hoá
dân tộc. Cần tìm tòi cải tiến các hình thức phương pháp mới như các hội thi, đối
thoại, giảng dạy trên truyền hình…

- Công tác tư tưởng, tuyên truyền cổ động phải chuyển mạnh về cơ sở, gắn với
thực tiễn ở cơ sở, trực tiếp với cán bộ, đảng viên, nhân dân ở cơ sở. Như vậy, các
cấp trên phải tổ chức việc đưa thông tin về cơ sở, đến được dân, tới được các đối
tượng cần thiết. Cần xây dựng và củng cố bộ máy tuyên huấn cơ sở, giúp cho cấp
uỷ và đảng bộ cơ sở chỉ đạo phối hợp các lực lượng làm công tác tư tưởng. Kết quả
là người dân có thể hiểu được tình hình nhiệm vụ, nắm được chủ trương; chính
sách, tự giác thực hiện có hiệu quả. Đồng thời họ có thể kiểm tra, phê bình việc chỉ
đạo thực hiện của cán bộ, góp ý kiến với cấp trên về chủ trương chính sách. Đối
với những đợt công tác giáo dục quan trọng, cấp trên nên làm thí điểm ở cơ sở để
rút kinh nghiệm trước khi mở rộng ra tất cả các địa phương.
II. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền cổ động
hiện nay
1. Nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối
với công tác tuyên truyền cổ động
Những quan điểm cơ bản và những nội dung mới về vai trò, vị trí của công tác
tuyên truyền cổ động cần được quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và


×