Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam đối với công cuộc giải phóng dân tộc năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.13 KB, 5 trang )

Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam đối với công cuộc giải phóng dân tộc năm 1930-1945
Từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng thất bại, thực dân Pháp ra sức đẩy mạnh khủng bố
trắng càng làm cho dân thêm căm thù và quyết tâm đấu tranh giành quyền sống.
- Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930, với Cương lĩnh đúng đắn đã biến sự căm thù
của quần chúng thành hành động cách mạng, Đảng đã kịp thời nắm quyền lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần
chúng công - nông.
Ngay sau khi thành lập, trên cơ sở Chính cương và Sách lược vắn tắt cũng như điều kiện cụ thể của cách mạng đầu
năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương phát động một số phong trào đấu tranh trong toàn quốc chống đế
quốc và phong kiến. Trước mắt là đòi cải thiện đời sống nhân dân.
-Đảng đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân “Đảng phải đoàn kết được đại đa số nông dân, phải
dựa vững vào nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến”; đồng thời Đảng nhấn
mạnh “Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng’’, vì vậy phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.
-Sự lãnh đạo của Ðảng trước hết ở sự bổ sung, phát triển hoàn chỉnh hệ thống các quan điểm về cách
mạng giải phóng dân tộc; ở sự lựa chọn hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp với điều kiện
lịch sử cụ thể; ở sự tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang; ở sự nhận thức tình thế và thời cơ cách mạng để đưa quần chúng vào hành động cách mạng; ở
sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung, thống nhất trong giờ phút có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi
+Tháng 10-1930, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng)
được thay thế cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày
càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một
bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa". Luận cương xác định tính chất của cách mạng Đông
Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”. Đó là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Sau khi
cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa”. Luận cương cho rằng nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu
để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng
cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ đó phải
được đặt ngang hàng nhau và tiến hành đồng thời với nhau: "... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế
quốc chủ nghĩa". Luận cương khẳng định: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ
sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. Luận cương quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp.


Đó là điều không phù hợp với thực tế của xã hội thuộc địa.
-Tháng 11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu ở Đông Dương là mâu thuẫn dân
tộc, nhấn mạnh cuộc đấu tranh dân tộc. Bản Chỉ thị Về vấn đề thành lập Hội “phản đế đồng minh”, nêu rõ:
"Trong cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương thì dân tộc Việt Nam là một dân tộc có lịch sử đấu tranh bất
diệt với giặc Pháp từ ngày Pháp chiếm đến nay, nên dân tộc phản đế trong nhân dân rất mạnh". Đây là một nhận
thức đúng thực tiễn, phù hợp với quan điểm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Tháng 12-1930, Thư của Trung ương gửi các cấp đảng bộ lại nhấn mạnh cuộc đấu tranh chống giai cấp bóc
lột. Ban Thường vụ Trung ương cho rằng phải xét địa chủ “về phương diện giai cấp”. Đó là một giai cấp tuy sở hữu
ruộng đất không đều nhau, nhưng đều “dùng cái quyền có đất để bóc lột dân nghèo, hãm hại kinh tế dân cày" và
ngăn trở sức sản xuất. Địa chủ là “thù địch của dân cày không kém gì đế quốc chủ nghĩa”, “nó quan hệ mật thiết với
quyền lợi của đế quốc chủ nghĩa”, “liên kết với đế quốc mà bóc lột dân cày”. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra
mặt phản cách mạng", một bộ phận khác “kiếm cách hòa hiệp với đế quốc”, một bộ phận “ra mặt chống đế quốc”,
nhưng đến khi cách mạng phát triển “cũng sẽ theo phe đế quốc mà chống cách mạng”. Ban Thường vụ Trung ương
chủ trương “tiêu diệt địa chủ”, “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông”.
Nhận thức này còn tiếp tục kéo dài trong một thời gian sau.
-Tháng 10-1936, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Trung ương Đảng đã dũng cảm phê phán
quan điểm của Luận cương chính trị tháng 10-1930: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với
cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền
địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng... nếu phát triển
cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải
quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho
được toàn thắng". Những quan điểm trong Chung quanh vấn đề chiến sách mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn,


bước đầu khắc phục hạn chế củaLuận cương chính trị tháng 10-1930 và khẳng định chủ trương đúng đắn trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
-Tháng 9-1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng, tác động mạnh mẽ đến Đông
Dương. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) phân tích tình hình, đánh giá thái độ các
giai cấp xã hội, các đảng phái và xu hướng chính trị ở Đông Dương, chỉ rõ tất cả các dân tộc, các giai cấp, trừ một số
phản động làm tay sai đế quốc, “đều phải gánh những tai hại ghê tởm của đế quốc chiến tranh, đều căm tức kẻ thù

chung là đế quốc chủ nghĩa”. Với quan điểm toàn diện, Trung ương Đảng đã chỉ rõ những hạn chế của các giai cấp
địa chủ và tư sản, đồng thời cũng khẳng định mặt tích cực của họ: “Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ
cũng căm tức đế quốc”. Nhấn mạnh chiến lược đấu tranh dân tộc, Hội nghị chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các
dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách
ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”, “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền
bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới", “nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ
-Để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy và bảo vệ chính quyền.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng và
Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng, dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang, để tiến hành đấu tranh dưới hình thức: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Luận cương chính trị tháng 10-1930 chủ trương ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo
động". Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà binh".
Theo Hồ Chí Minh, ở các nước Âu, Mỹ, cuộc khởi nghĩa thường hay bắt đầu từ những cuộc bãi công chính trị rồi
mới đến các cuộc vũ trang bạo động. Ở Việt Nam, khởi nghĩa có thể bùng ra ở một vài nơi rồi lan dần khắp nước.
Khởi nghĩa bùng ra ở nơi nhiều rừng núi tiện cho lối đánh du kích. Đó chính là sự khác biệt của Việt Nam so với các
nước phương Tây.
Vận dụng luận điểm của Lênin về tình thế cách mạng, trong tác phẩm Con đường giải phóng, Hồ Chí Minh nêu
ba điều kiện của thời cơ khởi nghĩa:
+Một là, chính quyền thực dân đế quốc đã lung lay bối rối đến cao độ, chúng đã cảm thấy không thể ngồi yên nắm
giữ địa vị của chúng như trước.
+Hai là, quần chúng đói khổ đã căm thù thực dân đế quốc đến cực điểm, đã thấy cần phải đồng tâm hiệp lực, nổi
dậy lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân, vì mọi người hiểu rằng nếu ngồi yên cũng chết.
+Ba là, đã có một chính đảng cách mạng đủ sức tổ chức, lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa theo một đường
lối đúng đắn, một kế hoạch phù hợp, đảm bảo giành thắng lợi cho cuộc khởi nghĩa.
Nhận rõ "hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng", Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (11-1940) phân tích tình hình và nhận định "những biến cố xảy ra sẽ đẩy nhân dân Đông Dương
đến một tình thế phải tranh đấu quyết liệt để sống... Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn
bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành
lấy quyền tự do độc lập".

Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhấn
mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta, đồng thời chỉ rõ trong những
hoàn cảnh nhất định thì "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn". Đi từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa là một điển hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận Mác Lênin về khởi nghĩa vũ trang.
Trung ương Đảng khẳng định muốn gây cuộc khởi nghĩa bằng võ trang phải nhằm vào các điều kiện chủ quan:
1- Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc.
2- Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy sinh bước vào con
đường khởi nghĩa.
3- Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực điểm vừa về kinh tế, chính trị lẫn
quân sự.
4- Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Tàu đại thắng quân Nhật, cách
mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng
các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương.
Với nghệ
.


Ðể đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám, có ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng ta: đó là
các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối
giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào
kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn quốc tháng 8-1945.
+Các Hội nghị Trung ương Ðảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung ương (5-1941) đã đề
ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
-Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương 111939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên". "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương
không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da
trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập"
+Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc len hang đầu; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu
ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng; thay khẩu hiệu lập

chính quyền Xô viết công – nông – binh bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hòa.
+ Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ
chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp
pháp.
+ Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương,
nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc.
+ Ý nghĩa: Đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng, dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đưa nhân
dân bước vào giai đoạn trực tiếp vận động cứu nước.
-Hội nghị Trung ương tám do Hồ Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta" . "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận,
của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" . Giải quyết mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn
mạnh là nhiệm vụ “bức thiết nhất”; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu
hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công.
+ Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín
ngưỡng.
+ Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng
toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có đủ điều kiện chủ quan, khách
quan và phải nổ ra đũng thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa.
– Ý nghĩa:
+ Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 11/1939.
+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10 – 1930.
- Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và lựa
chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Ðông Dương thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của
Việt Nam đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ dân tộc Việt
Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận

được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Ðảng lãnh đạo Mặt trận
bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các
đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể.
-Ba là, Ðảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn
(27-9-1940), Ðảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa
Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực
tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng chính trị của
quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó
phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực
hiện ở vùng căn cứ địa cách mạng.
-Bốn là, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung
tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đã chủ trương: dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách
mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết


liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể "lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc
tổng khởi nghĩa to lớn" (5).
+Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới, âm mưu
thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt,
chú trọng công tác xây dựng Ðảng để Ðảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo thành công cách mạng
giải phóng dân tộc.
+Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đã phát
triển mạnh mẽ, Ðảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm võ khí đuổi thù
chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải
phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh. Người chỉ thị
thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944).
-Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Ðông Dương.
Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta (12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là Ðánh đuổi

phát-xít Nhật. Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa. Ðây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và
đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích
thời cơ cách mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín
muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không rảnh tay đối phó
với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm ghét quân cướp nước; chiến tranh thế giới
đến giai đoạn quyết liệt; Ðồng minh sẽ đổ bộ vào Ðông Dương để đánh Nhật. Ðó là sự vận dụng tư
tưởng của Mác và Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều
kiện để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đã là định hướng quan trọng để các đảng bộ địa
phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị còn chủ trương phá kho thóc gạo của
đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải
phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng).
- Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng 4-1945 các lực lượng vũ
trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng
Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam mới. Tổ
chức Việt Minh phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà phong
trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, học sinh, sinh viên trí thức. Theo tư
tưởng của Ðề cương văn hóa 1943 của Ðảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo các nhà
văn hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc.
-Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã diễn
ra Hội nghị toàn quốc của Ðảng họp ngày 14 và 15-8-1945. Hội nghị của Ðảng họp ở thời điểm lịch sử
phong trào cách mạng của toàn dân ta diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều
kiện (15-8). Ðảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" (6). Mục đích cuộc chiến
đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập
trung -tập trung lực lượng vào những việc chính; b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân
sự, chính trị, hành động và chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu
tranh của Ðảng là Phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị Ðảng toàn
quốc công bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập" (7).
-Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta phải hành động cho

nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về
ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho
vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(8).
- Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành
mười chính sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch. Thường trực Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn
Lương Bằng, Dương Ðức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban dân tộc giải phóng là tổ
chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nghị quyết của Quốc dân Ðại hội nhấn mạnh
mục tiêu: "Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn
toàn độc lập"(9).


-Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28-8-1945,
nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên
quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng
lợi. Khi nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Ðảng, cần phải thấy rõ tinh thần trách nhiệm cao, sự năng
động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy, tỉnh ủy, huyện ủy và tổ chức đảng
ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa
xôi, điều kiện liên lạc khó khăn đã thể hiện điều đó. Vai trò của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến
cơ sở, của các đảng viên kiên trung của Ðảng, từ người lãnh đạo cao nhất đến người đảng viên ở cơ sở,
đã bảo đảm cho Ðảng sự lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất ở giờ phút quyết định của lịch sử.



×