Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vấn đề về đại diện trong bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.04 KB, 22 trang )

Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Nội dung
I. Khái niệm về đại diện

3

1. Người đại diện

3

2. Người được đại diện

3

II. Phân loại đại diện

5

1. Đại diện theo pháp luật

6

2. Đại diện theo ủy quyền

8

3. Sự khác nhau giữa các loại đại diện

10



III. Phạm vi đại diện

11

1. Phạm vi đại diện

11

2. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện hoặc vượt quá
phạm vị đại diện thực hiện.

12

IV. Chấm dứt đại diện

14

V. Kết luận

16

1


Lời mở đầu
Bộ luật dân sự năm 2015 đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII
ngày 24-11-2015, gồm 27 chương, 689 điều. Bộ luật có hiệu lực từ ngày
01/01/2017, thay thế Bộ luật Dân sự năm 2005. Bộ luật đã có nhiều bổ sung chỉnh
sửa để phù hợp hơn với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Vấn đề về “đại

diện” bộ luật đã có một số sửa đổi, bổ sung các quy định về đại diện nhằm tạo điều
kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ các
quyền dân sự của mình và hạn chế rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân sự.

2


Vấn đề đại diện trong bộ luật dân sự 2015

I.

Khái niệm

Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân
danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân
sự năm 2015)
Vậy nên có thể được xác định đại diện như là một quan hệ pháp luật.Chủ thể của
quan hệ pháp luật này bao gồm : “người đại diện” và “người được đại diện”.

1.

Người đại diện

Người người đại diện sẽ là người thay mặt cho người được đại diện đứng ra xác lập
quan hệ với người thứ ba nhắm mang lại lợi ích cho người được đại diện (ví dụ như
giám đốc người đại diện của công ty A sẽ thay mặt công ty A ký kết một hợp đồng
mua bán đúng theo quy định của pháp luật nhằm mang lợi ích cho công ty A).
Người đại diện phải thực hiện đúng thẩm quyền của mình cũng như tiếp nhận và
gánh chịu các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện đã xác lập theo quy

định của pháp luật.
Người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.
3


2.

Người được đại diện

Người được đại diện có thể là người không có năng lực hành vi (trẻ em dưới 6
tuổi), người chưa đủ năng lực hành vì phải có người đại diện.
Điều 21. Người chưa thành niên
2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật
của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản
phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại
diện theo pháp luật đồng ý.
Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện
theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.

4


Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa
án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật
liên quan có quy định khác.

(Bộ luật dân sự 2015)
Các chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi có thể ủy quyền cho chủ thể khác là người
đại diện của mình, một ví dụ khá phổ biến cho những trường hợp này như là: người
quản lý của các ca sĩ, cầu thủ,… họ sẽ thay mặt người được đại diện thực hiện kí
kết hợp đồng biểu diễn, quảng cáo…hoặc phát ngôn hay thậm chí là giải quyết
những vấn đề liên quan đến pháp luật mà người được đại diện có liên quan .
Các chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều phải hoạt động thông qua
hành vi của người đại diện, các thành viên có thể thỏa thuận cử người đại diện tham
gia, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự vì lợi ích chung. Việc xác lập có thể do ý chí
của chủ thể tham gia (như ví dụ về những đại diện của cầu thủ và ca sĩ) được thể
hiện bằng giấy hoặc hợp đồng ủy quyền mà cũng có thể xác định theo quy định của
pháp luật.
II.

Phân loại đại diện

Điều 135 luật dân sự 2015 : căn cứ xác lập quyền đại diện
Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại
diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau

đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).
5


1.

Đại diện theo pháp luật

Theo điều 140 BLDS 2005 thì “Đại diện theo pháp luật” là người tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật.
Nhưng trong bộ luật dân sự 2015 lại không được đề cập tới khái niệm trên mà cụ
thể hóa “đại diện pháp luật” bằng cách giải thích chi tiết và tách riêng quy định về
đại diện theo pháp luật của cá nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
a)

Đại diện pháp luật của cá nhân

Căn cứ vào:
Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân
1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được
Tòa án chỉ định.
3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Việc xác lập đại diện trên do pháp luật quy định. Người được đại diện không có
quyên lựa chọn. Đối với người đại diện là cha mẹ theo khoản 1 điều 136 BLDS
2015, thì người đại diện được xác lập và thực hiện những giao dịch dân sự của

người được đại diện chưa đủ 6 tuổi, người được đại diện từ 6 tuổi đến chưa đủ 15
tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự cần phải được người đại diện đồng ý,
6


trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người được đại diện từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản,
động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý, căn cứ dựa trên điều 21 BLDS 2015.
Đối với người được đại diện là người mất năng lực hành vi dân sự thì việc xác lập,
thực hiện hành vi pháp lý của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật thực hiện.
Còn với người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật
của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Việc xác lập,
thực hiện hành vi pháp lý liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ hành vi nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Được quy định rõ trong điều 24 BLDS
2015.

Ngoài ra còn một số các trường hợp không xác định có thể lấy ví dụ như là: “ khi
có tranh chấp trong một vụ việc dân sự khẩn cấp như là quyết định một lô hàng có
hạn sử dụng ngắn ngày mà không có người chịu trách về lô hàng đó có thể tòa án
có thể cử ra một người đại diện sao cho vụ việc diễn ra một cách công bằng nhất”
b)

Người đại diện pháp luật của pháp nhân


Đầu tiên, theo điều 74 BLDS 2015 thì :
1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
7


a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật
có quy định khác.
Cũng như đối với cá nhân thì người đại diện của pháp nhân cũng nhân danh và vì
lợi ích của pháp nhân được đại diện xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Mọi hoạt
động của pháp nhân được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện của pháp
nhân. Đại diện của pháp nhân là người nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch
vì lợi ích của pháp nhân đó. Người đại diện của pháp nhân do pháp luật hoặc Điều
lệ của pháp nhân quy định và họ có thể ủy quyền lại cho người khác. Với tư cách là
người đại diện của pháp nhân, hành vi của người đại diện vì lợi ích của pháp nhân
và trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được pháp nhân giao là hành vi của pháp
nhân mà người đó đại diện, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân chứ
không phải của bản thân người đại diện. Ý chí của các thành viên pháp nhân được
thể hiện thống nhất thông qua người đại diện.

Theo điều Điều 137. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

8


2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại
diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của
Bộ luật này.

2.

Đại diện theo ủy quyền

Trong thực tế xuất hiện nhiều trường hợp mà cá nhân, pháp nhân không thể trực
tiếp tham gia, thực hiện các giao dịch dân sự. Vì vậy, pháp luật tạo điều kiện để họ
có thể ủy quyền cho một người khác.
Theo khoản 1 điều 138 BLDS 2015 thì : “Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho
cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.”
Người được đại diện bằng ý chí của mình yêu cầu người đại diện thay mặt mình
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Bên ủy quyền là cá nhân thì phải có đầy đủ các
điều kiện do luật định. Nếu bên ủy quyền là pháp nhân thì việc ủy quyền phải thông
qua hành vi ủy quyền của pháp nhân đó.
Người đại diện thay mặt người người được đại diện thực hiện những giao dịch với
một bên thứ ba. Người đại diện theo ủy quyền có thể là cá nhân từ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi, trừ những giao dịch mà pháp luật quy định phải do người từ 18 tuổi trở
lên xác lập, thực hiện.
Nghĩa vụ, phạm vi đại diện theo ủy quyền được cả hai bên xác định theo nội dung
ủy quyền trên giấy ủy quyền hoặc hợp đồng đại diện.
Ngoài ra, bộ luật dân sự 2015 thêm quy định sau bên cạnh các quy định đã được
nêu tại BLDS 2005:
Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có
thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực

hiện GDDS liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác,
9


tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. Nhằm tạo điều kiện pháp lý tốt hơn
trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự của
mình và hạn chế rủi ro pháp lý. Qua đó có thêm hình thức để tham gia vào giao
dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, đảm bào lợi ích về cả vật chất lẫn tinh thần của
các bên chủ thể.
Tuy nhiên, đối với đại diện theo ủy quyền do tính chất tự nguyện thỏa thuận của
các bên tham gia giao dịch, chế định ủy quyền đang bị lạm dụng rất nhiều, thậm chí
vượt quá khả năng cho phép của chế định ủy quyền mà theo luật định cũng như nội
hàm ý nghĩa của ủy quyền. Mục đích của việc lạm dụng này có thể nhằm che giấu
một giao dịch có thật, hợp thức hóa để thực hiện một số thủ tục hành chính có liên
quan, hoặc đôi khi nhằm đem lại cho một bên chủ thể cảm giác “yên tâm” để đảm
bảo quyền lợi của mình. Vì vậy, cần phải hết sức lưu ý trong quan hệ ủy quyền đai
diện.

3.
a)

Sự khác nhau giữa các loại đại diện
Về cơ sở hình thành

Đại diện theo pháp luật được hình thành từ những quy định của pháp luật hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Còn đại diện theo ủy quyền thì
được xác lập theo ủy quyền, theo thỏa thuận ý chí giữa người đại diện và người
được đại diện.
b)


Về chủ thể

Nếu người được đại diện của đại diện theo pháp luật là những cá nhân như chưa vị
thành niên, bị hạn chế năng lực hành vi, khó khăn trong việc nhận thức hành vi
hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì người được đại diện của đại diện theo ủy
quyền chỉ là những cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự (trừ trường hợp
pháp luật quy định khác)
10


Nếu cá nhân của đại diện theo pháp luật là những người có đủ năng lực hành vi dân
sự thì cá nhân trong đại diện theo ủy quyền có thể là người từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền (trừ trường hợp pháp luật quy
định giao dịch dân sự do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập và thực hiện.
c)

Về phạm vị đại diện

Người đại diện của đại diện theo pháp luật được xác lập, thực hiện mọi những giao
dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện (trừ các trường hợp pháp luật quy
định khác). Tuy nhiên, người đại diện của đại diện theo ủy quyền chỉ được xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự như trong hai bên đã thỏa thuận trong giấy ủy quyền
hoặc hợp đồng đại diện.
d)

Về hình thức

Hình thức của đại diện theo ủy quyền là hai bên thỏa thuận, một số trường hợp theo
luật định thì việc ủy quyền phải làm trên văn bản. Đại diện theo pháp luật có hình
thức dựa trên các quy định của pháp luật, quyết định của cơ quanh nhà nước có

thẩm quyền hay có thể là theo điều lệ của pháp nhân.
III.

1)

Phạm vi đại diện

Phạm vi đại diện

Có thể hiểu phạm vi đại diện là giới hạn quyền và nghĩa vụ của người đại diện nhân
danh người được đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự đối với người thứ
ba để mang lại các quyền và lợi ích cho người được đại diện. Các quyền hạn này
quy định, nội dung, phạm vi và chức năng của người đại diện. Trường hợp mà
người đại diện không có hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện thì về nguyên tắc
người đại diện phải tự chịu trách nhiệm được quy đinh trong điều 142, 143 BLDS
2015.
11


Việc xác định phạm vi đại diện có những ý nghĩa to lớn sau đây:
Thứ nhất, về nguyên tắc “Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ: quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều
lệ của pháp nhân ; nội dung ủy quyền; quy định khác của pháp luật.” theo khoản 1
điều 141 BLDS 2015. Tức là khi có các căn cứ trên thì người đại diện mới có thẩm
quyền đại diện cho người được đại diện. Theo khoản 2 cũng trong điều 141 thì
“Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản
1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao
dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.” Việc xác lập quan hệ đại diện này thường không phụ thuộc vào ý chí
của người được đại diện. Trong trường hợp đại diện cho người bị hạn chế hoặc khó

khăn trong việc nhân thức làm chủ hành vi dân sự có một số nét khác biệt riêng.
Người đó sẽ vẫn trực tiếp tham gia vào các giao dịch kí kết hợp đồng nhưng với sự
chấp thuận của người được đại diện. Khi đó người đại diện ở đây chỉ đóng vai trò
giám sát, đồng ý hay không đồng ý cho việc xác lập giao dịch dựa trên căn cứ là tại
thời điểm xác lập giao dịch người được đại diện có làm chủ được nhận thức đầy đủ
hành vi của mình hay không . Ngoài ra, nếu giao dịch đó ảnh hưởng đến những
người thân thích trong gia đình của người đại diện thì người đại diện không được
cho phép xác lập và thực hiện giao dịch đó.
Thứ hai, phạm vi đại diện còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một số giao
dịch do người đại diện xác lập thực hiện.
Theo khoản 3 điều 141: “Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân
hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình
cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
12


Ví dụ như là Ông B đại diện cho ông A giao dịch bán một chiếc xe máy mà chính
ông B là người mua, vậy một mình ông B xe ở cả hai phía trong một mối quan hệ.
Liên quan đến vấn đề này thì đối với những cá nhân mất năng lực hành vi, hạn chế
hay khó khăn hành vi sẽ được pháp luật quyết định người đại diện để bảo vệ quyền
và lợi ích của họ.
2) Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện hoặc vượt

quá phạm vị đại diện thực hiện.
Về nguyên tắc, giao dịch dân sự do người đại diện xác lập và thực hiện chỉ phát
sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện nếu trong phạm vi đại diện, vì giao
dịch được thực hiện phù hợp với ý chí và lợi ích của người được đại diện.
Nếu giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiên không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện. Tuy nhiên, nếu sau đó có sự

chấp thuận của người được đại diện thì giao dịch đó vẫn mang lại quyền và nghĩa
vụ của giao dịch. Ngoài ra, nếu người đại được đại diện biết mà không phản đối
trong thời gian hợp lý hoặc người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao
dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự với mình không có quyền đại diện thì giao dịch phát sinh.
Trong trường hợp người được đại diện không chập nhận hợp đồng giao dịch do
người không có thẩm quyền đại diện ký kết thì mặc dù hợp đồng không có giá trị
đối với người được đại diện nhưng giá trị của hợp đồng đã ký kết có giá trị thi hành
hay không lại phụ thuộc vào người đã kí kết hợp đồng với người không có quyền
đại diện trên. Nếu người kí kết biết hoặc phải biết về việc người không có thẩm
quyền đại diện thì trường hợp này hợp đồng bị vô hiệu bởi đó là sự cố ý của hai
bên. Còn nếu người kí kết hợp đồng không có căn cứ để biết hoặc không thể biết
thì có thể giải quyết như sau:
13


-

Chấp nhận giao dịch đã được xác lập với người không có thẩm quyền đại
diện và có quyền yêu cầu người không có thẩm quyền đại diện thực hiện

-

nghĩa vụ trong hợp đồng với mình.
Có quyền đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi
thường nếu có thiệt hại xảy ra.

Nếu giao dịch đã thực hiện vượt quá phạm vi của người đại diện thì người được đại
diện sẽ không chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của phần vượt quá đó. Tuy
nhiên, nếu có sự đồng ý của người được đại diện thì giao dịch này vẫn có giá trị với

người đại diện đó. Hoặc tương tự như người không có quyền đại diện xác lập giao
dịch dân sự thì trường hợp người được đại diện biết mà không phản đối trong một
thời hạn hợp lý hoặc người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch
không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
với mình vượt quá phạm vi đại diện thì giao dịch vẫn sẽ phát sinh quyền và nghĩa
vụ với người được đại diện.
Đối với người đại diện đã ký kết hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện thì vẫn phải
chịu trách nhiệm về phần vượt quá với cả người đã ký kết hợp đồng trong trường
hợp họ không đủ cơ sở để biết hoặc không thể biết. Lúc này cũng giải quyết tương
tự như đối với người không có thẩm quyền đại diện là:
-

Yêu cầu người đại diện thực hiện nghĩa vụ về phần vượt quá.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần
vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch và yêu cầu bột thường thiệt
hại.

Trường hợp người giao dịch đã biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vị đại
diện mà vẫn xác lập thì hợp đồng bị vô hiệu, nếu gây ra thiệt hại cho nhười được
đại diện thì người đại diện và người ký kết phải chịu trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
14


Vấn đề về hậu quả pháp lý về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có
quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vị đại diện thực hiện được quy định rõ trong
điều 142 và 143 BLDS 2015. Trong thực tế, việc xác lập quyền đại diện của người
được đại diện đối với người được đại diện đã nảy sinh nhiều vấn đề mà cần các bộ
luật dân sự điều chỉnh. Việc tìm hiểu rõ vượt qua thẩm quyền là gì và không có
thẩm quyền là gì sẽ là cơ sở để hiểu rõ bản chất của hai khía cạnh này, từ đó có thể

phân tích cặn kẽ hậu quả pháp lý của chúng giúp ngăn ngừa và loại trừ những giao
dịch dân sự được xác lập, thực hiện có thể đem lại hậu quả bất lợi cho người được
đại diện.

IV.

Chấm dứt đại diện

Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ đại diện không tồn tại mãi
mãi. Nó chấm dứt khi xảy ra những sự kiện pháp lý nhất định. Khi chấm dứt đại
diện, mọi hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện đều không có giá trị pháp lí đối với người được đại diện. Tuy nhiên, trong
bộ luật 2015 các điều luật về “ chấm dứt hợp đồng” đã bị lược bỏ.
Xét trong BLDS 2005:
Điều 147. Chấm dứt đại diện của cá nhân
1. Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi
phục;
b) Người được đại diện chết;
c) Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Đại diện theo uỷ quyền của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hạn uỷ quyền đã hết hoặc công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;

15


b) Người uỷ quyền huỷ bỏ việc uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền từ chối việc
uỷ quyền;
c) Người uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

Khi chấm dứt đại diện theo uỷ quyền, người đại diện phải thanh toán xong các
nghĩa vụ tài sản với người được đại diện hoặc với người thừa kế của người được
đại diện.
Điều 148. Chấm dứt đại diện của pháp nhân
1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt.
2. Đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hạn uỷ quyền đã hết hoặc công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;
b) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân huỷ bỏ việc uỷ quyền hoặc người
được uỷ quyền từ chối việc uỷ quyền;
c) Pháp nhân chấm dứt hoặc người được uỷ quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã
chết.
Khi chấm dứt đại diện theo uỷ quyền, người đại diện phải thanh toán xong các
nghĩa vụ tài sản với pháp nhân uỷ quyền hoặc pháp nhân kế thừa.

Đối với người đại diện là pháp luật họ bảo vệ lợi ích của người được đại diện. Vậy
nên khi lợi ích của họ đã được đảm bảo thì đại diện sẽ tự động chấm dứt. Vì dụ như
người đã vị thành niên, người bị tòa tuyên mất năng lực hành vi với sự tiến bộ của
y học họ trở lại bình thường, … Hay đối với đại diện của cá nhân, pháp nhân việc
chấm dứt hợp đồng được quy định hết trong trong hợp đồng đại diện hoặc giấy ủy
quyền. Vì vậy, việc quy định “chấm dứt đại diện” trong BLDS 2015 là không cần
thiết nữa vì vậy các nhà làm luật đã lược bớt phần này.

16


Ngoài ra trong bộ luật dân sự 2015 thời hạn đại diện được đề cập cụ thể hốn với
thời hạn đại diện – trước đây, BLDS 2005 không quy định vấn đề này:
- Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ
quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định pháp luật.

- Trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo quy định trên thì thời hạn
đại diện được xác định như sau:
+ Nếu quyền đại diện được xác định theo GDDS cụ thể thì thời hạn đại diện được
tính đến thời điểm chấm dứt GDDS đó.
+ Nếu quyền đại diện không được xác định với GDDS cụ thể thì thời hạn đại diện
là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.

V.

Kết luận

Hiện nay, với sự tiến bộ không ngừng của kinh tế xã hội, đòi hỏi những mối mối
giao lưu dân sự ngày càng mở rộng, theo đó những vấn đề liên quan đến đại diện
cũng sẽ được quan tâm ngày càng nhiều và nó có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn
quan hệ pháp luật dân sự. Đại diện là một công cụ pháp lý không chỉ giúp các chủ
thể thực hiện một cách linh hoạt và hiệu quả quyền và nghĩa vụ của mình mà còn
giúp nâng cao hơn ý thức pháp luật.
-

Ngoài những cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể tham gia vào
giao dịch dân sự theo điều 117 BLDS 2015 thì còn nhiều đối tượng khác
như: người chưa vị thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế trong việc nhân thức làm
chủ hành vi, những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng gặp hoàn
cảnh bất lợi nào đó. Họ cũng có nhu cầu tham gia vào các giao dịch dân sự,
đời sống xã hội,… Nhưng những hạn chế về nhận thức và hoàn cảnh đã cản
17


trở họ. Nhưng thông qua chế định “đại diện” pháp luật đã tạo ra những điều

-

kiện thuận lợi nhằm hỗ trợ giúp đỡ và bảo vệ lợi ích của họ.
Đối với pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình là những chủ thể quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội. Những giao dịch mà các chủ thể trên tham gia ngaỳ
một đa dạng hơn và phong phú hơn, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có
những thay đổi để phù hợp hơn với những đổi mới. Bộ luật dân sự 2015 đã
đáp ứng được điều đó, với việc quy định rõ hơn điều kiện của một tổ chức
được công nhận là pháp nhân, quy định rõ ràng bên đại diện có thể là cá nhân
hoặc pháp nhân, phân định rạch ròi giữa pháp nhân thương mại và pháp nhân
phi thương mại,… đã giúp các chủ thể dễ dàng giải quyết các khúc mắc
trước đây mà BLDS 2005 chưa giải quyết được và có thể xác lập giao dịch
theo ý muốn một cách rõ ràng hơn.

Đại diện là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho các giao dịch dân sự một cách an
toàn và hiệu quả trong việc lưu thông dân sự đang ngày càng phát triển như hiện
nay. Vì vậy, việc đặt ra các chế định, quy định phù hợp với thực tiễn là một xu
thế tất yêu hiện nay để có thể xây dựng một ngành luật dân sự nói riêng và các
ngành khác nói chung ngày càng hoàn chỉnh.

18


Danh mục tài liệu tham khảo:
-Giáo trình Luật dân sự Việt Nam –ĐH Kiểm Sát Hà Nội- NXB Chính trị quốc
gia
- Giáo trình Luật dân sự Việt Nam-ĐH luật
-Giáo trình hướng dẫn luật dân sự-NXB tư pháp
-Bộ luật dân sự 2005 và 2015
-Bài viết “Toàn bộ điểm mới của Bộ luật dân sự 2015” có tại

/>tabid=156&ctl=ViewNewsDetail&mid=560&NewsPK=321
-Bài viết “Ủy quyền và những điểm cần lưu ý” có tại:
/>19


-Bài viết “ Tiểu luận Vấn đề đại diện trong pháp luật dân sự” có tại:
/>-Bài viết”Đại diện trong quan hệ luật dân sự và ý nghĩa” có tại
/>Chân thành cảm ơn thầy, cô đã đọc tiểu luận và mong thầy, cô có những
nhận xét đánh giá để bài viết hoàn thiện hơn.

20


21


22



×