Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chức năng của tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.59 KB, 14 trang )

Mục lục
Lời mở đầu

Trang

Nội dung
I. Khái quát chung về Tòa án nhân dân

1

II. Chức năng của Tòa án

1

III. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam

8

trong giai đoạn hiện nay.
IV. Giải pháp

11

V. Kết luận

12

1


Lời mở đầu


Trong bối cảnh Việt Nam đang trong công cuộc đổi mới toàn diện nhằm xây dựng
một đất nước phát triển không còn đói, nghèo, hội nhập, xây dựng một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ tự do, năng động với nhiều thành phần kinh
tế khác nhau. Vì vậy, việc nảy sinh những tranh chấp hoặc xuất hiện những trường
hợp vi phạm là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên việc góp phần đảm bảo tính ổn
định phát triển đất nước bên cạnh việc xây dựng một môi trường pháp lý thông
thoáng, lành mạnh và tiến bộ thì việc hoàn chỉnh, đồng bộ và thống nhất hệ thống
Tòa án từ trung ương đến địa phương là vô cùng cần thiết. Đặc biệt là chức năng
xét xử của hệ thống Tòa án sẽ quyết định tính hiệu quả của nó. Vậy nên dưới đây
là những phân tích về nội dung chức năng xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 và đánh giá thực trạng hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2


I.

Khái quát chung về Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan hợp thành bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại điều 2 Hiến pháp 2013 quy định:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tòa án
nhân dân có vị trí là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, khi xét
xử Tòa án có trách nhiệm áp dụng đúng đắn pháp luật nhà nước, không bị rằng
buộc bởi tác động nào, các cơ quan nhà nước khác. Qua các bản hiến pháp vị trí, tổ
chức của Tòa án nhân dân ngày một rõ ràng và phù hợp hơn. Tòa án nhân dân
được quy định tại chương VIII hiến pháp 2013 kế thừa những nội dung của hiến
pháp năm 1992 đồng thời có những sửa đổi bổ sung quan trọng về Tòa án đã đáp

ứng được yêu cầu của một nhà nước pháp quyền, dùng pháp luật để bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp 2013 đã tạo ra những triển vọng
đồng thời cũng tạo ra những thách thức trong công cuộc cải cách tư pháp.
II.

Chức năng của Tòa án
3


Nói đến chức năng của Tòa án nhân dân cũng như của các cơ quan nhà nước khác
là xác định ra phương diện hoạt động của các cơ quan nhà nước đó. Đối với Tòa án
nhân dân có nhiều hoạt động khác nhau nhưng hoạt động chủ yếu vẫn là xét xử.
Theo điều 102 hiến pháp 2013:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Theo khoản 2 ở trên có thể thấy quy định này thể hiện rõ tinh thần bảo vệ quyền
con người, quyền công dân trong hiến pháp 2013. Không chỉ ở Việt Nam mà con ở
nhiều nước trên thế giới Tòa án được coi là một thiết chế trung tâm, đóng vai trò
quan trọng trong việc xét xử các vi phạm quyền con người quyền, quyền công dân.
Đây là nơi mọi người sẽ tìm được lẽ phải và sự thật, Tòa án chính là biểu tượng
của công lý.
Như vậy có thể thấy Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành trính và
giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm Tòa án thực
sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người thì
Tòa án là cơ quan trung gian giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Trong đó, bên gỡ tội

gồm luật sư bào chữa, bị can, bị cáo và buộc tội là cơ quan thực hiện quyền công
tố. Cụ thể đó là cơ quan điều tra , viện kiểm sát nhân dân , trong một số vụ án cụ
thể thì người bị hại cũng là bên buộc tội. Trong đó bên buộc tội sẽ đưa ra những
căn cứ để truy tố, buộc tội còn bên gỡ tội sẽ đưa ra các chứng cứ các lập luận, minh
chứng chứng minh lập luận của mình là đúng. Tòa án nhân dân sẽ là cơ quan trung
gian và phải lắng nghe cả hai bên không thể thiên vị bên nào, nếu bên nào chứng
4


cứ thuyết phục hơn thì Tòa án nhân dân sẽ phán quyết theo bên đó. Như vậy, việc
xét xử của Tòa án nhân dân đóng vai trò quyết định khi giải quyết các vụ việc pháp
lí.
Sau đó toà án sẽ ra phán quyết bằng một bản án, sau khi đã xem xét kĩ càng, khách
quan và toàn diện các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong quá trình điều tra
và các lập luận chứng minh của bên gỡ tội đưa ra. Cụ thể hóa quy định các quy
định ở điều 102 hiến pháp 2013 là khoản 2 điều 2 luật tổ chức Tòa án năm 2014
quy định “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy
đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố
tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có
tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền
và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.”
Việc xét xử của Tòa án nhân dân được tiến hành theo một trình tự thủ tục nhất
định, các thủ tục này được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng
dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, hành chính. Những trình tự
thủ tục này diễn ra một cách hết sức chặt chẽ giúp đảm bảo cho việc xét xử của
Tòa án được diễn ra một cách khách quan, công bằng đồng thời hạn chế và khắc
phục những sai sót trong qua trình xét xử. Trong một số trường hợp, nếu bên buộc
tội đưa ra những chứng cứ còn yếu, thiếu thuyết phục thì Tòa có quyền trả hồ sơ,

yêu cầu điều tra lại, điều tra bổ sung hoặc có thể Tòa tự điều tra độc lập nếu thấy
cần thiết để tránh oan sai và đảm bảo tính khách quan trong giải quyết vụ án.
Chính vì các lẽ nêu trên, nên trong tố tụng hình sự, Tòa án không thể vừa là cơ
quan buộc tội vừa kết tội được.

5


Nếu vi phạm những quy định trong những văn bản trên, phiên Tòa có thể bị kháng
cáo kháng nghị và người cố tình vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Trong một số trường hợp, sau khi các cơ quan nhà nước khác đã giải quyết, nhưng
các đương sự không thỏa mãn và gửi đơn khiếu lại đến Tòa án nhân dân và Tòa án
nhân dân sẽ tiến hành xét xử và quyết định của Tòa án có thể thay đổi quyết định
trước. Khi bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Căn cứ vào điều 2 luật tổ chức TAND năm 2014 thì để hỗ trợ cho việc xét
xử thì Tòa án có quyền:
-

Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ,

-

tạm đình chỉ vụ án;
Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan
điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị


-

can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp;
Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu
cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác

-

minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các
vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên Tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát

-

hiện có việc bỏ lọt tội phạm;
Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.

Ngoài ra, Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tư pháp trong một số lĩnh vực dưới
đây:

6


-

Xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con

-


người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.
. Ra quyết định thi hành bản án hình sự, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, xóa
án tích, miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách
nhà nước; thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật hình sự,

-

Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự.
Ra quyết định hoãn, miễn, giảm, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp xử lý
hành chính do Tòa án áp dụng và thực hiện các quyền hạn khác theo quy

-

định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan
có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết
quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ
sở để Tòa án giải quyết vụ án.

Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động áp dụng pháp luật, nhưng hoạt
động này mang chính sách và khoa học bởi vì khi xây dựng pháp luật các nhà làm
luật không thể dự liệu hết tất cả những hành vi, hoàn cảnh, tình tiết… Các thẩm
phán và hội thẩm phải áp dụng một cách sáng tạo, ngoài ra cần nghiên cứu kĩ, toàn
diện điều kiện khách quan có liên quan đến những vụ án cụ thể, lựa chọn những
quy phạm pháp luật phù hợp, phân tích và làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của các

quy phạm pháp luật đối với tùng vụ án một cách hợp tình hợp lí, áp dụng các quy
phạm pháp luật một cách đúng đắn.

7


III.

Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.

Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy mô hình tố tụng tại phiên Tòa
của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các chứng cứ, tình tiết
của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên
Tòa và trên cơ sở đó, hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán
quyết đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng của những phiên Tòa xét
xử đã được nâng cao, việc án oan sai cũng có thể nói là đã giảm. Trước đây, khi
chưa có luật tổ chức Tòa án năm 2014 thì Toà án của nước ta được tổ chức theo
đơn vị hành chính: Toà án tối cao, Toà án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện. Với quy
định tổ chức toà án thành 3 cấp và trải đều trên tất cả các tỉnh của đất nước vô hình
trung đã tạo ra một thực trạng có nơi toà án quá tải, có nơi toà án không có việc
làm. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của toà án còn chịu sự chi phối của cấp
chính quyền tương đương và của cấp uỷ Đảng. Điều đó làm cho nguyên tắc đề cao
và tuân thủ triệt để tính độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử chưa được
bảo đảm. Nhưng hiện nay khi bộ luật tổ chức Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thì
Tòa án nhân dân được tổ chức gồm 4 cấp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính theo Điều 5 luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Ngoài ra, trước đây ở Tòa án nhân dân cấp cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm
bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ rất quan trong khác là việc giám đốc việc xét xử
của các Tòa án khác, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật xét xử đốc thẩm, tái thẩm quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức,
do đó sức ép công việc của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp huyện
của các thành phố lớn là không hề nhỏ. Nhưng hiện nay khi đã có thêm sự xuất
hiện của Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức quy

8


định tại điều 29 đến 36 tại bộ luật này đã giảm áp lực công việc cho Tòa án nhân
dân tối cao khiến việc xét xử hiện nay trở nên khách quan và chính xác hơn.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì thực trạng xét xử ở Việt Nam vẫn còn
một số điểm tiêu cực:
Thứ nhất, theo nguyên tắc các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử thì các Tòa án có quyền xét xử độc lập, không chịu sự chỉ đạo, lãnh
đạo của bất kỳ Tòa án nào về nghiệp vụ xét xử đối với mỗi vụ án, vụ việc cụ thể
mà việc xét xử phải độc lập cà chỉ tuân theo pháp luật. Nhưng thực tế cho thấy,
nhiều Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập.Và vẫn còn việc báo cáo
án và nhận sự định hướng xét xử từ lãnh đạo. Ngoài ra, Tòa án nhân dân cũng có tổ
chức Đảng, thực hiện việc sinh hoạt đảng với các tổ chức Đảng của địa phương.
Đảng viên phải phục tùng mệnh lệnh của tổ chức, vì thế việc xét xử khó tránh khỏi
bị định hướng, khó chỉ tuân theo pháp luật được.
Thứ hai, vẫn còn một số trường hợp, bản án quyệt định của Tòa án không rõ ràng
có sai xót về số liệu, Trưởng thi hành án có văn bản yêu cầu giải thích, đính chính
nhưng Tòa án trả lời không kịp thời, cá biệt là trường hợp không trả lời, làm cho
việc thi hành án có lúc có nơi còn tồn đọng, ảnh hưởng đến thi hành án và quyền
lợi của đương sự.
Thứ ba, Tòa án nhân dân ngoài nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền công dân, quyền
con người thì còn có nhiệm vụ đó là giáo dục công dân trung thành với tổ quốc ,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,… tuy nhiên thì nhiệm vụ giáo dục của Tòa án
vẫn còn khá mờ nhạt nên việc phối hợp khiếu nại, tố cáo đối với công tác thi hành

án dân sự gặp nhiều khó khăn do đương sự chưa nắm bắt đầy đủ những quy định
của pháp luật.

9


Thứ tư, theo nguyên tắc hiến định, một người chưa bị coi là có tội khi chưa có bản
án có hiệu lực của TAND có thẩm quyền vẫn chưa được thực hiện. Chỉ mới bị tạm
giam, tạm giữ, bị khởi tố, quyền lợi của người đó đã bị xâm hại nghiêm trọng: đã
bị báo chí, mọi người gọi là thằng nọ, con kia; bị khai trừ khỏi đảng, cách chức vụ,
đuổi việc; bị bắt phải mặc áo tù. Trong khi, nhiều trường hợp, kết quả xét xử là vô
tội. Các quyền lợi bị xâm phạm của họ cũng không được phục hồi như cũ.

Thứ năm, chế định hội thẩm nhân dân là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”,
bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của
Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân và khi xét xử hội
thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. Tuy nhiên, chế định này mới chỉ dừng
lại ở mức độ như khẩu hiệu và thực tế có sự phân biệt khá lớn về cả vật chất và phi
vật chất. Hội thẩm dù có trình độ chuyên môn riêng và được coi là “người đem hơi
thở của cuộc sống, ý kiến của người dân vào trong quá trình phán quyết các bản
án” nhưng còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp luật.
Trong khi pháp luật đòi hỏi thẩm phán phải có tiêu chuẩn cao về chuyên môn,
nghiệp vụ thì tiêu chuẩn của hội thẩm qua nhiều năm vẫn .. y nguyên, chung chung
kiểu “có kiến thức pháp lý” và “phải được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ”.
Hiện nay hội thẩm nhân dân còn chủ yếu là công việc kiêm nhiệm, cơ cấu hội thẩm
theo từng lĩnh vực (như giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, tài chính, hưu trí…).
Khi có các vụ án mà đương sự, bị cáo tại phiên Tòa có liên quan đến các lĩnh vực
nào, thì sẽ được mời đến tham gia nghiên cứu hồ sơ để xét xử.
Mặc dù đã có quy định trách nhiệm của hội thẩm nhân dân nhưng những quy định
thực chất là hình thức và thiếu thực tiễn. Hội thẩm gần như không phải chịu bất kỳ

trách nhiệm hành chính nào liên quan đến chất lượng xét xử.

10


Vì thế dù luôn chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các phán quyết của Hội đồng
xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế không tránh khỏi khi xét xử
các hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của thẩm phán.
Thực tiễn trong quá trình xét xử cho thấy, nếu có án oan sai, án bị sửa, thì chỉ có
thẩm phán chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Chánh án. Chính vì sự lỏng lẻo giữa
cơ quan Tòa án và hội thẩm nhân dân dẫn đến các hội thẩm chưa phát huy hết trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình.
IV.

Giải pháp

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt trong bối cảnh
hiện tại cũng có thể được coi là những bước đột phá đầu tiên hướng đến một hệ
thống Tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013. Những điểm mời đáng
chú ý là sự xuất hiện của Tòa án cấp cao, hệ thống Tòa án đã bước đầu tách khỏi
việc đặt tổ chức Tòa án trong sự phụ thuộc vào địa giới hành chính, thẩm phán
được phân định theo ngạch, ức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND trong lĩnh
vực tố tụng hình sự được mở rộng và phản ánh tốt hơn bản chất của quyền lực tư
pháp. Những điểm mới trên có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao vai trò của
Tòa án, biến Tòa án thành một biểu tượng của quyền lực nhà nước và công lý. Các
qui định mới này hướng tới sự kiểm soát của Tòa án đối với hoạt động điều tra, tuy
tố. Giúp việc xét xử trở nên thuận lợi, khách quan hơn,… Nhưng cuộc sống không
ngừng thay đổi vì vậy ngành tư pháp phải luôn luôn thay đổi để phù hợp với thực
tiễn. Đầu tiên, cần phải khắc phục những những điểm tiêu cực trên:
- Về mặt con người, cần phải có sự đào tạo và bổ nhiệm một cách khách quan nhất,

xứng đáng nhất với những người làm trong ngành Tòa án nói riêng và đối với tất
cả các cán bộ, công chức, viên chức nói chung.
- Các thẩm phán và hội thẩm phải luôn không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đực, nâng cao nghề nghiệp.
11


- Tăng cường vai trò giám sát của đoàn đại biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân đối
với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, cũng nâng cao phương tiện thông tin
đại chúng, tuyên truyền và cung cấp thông tin về hoạt động xét xử
- Tăng cường cơ sở vật chất của Tòa án các cấp hay cải thiện chế độ chính sách đối
với Thẩm phán và cán bộ Tòa án.
- Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, thiếu thực tế.
V.

Kết luận

Tìm hiểu về chứng năng xét xử của Tòa án nhân dân và tìm hiểu thực trạng hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng. Muốn một đất nước
phát triển vững mạnh thì phải có một hệ thống luật pháp hợp lý đồng thời cũng cần
hoàn thiện những cơ quan đảm bảo pháp luật được thực thi như Tòa án nhân dân.
Qua đó, góp phần giúp công tác tư phát đạt kết quả, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ
nền xã hội chủ nghĩa.

12


Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình luật hiền pháp, Đại học Kiểm sát Hà Nội năm 2015
Giáo trình luật hiền pháp, Đại học Luật Hà Nội năm 2013

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
Bài viết “Pháp luật về Tòa án nhân dân, thực trang và giải pháp phát triển” có trên
/>Bài viết “Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, cơ sở pháp lý quan trọng để
kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của Tòa án nhân dân” có trên
/>pers_id=3391632&folder_id=&item_id=92608738&p_details=1

Bài viết “THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
TRONG CÁC TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH” có trên
/>
Cảm ơn thầy cô đã đọc tiểu luận, mong thầy cô có những nhận xét đánh giá để bài
viết hoàn thiện hơn.

13


14



×