Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tư tưởng hcm về sản xuất nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.67 KB, 27 trang )

Mở Đầu
1.Lý do chọn đề tài:
1.1.

Về mặt lý luận.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành

động và chỉ đạo phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Cần tìm hiểu một cách
sâu sắc những tư tưởng của Người để xây dựng nên một hệ thống lý luận cơ
bản hoàn chỉnh, làm cơ sở cho đường lối phát triển nông nghiệp của đất nước
ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
1.2.

Về mặt thực tiễn.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, kinh

tế nông nghiệp là chủ yếu. Sản xuất nông nghiệp có vai trò cực kì quan trọng
đối với việc phát triền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Việc đi vào
nghiên cứu nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp giúp chúng ta
có cách nhìn toàn diện và sâu sắc về tư tưởng của Người, từ đó có thể áp dụng
những tư tưởng đó vào nền nông nghiệp nước ta trong thời kì xây dựng và
phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, vận dụng một cách đúng
đắn những tư tưởng của Người để phát triển nền nông nghiệp hiệu quả và
đúng hướng là công cuộc hết sức cần thiết.
Vì tất cả những lí do trên tác giả xin chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển nông nghiệp và vận dụng tư tưởng đó vào phát triển sản
xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay”. Với đề tài này, tác giả hi vọng sẽ làm rõ
được những nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp và thực trạng
vận dụng ở nước ta hiện nay, từ đó nêu ra các giải pháp, định hướng vận dụng
tốt hơn những tư tưởng ấy vào nền nông nghiệp ở nước ta trong thời gian tới.


1


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan:
Nghiên cứu về vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông
nghiệp và vận dụng tư tưởng đó vào phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước
ta hiện nay có rất nhiều tác phẩm nổi bật, trong đó phải kể đến các tác phẩm
như:
1. Phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện

đại hóa ở Việt Nam của Nguyễn Văn Bích- Chu Tiến Quang, Nxb Nông
nghiệp, 1999.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay của TS Nguyễn Huy Oánh, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2004
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp của Hà
Lệ Hằng đăng tên tạp chí sinh hoạt lý luận, số 2, 2004.
4. Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa của Lưu Văn Sùng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế hợp tác hóa trong nông nghiệp và sự vận
dụng trong điều kiện hiện nay của Đỗ Thanh Phương, Tạp chí sinh hoạt lý
luận số 3, 1999.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
- Nắm vững những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về phát
triển nông nghiệp
- Tình hình vận dụng những tư tưởng của Người về nông nghiệp
vào nền nông nghiệp đất nước.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp để đẩy mạnh phát

triển nông nghiệp một cách hiệu quả theo hướng hiện đại hóa, nâng cao đời
sống người dân trong thời gian tới.
2


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chính Minh về nông nghiệp
- Phân tích, đánh giá quá trình vận dụng những tư tưởng đó của
Người trong thực tiễn đất nước ta
- Đưa ra một số phương hướng ,giải pháp nhằm quán triệt sâu
sắc và vận dụng hiệu quả những tư tưởng của Hồ Chí Minh vào thúc đấy nền
nông nghiệp nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Đất nước Việt Nam
- Thời gian: Tập trung vào thời gian từ sau khi đổi mới (1986)
đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: Lịch sử và logic; phương pháp so sánh;
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, khái quát hoá;
6. Kết cấu nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
tiểu luận gồm 3 chương, 6 tiết và 9 tiểu tiết.

NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý luận
3



1.1.Khái niệm cơ bản
1.1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng
và phát triến sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
đồng thời là kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp là một bộ phận hợp thành
hệ thống tư tưởng kinh tế của Người, bao gồm hệ thống những luận điểm lý
luận toàn diện và sâu sắc được rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và
phát triển những kinh nghiệm, truyền thống đặc sắc của dân tộc và trí tuệ của
thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng và phát triển
nền nông nghiệp Việt Nam từ sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu tiến dần lên nền
nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ thuật tiên tiến, có khả năng cải thiện và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động.
1.1.3. Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai
để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm
nhiều chuyên ngành: Trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng
còn bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản.
1.2.Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí minh nói chung và về vấn đề phát triển nông
nghiệp nói riêng, ta có thể thấy ở Người có những tư duy lý luận nổi bật, vượt
4



khỏi nhận thức của các nhà lý luận đương thời đối với những vấn đề lớn, có
ảnh hưởng đến việc xác định đường lối phát triển kinh tế của đất nước. Người
là một mẫu mực trong việc vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn đất nước ta.
1.2.1. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của nông nghiệp
1.2.1.1.Cung cấp lương thực thực phẩm
Là một nhà lãnh đạo chiến lược giàu kinh nghiệm, Hồ Chí Minh sớm
thấy được rằng: Muốn nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết phải không
ngừng ra sức phát triển nền kinh tế quốc gia. Mà vấn đề cơ bản hàng đầu để
phát triển, Hồ Chí Minh xác định đó chính là bắt đầu từ nông nghiệp.
Theo Bác nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực cho toàn xã hội:
“Có thực mới vực được đạo”, “ muốn nâng cao đời sống nhân dân thì trước hết
phải giải quyết vấn đề ăn. Muốn giải quyết vấn đề ăn thì phải làm thế nào có đủ
lương thực. Mà lương thực là do nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển
nông nghiệp là việc cực kì quan trọng” [tr.543-544; 19]
Người cho rằng: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế
lấy canh nông làm gốc, do vậy “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông
nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” [tr.215; 13].Từ đó, Người coi việc tập trung
phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu
cầu các ngành khác phải lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trung tâm.
Hồ Chí Minh coi phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn
giải quyết mọi vấn đề xã hội. Nông nghiệp giải quyết nhu cầu quan trọng nhất,
cơ bản nhất, cấp thiết nhất của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở. Trong đó, ăn là
nhu cầu đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa mãn được các nhu cầu ăn trên một mức độ
nhất định thì người ta mới nghĩ đến những nhu cầu cao hơn. Hồ Chí Minh viết
“Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất lương thực, là việc cần thiết nhất
5



cho đời sống nhân dân, là bộ phận cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh tế
của Nhà nước” [tr5, 18].
Trong sự nghiệp cách mạng, theo Hồ Chí Minh, phát triển nông nghiệp để
sản xuất ra nhiều lương thực thực phẩm là một mặt trận quan trọng, liên quan
đến sự thành bại của chiến tranh. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở đến câu
châm ngôn Hán Việt “thực túc binh cường”. Là một chiến lược gia và nhà quân
sự tài ba, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò to lớn của hậu phương. Hậu
phương là chỗ dựa của tiền phương, là nơi quyết định sự thành bại của của mọi
cuộc chiến tranh. Trong chiến tranh, nhân tố quyết định là vấn đề quân lương.
Khi quân đội được cung cấp đủ lương thực, thực phẩm thì sức mạnh được nhân
lên rất nhiều. Đó là nhân tố quyết định sự thành bại nơi chiến trường.
Thực tế thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng
như chống đế quốc Mỹ xâm lược đã chứng minh cho tính đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh: Sự dồi dào về lương thực, thực phẩm là nhân tố góp phần
quyết định to lớn vào thắng lợi của chiến tranh.
Trong hội nghị cán bộ Trung ương về cải tiến quản lý hợp tác xã năm
1963, Người đã phát biểu rằng: “ Có gì sung sướng hơn bằng được góp phần
đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế xã
hội chủ nghĩa” [tr.612; 20]. Vào thời điểm những năm 60 của thế kỉ XX, khi
nhận thức chung là công nghiệp nặng là nền tảng của nền kinh tế thì việc chủ
tịch Hồ Chí minh cho rằng “Phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh
tế xã hội chủ nghĩa” rõ ràng đã thể hiện sự tư duy sáng tạo và vượt thời của
Người. Sự chỉ đạo tập trung phát triển nông nghiệp của Người là hoàn toàn
chính xác, nhận thức đó thể hiện phẩm chất một nhà lãnh đạo hiểu biết sâu sắc
thực tiễn đất nước mình, nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn.
1.2.1.2. Cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp và cung cấp một
phần vốn cho công nghiệp hóa- hiện đại hóa thông qua hoạt động xuất khẩu.
6



Hồ Chí Minh cho rằng nông nghiệp phải cung cấp đủ lương thực và nguyên
liệu để phát triển công nghiệp, để đảm bảo công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, nông nghiệp là một nguồn xuất khẩu quan trọng tạo nguồn vốn tích
lũy cho công nghiệp hóa, nông thôn là thị trường tiêu thụ to lớn hiện nay cho
công nghiệp. Như vậy, nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các
ngành kinh tế khác.
Tư tưởng nhấn mạnh tầm quan trọng của nông nghiệp và vấn đề nhiệm vụ
của của nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp của chủ
tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa thức tiễn hết sức sâu sắc. Bác nhận thức rất rõ
rằng Việt Nam là một nước có tiềm năng về nông nghiệp, việc phát triển nông
nghiệp làm nền tảng cho sự phát triển các ngành kinh tế khác là việc vô cùng
quan trọng.
1.2.2. Quan điểm về phát triển nông nghiệp toàn diện và khoa học
* Quan điểm về phát triển nền nông nghiệp toàn diện.
Với Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp Việt Nam phát triển phải là một
nền nông nghiệp phát triển toàn diện, nền nông nghiệp phát triển đó càng
không phải trong một nền kinh tế thuần nông mà là trong một nền kinh tế bền
vững hiện đại, với sự phong phú về ngành nghề, đa dạng hóa về sản phẩm
Qua các tác phẩm, bài nói và viết của Hồ Chí Minh cho thấy quan
niệm về một nền nông nghiệp toàn diện theo Người phải là:
Thứ nhất: Nền nông nghiệp toàn diện trước hết “Trồng trọt cũng phải phát
triển toàn diện”, bao gồm cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ.
Hồ Chí Minh cho rằng, trồng trọt, trước hết, phải trồng cây lương
thực, bởi vì “nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực” [tr.406; 19]. Vì nó
giải quyết nhu cầu cấp thiết để tồn tại cho đồng bào. Người nói nhiều đến
trồng lúa, coi cây lúa là cây chính trong các cây lương thực: “Sản xuất thóc
là chính”. Sau cây lúa, Người rất chú trọng đến các cây hoa màu như ngô,
7



khoai, sắn là nguồn lương thực bổ sung cho cây lúa và là nguồn thức ăn chủ
yếu cho chăn nuôi. Người nói: “Phải hết sức phát triển hoa màu, chỉ có thóc,
không có hoa màu là không được. Hoa màu không những là cây lương thực
quý của người, mà còn dùng để chăn nuôi. Người coi trọng cây hoa màu đến
mức dành hẳn một số bài bá đăng trên báo Nhân Dân để cổ động, khuyến
khích bà con nông dân trồng cây hoa màu.
Thứ hai: Theo Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện phải có
ngành chăn nuôi phát triển. Nói chuyện trong Hội nghị tổng kết phong trào
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp năm 1959, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Về
chăn nuôi, phải chú ý phát triển chăn nuôi càng nhiều càng tốt” [352; 19].
Theo Người, “Phải phát triển mạnh chăn nuôi để đảm bảo có thêm thịt ăn,
thêm sức kéo, thêm phân bón” [tr.82; 20]. Người cũng nhấn mạnh lợi ích của
chăn nuôi với trồng trọt: “Vì chăn nuôi kém mà phân bón ít, lại vì phân bón
ít mà sản lượng lúa và hoa màu giảm sút” [tr.149; 20]. Hay mối quan hệ giữa
trồng trọt và chăn nuôi: “Muốn ruộng tốt thì phải dùng nhiều phân. Muốn có
nhiều phân thì phải đẩy mạnh chăn nuôi. Muốn phát triển chăn nuôi thì phải
tăng diện tích trồng thức ăn cho trâu, bò, lợn..” [tr.406; 19].
Trong chăn nuôi, Người chú trọng và khuyến khích chăn nuôi trâu, bò,
lợn, vì “trâu, bò, lợn là nguồn lợi lớn, lại là nguồn phân bón cho ruộng
nương”. Ngoài ra, Người cũng nhắc nhở “cần mở rộng hơn nữa việc chăn
nuôi dê, thỏ, gà, vịt...”[tr.373; 19]
Vì coi trọng và khuyến khích chăn nuôi, Người đã phê bình việc lạm sát
trâu bò, vừa làm giảm sức kéo, vừa lãng phí, lại gây ra tệ nạn ăn uống lu bù.
Trong Hội nghị toàn Đảng bộ Khu Việt Bắc (ngày 8/6/1959), Người nhắc
nhở và phê bình: “Các nơi phải nắm vững khẩu hiệu cần kiệm xây dựng hợp
tác xã, tránh trình trạng ăn uống lãng phí như một số hợp tác xã lập xong đã
mổ bò, giết lợn liên hoan” [tr.456; 18]. Hay khi về thăm cán bộ và bà con xã
8



viên xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành (Nghệ An), Người nói với đồng bào
và cán bộ ở đây: “Phải tiết kiệm, chớ có gặp một việc gì cũng làm mấy con
lợn để liên hoan, đầu mùa cấy liên hoan, gặt xong liên hoan” [tr.406; 19].
Thứ ba: nông nghiệp toàn diện, theo Người phải phát triển lâm nghiệp:
Trồng cây, gây rừng, khai thác lâm thổ sản có kế hoạch.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “cây và rừng là nguồn lợi lớn”, do vậy,
Người luôn nhắc nhở bà con nông dân, đặc biệt là bà con các dân tộc phải trồng
rừng và bảo vệ rừng. Nói chuyện với đồng bào nhân dân Tuyên Quang,
Người chỉ rõ: “Đồng bào... phải chú ý bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng.
Tục ngữ nói “Rừng vàng, biển bạc”. Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải
bảo vệ vàng của chúng ta [tr.321, 19]. Người còn nhấn mạnh: “ Phá rừng thì
dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm” [tr.373; 19].
Đi đôi với trồng rừng, bảo vệ rừng, Hồ Chí Minh cũng nói về khai
thác lâm, thổ sản, nguồn lợi kinh tế thu được từ rừng. Việc khai thác lâm thổ
sản là cần thiết, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa làm cho rừng phát triển.
Nhưng việc khai thác không đúng cách hoặc lợi dụng việc khai thác để phá
rừng thì gây nhiều thiệt hại. Phá rừng nhiều, theo Người “sẽ ảnh hưởng đến
khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều” [tr.610; 19]. Đây là
những vấn đề lớn, có tính chất toàn cầu mà Hồ Chí Minh sớm nhận ra, đặc
biệt là vấn đề về mối quan hệ giữa trồng cây, gây rừng với môi trường sinh
thái. Và hiện nay chúng ta đang phải gánh chịu cũng như đang tìm cách khắc
phục những hậu quả do nạn phá rừng mà con người đã gây ra.
Thứ tư: nông nghiệp toàn diện, theo Hồ Chi Minh còn phải đặt trong
mối quan hệ với phát triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền
với biển.
Khi ra thăm và nói chuyện với nhân dân đảo Cô Tô, Người dặn dò:
“Cần đẩy mạnh nghề đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng và bảo vệ các thứ
9



hải sâm, trân châu .v.v..” [tr. 354; 19] là những nghề gắn với kinh tế biển mà
nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Hiểu rõ đặc điểm tự nhiên, khí hậu của nước ta đối với người làm
nông nghiệp, Hồ Chí Minh đã có ý tưởng kết hợp trồng lúa và nuôi cá trong
các ao hồ, trên sông và cả trên ruộng theo phương thức kết hợp để nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống. Do đó, khi đi thăm nhân dân các tỉnh đồng
bằng như Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Người đều nhắc cùng với trồng
lúa, hoa màu, chăn nuôi cần phải thả cá. Người chỉ rõ: “Cần đẩy mạnh thả cá
để cung cấp thêm thực phẩm bổ sung cho thịt, cải thiện đời sống nhân dân.
Nuôi cá cũng dễ. Có nước và có công thì cá phát triển” [tr.407; tập 10].
Thứ năm: Khi nói đến nông nghiệp toàn diện, ngoài nông, lâm, ngư
nghiệp, Hồ Chí Minh cũng nói đến nghề phụ gia đình.
Ở những vùng nông thôn của Việt Nam, thông thường khi năng suất
trồng trọt và chăn nuôi đạt trình độ nhất định, có một số lao động dư thừa.
Mặt khác, đặc thù của sản xuất nông nghiệp là theo thời vụ, trong một mùa
có một số ngày nông nhàn, lao động không được sử dụng. Số lao động dư
thừa đó chuyển sang làm nghề phụ để có thêm thu nhập. Nắm chắc tình hình
thực tế đó, Hồ Chí Minh đã quan tâm, nhắc nhở đồng bào các địa phương
khai thác mảnh vườn, mở mang nghề phụ. Người nói: “ Miếng vườn của mỗi
gia đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập ” [tr.352;
19]. Từ đó, Người nhắc nhở: “Phát triển thích đáng nghề phụ của gia đình xã
viên”.
Thứ sáu, phát triển nông nghiệp theo mô hình sản xuất hàng hóa, mạnh
mẽ và vững chắc. Hồ Chí Minh quan niệm nền nông nghiệp toàn diện không
phải là nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự sản tự tiêu mà đó là một nền sản
xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển, có quy mô lớn, có quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa. Người chỉ rõ
10



“Trong kế hoạch 5 năm còn nói đến việc bắt đầu khoanh vùng nông nghiệp.
Như nơi nào sản xuất lúa nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất lúa
chính, nơi nào sản xuất chè nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất
chè là chính,….Làm như vậy thì sẽ sử dụng một cách hợp lý và có lợi nhất
của cải giàu có của đất nước ta và sức lao động dồi dào của nhân dân ta.
Làm như vậy thì sau này dung máy cũng dễ và tiện” [tr.407; 19]
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nền nông nghiệp toàn diện là
nền nông nghiệp bao gồm cả: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
ngành nghề phụ có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý, cân đối, hài hòa, bổ
sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Sự đa dạng hóa nông nghiệp trong tư tưởng của Người có một ý nghĩa lớn
lao đối với sự hòa nhập và thích nghi nhanh của các sản phẩm nông nghiệp
đối với sự biến động; nó chính là cái đệm giảm sốc khi có những chấn động
vì thiên tai, địch họa, nó làm giảm bớt các hậu quả xấu do nền kinh tế độc
canh cây lúa mang lại, giúp nông dân có nhiều phương án lựa chọn tổ chức
sản xuất của mình, giúp họ nhanh nhạy và nâng cao hiệu quả của sản xuất
nông nghiệp
* Xây dựng một nền nông nghiệp khoa học.
Hồ Chí Minh luôn chú trọng đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp.
Bác nhận định: “ Nông thôn ta đất hẹp, người đông, kỹ thuật nông nghiệp
lạc hậu, năng suất lao động thấp kém”. Muốn đưa nông nghiệp phát triển ,
xứng đáng với vị trí của nó trong nền kinh tế phải “ mạnh dạn tiến vào khoa
học kỹ thuật nông nghiệp”.
Hồ Chí Minh luôn cho rằng cần phải đẩy mạnh cái tiến công cụ, ứng dụng
những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Người đã chỉ rõ
nếu làm tốt phong trào cải tiến công cụ thì sức lao động sẽ tăng gấp đôi, gấp
11



ba, mà lúa và hoa màu sẽ tốt gấp bội, tức là năng suất lao động sẽ tăng lên rất
nhiều.
Theo tư tưởng của Người, việc cải tiến nông cụ cần phải thực hiện mạnh
hơn nữa, toàn diện hơn nữa; phải chú ý đến từng cái cày, cái bừa, chiếc xe vận
tải,….
Ngoài ra, người còn đề nghị cán bộ và nhân dân ra sức học tập và ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, cải thiện
đời sống nhân dân. Hồ Chí Minh rất coi trọng khoa học công nghệ bởi vì
Người đa nhận thật được xu hướng phát triển của khoa học công nghệ trên thế
giới có vai trò cực kì quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động. Người
khẳng định khoa học công nghệ từ sản xuất mà ra và yêu cầu khoa học công
nghệ quay lại phục vụ cho sản xuất.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân ta rất cần cù lao động, thông minh, khéo léo
và nhiều kinh nghiệm quý báu.Vì vậy, để nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kĩ
thuật ứng dụng vào sản xuất có hiệu quả Người hết sức quan tâm đến việc phổ
biến kiến thức khoa học vào quần chúng nhân dân, đồng thời phải khai thác,
tận dụng một cách triệt để những kinh nghiệm sản xuất mà nhân dân ta đã đúc
kết từ bao đời song song với quá trình đổi mới công nghệ. Quan điểm quần
chúng của Người trong việc triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt càng có ý nghĩa hơn trong tình hình
khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng như hiện nay.
1.2.3. Gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp
*Nông nghiệp tạo ra thị trường cho sự phát triển của công nghiệp
Hồ Chí Minh cho rằng nông nghiệp phải cung cấp đủ lương thực và
nguyên liệu để phát triển công nghiệp, để đảm bảo công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, “ Mặt khác, nông nghiệp là một nguồn xuất khẩu quan trọng tạo nguồn
vốn tích lũy cho công nghiệp hóa, nông thôn là thị trường tiêu thụ to lớn hiện
12



nay cho công nghiệp”. Như vậy theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp là cơ sở để
phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế khác.
* Nông nghiệp tạo ra vùng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp
Hồ Chí Minh cho rằng nông nghiệp phải cung cấp đủ lương thực và
nguyên liệu để phát triển công nghiệp, để đảm bảo công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa. Từ năm 1955, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để đẩy mạnh việc củng cố
miền Bắc, làm cơ sở cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, Chính
phủ sẽ thi hành kế hoạch khôi phục kinh tế năm 1956 bao gồm nông nghiệp,
công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải; nhưng sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu. Yêu cầu của sản xuất nông nghiệp năm 1956 là bước đầu giải
quyết lương thực, cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu nông
nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở rộng
quan hệ buôn bán với nước ngoài”
* Hồ Chí Minh ví nông nghiệp và công nghiệp như đôi chân của nền
kinh tế.
Hồ Chí Minh luôn coi công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế
quan trọng nhất và có tác động qua lại với nhau rất mật thiết. Người đã
nhiều lần nêu lên hình ảnh: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của
nền kinh tế” [tr.545; 19]. Người dùng hẳn từ “què”, “khập khểnh” để phê
phán sự phát triển không đồng bộ giữa công nghiệp và nông nghiệp, để lưu ý
toàn Đảng, toàn dân phải chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp. Là
“hai chân của nền kinh tế” phải phát triển vững chắc cả hai: “Công nghiệp
và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân
đi khỏe, đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”
[tr.544; 19].
13


Sau này, nhiều lần khác, chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói đến vai trò quan
trọng của nông nghiệp, coi nông nghiệp cùng với công nghiệp như hai chân của

nền kinh tế: “ Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của một con người,
hai chân có mạnh thì đi mới vững chắc. Nông nghiệp không phát triển thì công
nghiệp không phát triển được…” [tr.619, 19]
Tuy vậy, qua những phát biểu của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy hàm
chứa ý nghĩa sâu xa! Trong hai chân công nghiệp và nông nghiệp của nền
kinh tế giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, phát triển nông nghiệp phải là chân
phải, chân trụ, là bước phải đi đầu tiên để cho công nghiệp có được những
bước đi vững chắc.
Tóm lại, “Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp, thương nghiệp
cũng không phát triển được” [tr.445; 19].
Chương II. Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong phát triển sản xuất
nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh qua đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam về phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cả nước thống nhất quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976)
đã chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, chú trọng cả trồng trọt
và chăn nuôi, đẩy mạnh lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đã tổng kết tình hình thực
hiện nghị quyết đại hội IV đề ra và chủ trương tập trung sức phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan
trọng. Đại hội đã giao cho ngành nông nghiệp phải làm tốt ba nhiệm vụ: bảo
14


đảm lương thực cho toàn xã hội, cung ứng nguyên liệu nông sản cho công
nghiệp hàng tiêu dùng, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu quan trọng.
Tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ V, đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định rằng nước ta đã có những
chuyển biến tích cực trong ngành nông nghiệp, đạt được những thành tựu đáng
kể, nhất là sản xuất lương thực và tạo ra một số vùng chuyên canh cây công
nghiệp. Tuy nhiên, sản lượng lương thực tăng không đều và chưa vững chắc,
diện tích cây công nghiệp vẫn còn tăng chậm, chưa gắn phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp với công nghiệp chế biến,…
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngoặt tư duy của
Đảng về đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung, đổi
mới phát triển nông nghiệp nói riêng. Đại hội đã đề ra những quan điểm, chính
sách đổi mới, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng
những yêu cầu cấp bách về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp, Bộ chính trị đã
chủ trương sắp xếp và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên
môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng hợp, gắn trồng trọt với chăn nuôi, công
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp với giao thông vận tải, đặc biệt là công nghiệp
chế biến và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, đồng thời không
ngừng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp và đưa tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, chế biến để tăng năng suất, chất lượng cho sản phẩm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã tổng kết đánh giá
thành tựu của 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới , đại hội cũng xác định rõ
nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế đất nước 5 năm (1996-2000)
là phát triển toàn diện nông, lâm, ngủ nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến
nông, lâm, thủy, sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
15


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tổng kết 20 năm thực
hiện đường lối đổi mới đất nước và tiếp tục nhấn mạnh: “Hiện nay và trong
nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược

đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng
hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và
khả năng cạnh tranh cao” [tr.190,191; 7]
Để phát triển nông nghiệp toàn diện, hiệu quả và bền vững, Đảng ta chỉ ra
các định hướng lớn đó là phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có
thị trường và hiệu quả kinh tế cao; quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn
định, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực; Phái triển mạnh chăn nuôi theo
hướng quy mô lớn, an toàn về dịch bệnh và bền vững về môi trường,..
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X (5-8-2008) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn coi nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế- xã hội bền
vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Trên
cơ sở coi nông dân là chủ thể, xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch làcăn
bản, Đảng ta coi phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Phát triển “tam nông”, nhằm mục tiêu “không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của cư dân nông thôn”. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, phải
tập trung xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại,
bền vững, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Xây
dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa có kết cấu hạ tâng kinh tế - xã hội hiện
đại, nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng...
16


Trên cơ sở tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển Nông nghiệp,
Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách triệt để với mục tiêu xác định “sản
xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” và không ngừng hoàn thiện đường lối

phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của đất nước trong từng thời kì. Nhờ đó sản xuất nông nghiệp của nước ta dù
còn những hạn chế nhất định nhưng đã có những bước tiến đáng kể.
2.2. Thực trạng phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay
2.2.1. Những thành tựu đã đạt được
* Thành tựu nổi bật nhất là nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng cao,
liên tục, đặc biệt là căn bản giải quyết được vấn đề lương thực cho đất nước.
Tăng trưởng bình quân hàng năm về nông lâm và ngư nghiệp thời kỳ
1991- 2000 đạt 4,3% trong đó nông nghiệp đạt 5,4%. Sản xuất lương thực ở
nước ta đạt từ 14,309 triệu tấn năm 1980 đến 18,20 triệu tấn năm 1985 và
21,488 triệu tấn năm 1990; đến 1999 là 34,254 triệu tấn.
Tính bình quân lương thực đầu người từ 268,2kg năm 1980 lên
372,5kg năm 1990; năm 1995 lên 407,9kg và đến năm 2000 thì đã đạt 443,9kg.
Từ năm 1989 lại đây, sản xuất lương thực nước ta đã đáp ứng được nhu cầu
tiều dùng, có dự trữ lương thực cần thiết và còn dư thừa để xuất khẩu, hàng
năm xuất khẩu từ 1,5 đến 2 triệu tấn gạo thời kì 1989-1995 và tăng lên 3-4,6
triệu tấn gạo trong thời kì 1996-2000.
*Cây trồng vật nuôi cũng có bước tiến đáng kể về cả số lượng và chất lượng
Diện tích cây lương thực năm 1976 chiếm 88%, trong đó lúa chiếm
75,2% tổng diện tích gieo trồng, các loại cây trồng khách chiếm tỉ trọng thấp,
tỷ trọng cây công nghiệp chiếm 6%, cây ăn quả chiếm 25%. Đến năm 200 tỷ
trọng diện tích cây lương thực giảm xuống 67,11% trong đó lúa chiếm
61,38%, tỷ trọng cây công nghiệp tăng lên 6,33%, riêng cây công nghiệp lâu
năm chiếm 11,21%, tỷ trọng cây ăn quả tăng lên 4,34%.
17


Chăn nuôi cũng tăng nhanh về số lượng. Số lượng đàn lợn năm 2000
tăng 125,42% so với 1976, trong đó sản lượng thịt hơi tăng 326,85%. Ngoài
lợn thì trâu bò, chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh về số lượng và chủng

loại, cùng vói phương thức chăn nuôi truyền thống, nông dân đã tiếp thu phát
triển chăn nuôi kiểu công nghiệp. Sản lượng thịt hơi gia cầm từ 167,9 ngàn tấn
năm 1990 tăng lên 226,1 ngàn tấn năm 1997.
Thủy sản cũng có bước phát triển đáng kể, công tác nuôi trồng thủy sản
được coi trọng, nhất là vùng ven biển. Những cơ sở sản xuất giống và nuôi
tôm xuất khẩu được triển khai ở ven biển miền Trung, việc đánh bắt hải sản
đang được khôi phục và phát triển ở nhiều địa phương, tàu thuyền và các
phương tiện đánh bắt được tăng cường, nhất là hiện nay các tỉnh đang triển
khai dự án đánh bắt cá xa bờ, tiềm lực của thủy sản được tăng nhanh, nhờ vật
mà sản lượng thủy sản tăng nhanh, sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn.
*Từng bước hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hóa với quy mô
lớn.
Từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất nông sản hàng
hóa, nông nghiệp nước ta đã và đang từng bước hình thành các vùng sản xuất
chuyên môn hóa với quy mô lớn. Thành công nhất trong việc xây dựng
chuyên môn hóa phải kể đến là xây cà phê, cây cao su,…
Hai vùng trọng điểm lúc của nước ta là đồng bằng sông Cửu Long và
đồng bằng sông Hồng. Ở đồng bằng sông Cửu Long, năm 2000 diện tích gieo
trồng lúa đạt 3,936 triệu ha, hàng năm diện tích trồng lúa còn được mở rộng,
trong đó có những tỉnh có quy mô diện tích tương đối lớn như tỉnh Kiên giang
có gần 540 ngàn ha, An Giang có 464 ngàn ha,….Sản lượng lúa đạt gần 16,69
triệu tấn, chiếm hơn 51,28% sản lượng lúa cả nước và đạt trên 80% srn lượng
lúa hàng hóa và lúa xuất khẩu. Đồng bằng sông Hồng diện tích gieo trồng lúa
năm 2000 đạt 1,212 triệu ha, năng suất lúa đạt cao hơn so với đồng bằng sông
18


Cửu Long, năm 2000 đạt 53,3 tạ/ha và có xu hướng tăng. Sản lượng lúa đạt
6,5948 triệu tấn, chiếm 20,26% tổng sản lượng lúa cả nước.
Cà phê là sản phẩm hàng hóa xuất khẩu quan trọng sau lúa gạo, năm 2000

diện tích cà phê cả nước đạt 516,7 ngàn ha với sản lượng hơn 698,2 ngàn tấn
cà phê nhân. Sản lượng cà phê xuất khẩu tăng nhanh từ 9000 tấn năm 1985 lên
89.600 tấn năm 1990, 212 ngàn tấn năm 1995 và 694 ngàn tấn năm 2000. Cà
phê được trồng tập trung ở vùng Tây Nguyên chiếm 80,25% diện tích và
85,88 sản lượng cà phê cả nước.
*Nông nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất
khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước
Với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, nông nghiệp nước ta đã
có những tiến bộ và chuyển biến tích cực. Nă 1986, giá trị hàng xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản đạt 513 triệu đô la tăng lên 3168 triệu đô la năm 1996.
Sau 6 năm kim ngạch xuất khẩu cũng tăng lên gấp 6 lần. Năm 2000 kim ngạch
xuất khẩu nông lâm thủy sản đã tăng lên 4,308 tỷ USD.
2.2.2.Những hạn chế trong phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì nông nghiệp nước ta còn tồn
tại nhiều hạn chế, đặc biết khi gia nhập WTO cũng tạo cho nông nghiệp nước
ta gặp nhiều thách thức
Bình quân đất nông nghiệp trên số dân làm nông ở nước ta còn thấp
(0.16 ha/đầu người).
Vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thấp, chỉ bằng 10% so với tổng
đầu tư ngân sách xã hội. chính vì thế nên sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh
mún nhỏ lẻ, trình độ canh tác vẫn còn lạc hậu, hệ thốnghạ tầng phục vụ nông
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu, tốc độ cơ giới hóa chậm, chất lượng nông
sản thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém, luôn bị động trước những
19


diễn biến thị trường. Bên cạnh đó công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược và
chính sách cũng chưa thực hiện hiệu quả.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, thiếu bền
vững. Ngành trồng trọt chiếm tỉ trọng lớn (trên 57%), các ngành chăn nuôi, lâm

nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế và xu hướng phát triển không ổn
định. Việc xây dựng các vùng nguyên liệu lớn cho các ngành công nghiệp chế
biến triển khai còn chậm
Việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất nông
lâm ngư nghiệp còn chậm. Hầu hết các loại cây trồng vật nuôi có năng suất,
chất lượng và khả năng cạnh tranh thấp. Năng suất cây trồng chỉ ở mức thấp so
với mức bình quân chung của thể giới. Công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa
học kỹ thuật, công nghệ còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý thủy nông, thú ý,
cung ứng giống, vật tư chưa đáp ứng được yêu cầu nông nghiệp hóa công
nghiệp.
Công tác bảo vệ rừng và tuyên truyền phóng chống cháy rừng luôn được
các địa phương quan tâm triển khai. Tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa cao. Tổng
diện tích rừng bị cháy và chặt phá năm 2010 là 7781 ha
Chương III. Những phương hướng, giải pháp nhằm vận dụng hiệu quả tư
tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp vào phát triển sản xuất nông nghiệp ở
nước ta hiện nay
3.1. Những phương hướng để vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào
phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay
- Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí minh,
đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn kinh tế xã hội.
- Các chương trình, đề án, dự án phát triển sản xuất nông, lâm, ngư
nghiêp, phát triển kinh tế nông thôn cần phải được xác lập trên những cơ sở
20


khoa học và điều kiện thực tiễn chắc chắn, đánh giá khải sát cụ thể để đảm bảo
tính khả thi và tính hiệu quả cao.
- Thường xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn công tác tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các cơ quan thuộc

ngành nông nghiệp,các hợp tác xã, các doanh nghiệp. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền phổ biến, quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường củng cố khối
đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động trong các cấp ủy đảng và quần chúng
nhân dân
- Có các biện pháp và hình thức phù hợp để khai thác phát huy, sửa
dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực; đồng thời thu hút mạnh mẽ nguồn
vốn, khoa học, kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài, ….
3.2. Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới
* Tổ chức thực hiện tốt việc học tập, tuyên truyền phổ biến quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về phát
triển sản xuất nông nghiệp cho các bộ, đảng viên và nhân dân.
Các cấp ủy đảng, chính quyền phải xác định đây là nhiệm vụ chính trị đặc
biệt quan trọng, cần phải có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức học tập một
cách hiệu quả. Mục đích, yêu cầu của việc tổ chức học tập, quán triệt là phải
làm cho các cán bộ và nhân dân nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc
phát triển nông nghiệp, nhận thức được đầy đủ nội dung của việc phát triển
nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kể từ đó định
hướng cho việc xây dựng, hình thành các kế hoạch, phương án sản xuất kinh
doanh góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
21


Các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, đài truyền hình,
báo chí cần phái xây dựng chuyên mục, chuyên đề và dành một thời lượng thỏa
đáng để phát sóng, phát hình để phổ biến tư tưởng Hồ chí minh, truyền tải các
chính sách của Đảng một cách kịp thời; đồng thời phổ biến thông tin tổng kết
thực tiễn và hướng dẫn việc triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật công
nghệ vào sản xuất.

*Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện, tạo bước chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa
bền vững
Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa,
chuyển dịch cư cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là cơ sở để đảm bảo nhu cầu lương thực tại chỗ, hình thành
các vùng sản xuất tập trung chuyên canh, tạo nguồn nguyên liệu phục vụ công
nghiệp chế biến, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo.
Công tác quy hoạch phải đượ coi là nhiệm vụ hàng đầu trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật.
Cần phát huy thế mạnh kinh tế nông nghiệp của từng vùng và tạo sự liên kết,
hỗ trợ giữa các vùng. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ
tầng nông thông, nhất là hệ thống giao thông thủy lợi, hệ thống điện, chợ cùng
với phát triển các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,….thực hiện đô thị
hóa nông thôn theo hướng hiện đại.
Phát triển nông nghiệp toàn diện, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của chăn nuôi và dịch
vụ, tỷ trọng trồng trọt giảm xuống. Bên cạnh đó cần chú ý cải thiện quan hệ
giữa các nhà máy chế biến với người nông dân và các hợp tác xã trên cơ sở kết
hợp hài hòa lợi ích giữa các bên cùng có lợi để tạo mối liên kết chặt chẽ, ổn
định sản xuất lâu dài.
22


* Tập trung huy động các nguồn lực để tiếp tục phát triển hạ tầng
nông thôn, đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ, thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn
Tập trung tối đã các nguồn lực đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là hệ thống thủy lợi, hệ thống giao thông,

hệ thống điện và bưu chính viễn thông; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao tiến
bộ khao học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học
công nghệ, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Tăng cường nghiên cứu, triển khai áp dụng các
biện pháp thâm canh tăng năng suất; xây dựng và phát triển rộng rãi các mô
hình về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ cho việc phát triển các
loại cây trồng, vật nuôi có điều kiện phát triển thuận lợi ở các địa phương khác
nhau. Đẩy mạnh việc tuyển chọn các loại giống cây trồng vật nuôi có năng
suất,chất lượng cao và phù hợp với điều kiện tự nhiên và nhu cầu của thị
trường để sản xuất.
*Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện một số chính sách gắn liền với phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Cần đổi mới công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Tăng thêm thời
hạn sử dụng đất nông nghiệp để người sử dụng đất yên tâm bỏ vốn đầu tư cải
tạo đồng ruộng và áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến, hiệu quả kinh tế cao.
Cân đối ngân sách và dành một khoản vốn thích đáng để đầu tư cho phát
triển toàn diện sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư phát
triền kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển các vùng sản xuất
23


hàng hóa tập trung chuyên canh phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất
khẩu.
Các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mai, đặc biệt là ngân hàng phát
triển nông nghiệp và ngân hàng chính sách cần phải đẩy mạnh hoạt động bằng
nhiều hình thức, đáp ứng nhu cầu về vôn sản xuất cho hộ nông dân, các hợp tác
xã doanh nghiệp ở nông thôn với lãi suất phù hợp đảm bảo các bên cùng có lãi.
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các thành phần

kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tận dụng thế mạnh về đất đi, tài
nguyên và lao động tại chỗ để khai thêm đất mới, trồng rừng, trồng cây công
nghiệp, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát
triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, …tạo thêm nhiều việc làm
mới, nâng cao thu nhập,ổn định và cải thiện đời sống nhân dân lao động ở nông
thôn.

KẾT LUẬN
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp là một bộ phận cốt lõi trong
hệ thống tư tưởng về kinh tế của Người, Là một điển hình của sự vận dụng và
24


phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện thực tiễn kinh tế xã hội
cụ thể ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của tiến bộ khoa học kỹ thuật, và
những đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những tư tưởng
chủ đạo của Người về phát triển nông nghiệp toàn diện, về ứng dụng khoa học
kỹ thuật, …vẫn còn nguyên giá trị, và có ý nghĩa lịch sử cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Những tư tưởng đó đã và đang là kim chỉ nam cho chúng ta trên con
đường xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh, Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, Nxb
Chính trị quốc gia,2003, Hà Nội.
25



×