Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân sinh quan người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.64 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới với hệ thống
giáo lí đồ sộ và số lượng phật tử phân bố rộng khắp. Khoảng thế kỉ II sau công
nguyên, đạo phật bắt đầu được truyền bá vào nước ta, Phật giáo là một tôn giáo,
tuy nhiên lại có sự hoà hợp của 2 yếu tố triết học và tôn giáo, 2 cơ sở đó làm
luận chứng cho nhau. Với tính triết lí sâu sắc của mình, đạo Phật nhanh chóng
thích nghi và ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt Nam. Yếu tố
triết học của tôn giáo này đã ảnh hưởng một phần đến lối tư duy của người dân
Việt Nam, có những ảnh hưởng tích cực tuy nhiên không thể không nhắc đến
những mặt còn hạn chế.Vì vậy, dựa trên cơ sở nghiên cứu sự ảnh hưởng của
Phật giáo đến nhân sinh quan của người dân Việt Nam làm nền tảng cho phát
triển cơ sở lý luận về xây dựng Phật giáo ở Việt Nam.
1.2. Về mặt thực tiễn
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bên
cạnh tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thì
giáo lý nhà Phật đã ít nhiều ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm của một bộ phận dân
chúng. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên đất
nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện
mới.
Chính vì thế việc đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật giáo
đối với nhân sinh quan của người Việt Nam có thể đánh giá được những mặt tiến
bộ và hạn chế. Làm thế nào để phát huy những mặt tiến bộ, giúp cho đời sống
tinh thần của nhân dân lành mạnh và phong phú, phục vụ cho công cuộc đổi
mới, giúp hoàn thành mục tiêu quá độ của nhà nước là công cuộc hết sức cần
thiết và cấp bách.



Vì tất cả những lí do trên tác giả xin chọn đề tài “Ảnh hưởng của Phật giáo
đến nhân sinh quan người Việt”. Với đề tài này, tác giả hi vọng sẽ làm rõ được
những ảnh hưởng của Phật giáo đến thực tiễn nhân sinh quan của người dân Việt
Nam ta, từ đó nêu ra các giải pháp nhằm phát huy giá trị tích cực của Phật giáo,
đồng thời có những biện pháp làm hạn chế tính tiêu cực của tôn giáo này đối với
đời sống tinh thần của người dân Việt.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Nghiên cứu về lĩnh vực Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người Việt Nam có rất nhiều tác phẩm nổi bật, trong đó phải
kể đến các tác phẩm như:
1, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng của Nguyễn Tài Thư, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. 2, Lịch sử Triết học của Phương Kỳ Sơn, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1999. 3, Lịch sử Phật Giáo Việt Nam của Giáo sư Tiến sĩ Lê
Mạnh Thát, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. 4, Tư tưởng Phật
giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Dung, Nxb Hà Nội,1995, Lịch sử
Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà
Nội, 1991.6, Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam của phó giáo sư Tiến sĩ
Nguyễn Hùng Hậu ,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.7,Tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.8, Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam của Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân sinh quan người
Việt, từ đó phát triển lý luận về xây dựng Phật giáo ở Việt Nam.
- Từ những tác động tích cực và tiêu cực của Phật giáo đến nhân
sinh quan người Việt Nam đề ra những giải pháp nhằm phát huy tính tích cực và
hạn chế tính tiêu cực trong quá trình ảnh hưởng đó.



* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát nội dung nhân sinh quan Phật giáo
- Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần
của người dân Việt Nam.
- Đưa ra một số phương hướng ,giải pháp nhằm phát huy những yếu
tố tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo
trong tình hình nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Những yếu tố trong nội dung của tư tưởng Phật giáo và
ảnh hưởng đến nhân sinh quan của người Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Đất nước Việt Nam
- Thời gian: từ khi Phật giáo bắt đầu xâm nhập vào nước ta (khoảng
thế kỉ II sau công nguyên) đến thời điểm hiện tại (thế kỉ XXI).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: Lịch sử và logic; phương pháp so sánh; phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, khái quát hoá;
6. Kết cấu nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận gồm 3 chương, 7 tiết và 14 tiểu tiết.

NỘI DUNG
Chương I. Phật giáo và nhân sinh quan Phật giáo


1.1.Khái quát về Phật giáo
1.1.1. Nguồn gốc ra đời
- Phật giáo là một trường phái triết học- tôn giáo xuất hiện vào

khoảng cuối thế kỉ VI trước Công Nguyên ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy
Hymalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ với Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra đời
trong làn sóng phản đối ngự trị của đạo Bà la môn và chế độ đẳng cấp, lý giải
căn nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ đó.
- Người sáng lập đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là
Siddharha( Tất Đạt Đa) họ là Gautama (Cù Đàm), con trai đầu của vua
Suddhodana ( Tịnh Phạn) dòng họ Sakya. Phật Thích Ca sinh ngày 8 tháng 4
năm 563 tr.Công Nguyên và mất năm 483 tr.Công Nguyên. Từ nhỏ, Tất Đạt Đa
đã được sống trong môi trường giàu sang nhung lụa và được mọi người tránh
cho những nỗi ưu lo phiền não. Về sau, những cảnh tượng mà vị thái tử trẻ tuổi
bắt gặp trong hoàng cung đã dẫn đến bước ngoặt trong tâm hồn trí tuệ đầy nhạy
cảm của Tất Đạt Đa. Sau khi chứng kiến những hình ảnh còm cõi già nua của
một cụ già, chứng kiến sự giày vò của bệnh tật, những cái chết đau thương, Tất
Đạt Đa đã nhận ra rằng bệnh tật, già yếu và cái chết là những điều bất hạnh, bi
kịch cho tất cả mọi người. Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương gia đi tu
luyện tìm con đường diệt trừ nỗi đau khổ của chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện,
ông đã “ngộ đạo”, tìm ra chân lý “tứ diệu đế” và “thập nhị nhân duyên”.
Từ đó, Người chu du khắp lưu vực sông Hằng truyền bá đạo của
mình. Tôn giáo mới gắn liền với tên tuổi của Người đã hình thành và dần dần lan
rộng ra nhiều vùng của Ấn Độ đương thời. Và được gọi là Phật giáo( giáo lý
giác ngộ) .
Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết
thành văn thể hiện trong kinh "Tam tạng"(Tripitaka) gồm ba bộ phận: 1) Tạng
kinh (Sutra - pitaka) ghi lời Phật dạy; 2) Tạng luật ( Vinaya - pitaka) gồm các
giới luật của đạo Phật; 3) Tạng luận ( Abhidarma - pitaka) gồm các bài kinh, các


tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau.
1.1.2. Nh÷ng quan ®iÓm vÒ nh©n sinh quan PhËt gi¸o.
* Về con người:

- Trong bộ Dị Bộ Tôn Luân Luận có câu: “ Tất cả những kết quả tốt đẹp
giác ngộ đều thực hiện bởi con người”. Đạo Phật đặt con người lên một vị trí hết
sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp
nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người từ bi hỉ xả sẽ kiến lập một
xã hội hoà bình, an lạc, công bằng mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập
thể.
Trái lại, con người ích kỉ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn
bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng trở thành khí cụ sát hại và xã hội
của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
- Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm
hai yếu tố chính: yếu tố sinh lí( sắc) và yếu tố tinh thần( thụ, tưởng, hành, thức).
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị,
diệt. Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên ta rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng
con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không
khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường
tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các
việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm
xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.
* Nhân sinh quan:
- Thừa nhận quan niệm “luân hồi” và “nghiệp” trong Phật giáo đặc biệt
chú trọng triết lí nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho chúng sinh khỏi
vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn( Nirvana).


- Từ sự lí giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni đã
đưa ra thuyết “tứ diệu đế” và “ thập nhị nhân duyên” để giải thoát chúng sinh ra

khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu
của đạo Phật.
“Tứ diệu đế” là bốn chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn
hết, gồm: khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế. Trong đó đạo đế chỉ ra con đường
diệt khổ đạt tới giải thoát, đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân
gồm 8 nguyên tắc: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính
mệnh, chính tịnh tiến, chính niệm, chính định.
Như vậy trong giai đoạn đầu, thế giới quan nhân duyên của Phật giáo đã
có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát. Đạo Phật là tiếng nói phản kháng
chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng
và bình đẳng xã hội, nêu lên ước nguyện giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch
cuộc đời, khuyên người ta sống đạo đức, từ bi bác ái. Đó là những ưu điểm của
triết lý Phật giáo. Tuy nhiên, triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ
yếu khi coi thế giới hiện tượng là ảo giả, huyễn hoặc. Trong cách giải quyết về
sự đau khổ của con người , xem xét con người trong tính nhân bản mà lại tách
con người ra khỏi xã hội loài người, dẫn tới nhị nguyên.
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NHÂN
SINH QUAN NGƯỜI VIỆT
Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỉ II sau Công nguyên. Trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. Trong qua
trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều đóng góp,
cũng như ảnh hưởng đến nhân sinh quan người Việt Nam.
2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống đạo đức Việt Nam
Đạo đức Phật giáo được xây dựng trên cơ sở thuyết Nghiệp báo , vì
vậy Phật mong muốn trước hết con người phải làm thiện từ tâm , thân , khẩu. Tư


tưởng căn bản, chủ yếu của đạo đức Phật giáo là tinh thần vô ngã, vị tha, từ bi hỉ
xả đã thấm nhuần vào tâm hồn người Việt. Tinh thần ấy là hệ quả được rút ra từ
vô thường, vô ngã, bình đẳng, công bằng. Tinh thần vô ngã, vị tha có tác dụng

để cho tâm , thân được rộng rãi, vô tư, đồng thời tạo cho con người có một tấm
lòng khoan dung rộng lớn.
Có thể nói, đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào đạo lý truyền
thống dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục tập quán của
con người. Người Việt tiếp nhận đạo phật không phải chỉ là nội dung triết lý mà
quan trọng là hành vi đạo đức mang tính thiện, họ tiếp thu Phật giáo không phải
với tư cách là một hệ tư tưởng với các giáo lý cao siêu, mà là những điều rất gần
gũi với tâm tư tình cảm của mình. Điều này lí giải việc một bộ phận người dân
Việt Nam không hiểu một cách tường tận các triết lí trừu tượng của đạo Phật về
vô ngã, vô thường, thập nhị nhân duyên,...nhưng họ vẫn tự coi mình là tín đồ của
đạo Phật. Hầu như tất cả người dân Việt Nam đều tin rằng sống có đạo đức thì sẽ
gặt hái được những điều thiện, may mắn; sống vô đạo đức, trái luân thường đạo
lý thì sẽ bị quả báo. Điều này giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định “ Tín
ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân không biết gì về
triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu phúc, chỉ biết chuyện quả báo, luân hồi.
Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành một thứ đao đức học từ bi, bác ái, cứu khổ,
cứu nạn là hạt nhân, chúng sinh có thể hiểu và làm được, không cao xa, rắc rối
như triết lý Phật giáo nguyên thủy. Tu nhân tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng
phúc ở kiếp sau” [tr.495, 2].
2.1.1 Đạo Phật ảnh hưởng đến chủ nghĩa yêu nước
Trong hệ giá trị đạo đức xã hội của người Việt, các giá trị điển hình là tinh
thần yêu nước, lòng thương người, tinh thần đoàn kết, ....trong các giá trị đó nổi
bật nhất là tinh thần yêu nước. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực đạo
đức cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền thống, gắn liền với tâm
thức của mỗi người dân Việt Nam. Yêu nước là đặt lợi ích của đất nước, của


nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, có
ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc.
Giáo lý từ bi của nhà Phật khi gặp gỡ với tinh thần yêu nước, lòng thương

người của người Việt Nam đã góp phần tạo dựng nên một nếp nghĩ, một cách
sống, một giá trị đạo đức trong đời sống của người Việt. Khi Phật giáo hoà nhập
với đời sống văn hoá đạo đức của người Việt, nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo
đã gắn kết hài hoà với tinh thần yêu nước tốt đẹp của người Việt. Tư tưởng “cứu
khổ cứu nạn” xuất phát từ tâm từ bi hướng thiện của Phật giáo rất phù hợp với
truyền thống đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ dân
tộc của dân tộc Việt Nam.
Trong cuộc sống hằng ngày, Người Việt Nam vẫn luôn tâm niệm “thương
người như thể thương thân”, luôn trọng tình nghĩa “vì tình vì nghĩa ai vì đĩa xôi
đầy”, nhưng chữ “tình” ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi đồng bào, quốc gia,
dân tộc, mà còn đối với cả kẻ thù. Trong lịch sử, đã bao lần các tù binh chiến
trinh được đối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh. Lòng từ bi, bác ái của đạo đức
Phật giáo đã thấm nhuần vào tư tưởng người dân việt.
2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức
Thông qua Phật giáo chúng ta có thể tìm thấy nhiều nội dung tư tưởng
mang tính giáo dục sâu sắc. Mục tiêu giáo dục của đạo Phật là con người giác
ngộ, con người có năng lực tự giải thoát để đạt tới hạnh phúc. Tuy nhiên, theo
phật giáo quá trình vươn lên hoàn thiện mình, con người cần phải nắm vững quy
luật khách quan, phải có những phương thức hành động đúng đắn, hợp quy luật
hay còn gọi là gắn liền với đạo đức. Giới là phương tiện dẫn dắt con người vượt
khỏi bể khổ, luân hồi. Ngũ giới của đạo Phật bao gồm: không sát sinh, không
trộm cắp, không gian dâm, không nói dối, không uống rượu. Có thể thấy, những
nội dung mà ngũ giới đề cập đến không chỉ có ý nghĩa nuôi dưỡng lòng từ bi mà
còn hướng tới xây dựng một xã hội đạo đức, ổn định.


Như vậy phật giáo trong suốt chiều dài lịch sử đã khẳng định vai trò
giáo dục đạo đức xã hội của mình. Quan điểm nhân quả, luân hồi, nghiệp báo
của nhà Phật chứa nội dung giáo dục rất lớn. Điều này góp phần hoàn thiện đạo
đức cá nhân cũng như có lợi cho việc xây dựng một nền đạo đức tốt đẹp trong xã

hội.
2.2 Ảnh hưởng của phật giáo đến văn hóa truyền thống
2.2.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là
thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thân được thờ nhiều nhất là tứ
pháp: Mây- Mưa- Sấm- Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được “Phật hóa” ,
các pho tương thường được gọi là Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi
và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này đều được điêu khắc theo tiêu
chuẩn của tượng Phật. Người Việt Nam đưa các vị thần, Thánh, Mẫu thành
hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc,...vào thờ trong chùa.
2.2.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác
- Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho
và đạo Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì
đặc tính dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín
ngưởng truyền thống của dân tộc Việt.
- Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu công
nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi
tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên Tam giáo đồng nguyên (cả ba tôn
giáo có cùng một gốc) và Tam gió đồng quy (cả ba tôn giáo cùng có một mục
đích). Trong nhiều thế kỉ, hình ảnh Tam giáo tổ sư với Thích Ca Mâu Ni ở giữa,


Lão Tử ở bên trái, Khổng tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người dân
Việt.
- Ngoài ra, Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả tôn giáo khác
để hình thành Đạo Cao Đài vào những năm 20 của thế kỉ XX với quan điểm “
Thiên nhân hợp nhất- Vạn giáo nhất lý”
2.2.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo
- Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi vào Việt Nam trộn lẫn với

nhau. Dòng thiền Tỳ ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư như
ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không điều nổi tiếng là giỏi phép
thuật trong việc trừ tà, chữa bệnh. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như
là trong việc tụng niệm Phật a Di Đà và Bồ Tát.
- Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng
Phật, Bồ tát,....của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu
hướng kết hợp Đại thừa với Tiểu thừa, nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa
nhưng lại mang giáo lý của Đại thừa; Bên cạnh Phật thích Ca Mâu Ni còn có các
tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam.
- Trong quá trình hình thành các tông phái cũng như dung hòa giữa các
tông phái khác nhau của đạo Phật ở Việt Nam không có những mâu thuẩn đối
lập, mà tất cả điều quy về một mục đích chính là tu hành giải thoát. Phải chăng
sự thống nhất về ý thức tư tưởng, dung hòa giữa các tông phái và đoàn kết dân
tộc đã uốn nắn Phật Giáo Việt Nam theo con đường dung hòa thống nhất đó?
Đây là một nét đặc trưng rất riêng của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia
Phật Giáo trong cùng khu vực Á Đông.
2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tập quán
2.3.1. Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục ăn chay, phóng sanh, bố thí


- Ăn chay hay ăn lạc xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật Giáo. Đạo Phật
không muốn sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn
chay tuy có khác nhau trong từng tháng nhưng cùng giống nhau ở quan điểm Từ
Bi, Hỉ Xả của Đạo Phật.
- Ngoài ra ăn chay cũng hợp với thói quen của người Á đông, chú trọng
về các loại ngũ cốc hơn là thịt động vật. Ăn chay giúp cơ thể nhẹ nhõm, có lợi
cho sức khỏe, chính vì vậy hầu hết người dân Việt Nam từ xưa đến nay đều chịu
ảnh hưởng của nét văn hóa này.
- Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Cũng
xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật tục lệ bố thí và phóng sanh đã ăn sâu

vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nhân lao động. Đầu năm, vào ngày rằm
và mùng một, nhất là dịp rằm tháng giêng, người Việt thường mua chim, cá,
rùa,..sau khi cúng lễ xong thì đem phóng sinh. Người dân thích làm phước bố thí
và săn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn thể hiện đạo lý của dân tộc “lá lành
đùm lá rách”.
2.3.2. Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ Chùa
- Quan niệm sóc vọng của Phật giáo Đại thừa: ngày rằm, mồng một là
ngày mặt trăng và mặt trời thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có thể
liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt đến cõi giới khác. Vì
vậy người dân đến chùa để cầu an cho gia đình.
- Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ
lâu đời. Tục này xuất phát từ lòng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Tín
ngưỡng này được một số bình dân nhập làm một với Đạo Phật, Phật Giáo có
nhiều kinh đề cập đến vấn đề này như: Kinh Vu Lan, Kinh Báo Phụ Mẫu Ân...
Vào những ngày rằm, mồng một, những gia đđ ình không theo đạo Phật cũng mua
hoa quả, thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.


- . Ngoài ngày rằm, mùng một thì người dân còn đi chùa, lễ Phật vào
các ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, ngày Phật Đản và rằm lễ tháng
7( Lễ Vu Lan), nhất là các ngày hội lớn của tôn giáo, của dân tộc (Tết Nguyên
Đán) hoặc ngày quốc giỗ của dân tộc (giỗ tổ Hùng Vương),… Điều này phù
hợp với nét sinh hoạt cộng đồng,sinh hoạt truyền thống của dân tộc tại nên nét
sinh hoạt văn hoá đẹp của dân tộc.
- Những ngày đại lễ Phật Giáo vừa nêu trên là chất keo gắn bó người
dân Việt, nâng cao tình yêu thương đồng loại và nảy nở lòng hy sinh, tính vị tha,
củng cố ḷòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ. Ảnh hưởng đó ngày càng sâu rộng
trong quần chúng nhân dân.
2.4.Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn học, nghệ thuật
“Những hội họa, kiến trúc, điêu khắc Phật giáo, đó là những vốn văn hóa

đáng quý giá đối với chúng ta ngày nay” [tr.85;4]
- Ảnh hưởng qua nghệ thuật sân khấu các tác phẩm hát chèo, kịch
nói,....đặc biệt triết lý nhân quả của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các
bài tuồng. Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo,...đó là hầu hết kết cục của những tác
phẩm sân khấu trên. Qua đó khuyên người ta sống thiện, phát tâm bồ đề, từ bỏ
những việc ác, hại người hại đời. Phật giáo ảnh hưởng đến văn học viết ở Việt
Nam qua các tác phẩm thơ, văn,...những áng thơ nổi tiếng như Truyện Kiều của
đại thi hào Nguyễn Du, tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia
Thiều,...đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo.
- Tư tưởng Phật giáo còn ảnh hưởng đến tư tưởng của người dân Việt thông
qua các câu chuyện cổ tích như Tấm Cám, Cây khế,...và trong những câu ca dao vô
cùng phong phú như những kì hoa dị thảo tô thăm vườn văn học Việt Nam, và tinh
thần Phật giáo trong ca dao cũng hòa quyện với văn hóa dân tộc góp phần tăng giá
trị tư tưởng văn hóa dân tộc, bồi đắp cho nền văn hóa dân tộc được trường tồn.
Trong văn học nói chung, đạo Phật đã và đang là nguồn cảm hứng bất tận cho


những tâm hồn nghệ sĩ viết lên cái tinh túy, khát khao được sống trong thế giới đầy
nhân văn, bác ái. Đấy là tất cả ý nghĩa cao cả của lòng từ bi đã hội nhập vào dòng
văn hóa truyền thống dân tộc.
- Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó là về kiến trúc, điêu khắc: Kiến trúc
là sản phẩm nhân tạo, cho nên cũng chính là văn hóa và sự phát triển của nó đánh
dấu bước tiến của văn minh. Phật giáo ảnh hưởng khá sớm tới kiến trúc, điêu khắc,
hội họa của nước ta. Khi Phật giáo du nhập vào thì 2 loại kiến trúc mới xuất hiện là
chùa và tháp. Kiến trúc theo kiểu kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác trốn, với mái
cong tường thấp như bông hoa bình dị nở ra từ mặt đất, không tách rời mà giao hòa
với thiên nhiên, với vạn vật chúng sinh. Tính tiện ích của nghệ thuật kiến trúc Phật
giáo đã cho thấy sự gắn bó giữa Phật giáo và cuộc cống thiên nhiên miền nhiệt đới
gió mùa Việt Nam.
- Về điêu khắc, nhiều viện bảo tàng lớn ở Việt Nam có nhiều cốt tượng,

phù điêu của Phật giáo được trưng bày như tượng Phật bà Quan Âm nghìn mắt
nghìn tay,...Còn hội họa, mái chùa cổ kính lưng tựa núi, hay những pho tượng
Phật,.... là niềm cảm hứng cho các tác giả sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
vô giá.

Chương III. Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy tích cực, hạn
chế tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đối với nước ta hiện nay.
Trong qua trình du nhập và phát triển suốt 2000 năm qua, Phật giáo đã có
những ảnh hưởng tích cực, tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của người
dân Việt, nhưng bên cạnh đó còn những điểm hạn chế. Trong điều kiện hội
nhập, cũng như định hướng phát triển đất nước chúng ta hiện nay, việc quan tâm


đúng mức đến Phật giáo nói chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng, cùng
những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tôn giáo này đến xã hội Việt Nam là
điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Trên cơ sở tham khảo những công trình nghiên cứu về đạo Phật; tình hình
Phát triển của Phật giáo trên đất nước ta; những quan điểm,chủ trương của Đảng
và Nhà nước đối với phát triển tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, qua đó
tác giả xin đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến nhân sinh quan con người Việt Nam.
3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà nước đối với tôn giáo nói
chung và Phật giáo nói riêng
Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo trước hết là dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Tôn giáo,
đồng thời căn cứ vào đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam cũng như kinh
nghiệm quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo của Đảng và nhà nước ta. Quan
điểm được thể hiện nhất quán trong các văn bản về vấn đề tôn giáo của Đảng và
Nhà nước trong đó phải kể đến Nghị quyết 24 – NQ/TW của Bộ chính trị (khóa
VI) năm 1990, yêu cầu mới đòi hỏi phải có sự đổi mới về tư duy về công tác tôn

giáo; Chỉ thị 37 CT/TW năm 1998; Nghị định 26-1996- NĐ/CP; Văn kiện đại
hội ĐẢng X khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của
các tôn giáo” [tr.122-123; 13]; Nghị quyết hội nghị 7 Ban chấp hành Trung ương
khóa IX về công tác tôn giáo, hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc Việt
Nam, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Tất cả chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật của Nhà nước có liên
quan đến Tôn giáo đều nhằm mục đích chung là thực hiện tự do tín ngưỡng tôn


giáo đối với mọi công dân; đảm bảo tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật
nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo, đóng góp cho đời sống xã hội
đồng thời hạn chế việc lợi dụng tôn giáo chống lại lợi ích chung của nhân dân và
Nhà nước. Việt Nam thực hiện bình đẳng tôn giáo. Hiện nay nước ta có khoảng
12 tôn giáo đã được công nhận.
- Đạo Phật ở Việt Nam đã trải qua ngần 2000 năm du nhập và phát triển,
đạo Phật được các vị thiền sư người việt bản địa hóa, khiến đức Phật hòa mình
vào lòng dân tộc tạo nên những sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Cùng với
những tích cực trong nội dung tư tưởng và sự gần gũi với văn hóa truyền thống
của dân tộc, đạo Phật đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống dân tộc
Việt Nam và đang ngày càng khẳng định vị trí của mình.
3.2. Một số giải pháp cơ bản để phát huy tính tích cực, han chế tính tiêu
cực của nhân sinh quan phật giáo
3.2.1. Tôn trọng, bảo vệ, quản lý tốt hoạt động của Phật giáo
Thông qua các văn kiện đại hội Đảng, các chính sách của Đảng và Nhà
nước đã cho thấy sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng của mọi công dân
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ lúc mới thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, đã trịnh trọng công bố nguyên tắc; tín ngưỡng tự do và lương-giáo

đoàn kết. Nguyên tắc đó là cốt lõi tư tưởng chiến lược trước sau như một của
Đảng ta về lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo.
- Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định đối với quy mô, tổ chức
các hoạt động, tín ngưỡng của đạo Phật, cần có các biện pháp xử lí các hình thức
biến tướng làm ảnh hưởng khá lớn đến đời sống tinh thần và vật chất của nhân
dân, gây mất trật tự xã hội.
- Có thể tham khảo kinh nghiệm một số nước trong khu vực có sự
tương đồng về văn hóa về phương pháp quản lí đối với tôn giáo này, để có thể
vừa đáp ứng được nhu cầu tự do tôn giáo của nhân dân, vừa phù hợp vớp pháp


luật, và là cơ sở thuận lợi, ảnh hưởng tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
3.2.2. Bảo vệ cơ sở vật chất và tôn trọng các nghi lễ của Phật giáo
Trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã có những nội dung
nêu rõ cần phải bảo vệ và tôn trọng cơ sở vật chất, các nghĩ lễ Phật giáo, đây là
việc làm có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên trên thực tế, đây là vấn đề còn nhiều
bất cập và vẫn diễn ra những hành vi tiêu cực mà Đảng và Nhà nước ta chưa giải
quyết được
- Chùa không chỉ đơn thuần là nơi thờ tự mà còn là một trung tâm văn
hóa, một trung tâm lưu giữ những giá trị văn hóa và tinh thần của dân tộc. Hiện
nay rất nhiều ngôi chùa, qua sức mạnh của thời gian đã bị xuống cấp nghiêm
trọng cần phải được tôn tạo, xây dựng và bảo vệ.
- Các ngôi chùa mang còn đang lưu giữ những bức tượng phật cổ, các đồ
vật cổ mang giá trị lịch sử và văn hết hết sức sâu sắc đang gặp phải tệ nạn trộm
cắp, điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nơi. Vì vậy,cơ quan an ninh, các cấp
chính quyền cần có những phương án để bảo vệ và lưu giữ những đồ vật không
chỉ có giá trị vật chất mà còn có giá trị tinh thần to lớn này.
- Ở một số địa phương hiện nay, có hiện tượng chiếm dụng đất của
nhà chùa để phục vụ lợi ích cá nhân một cách bất hợp pháp. Điều này ảnh hưởng

rất lớn đến cảnh quan sinh hoạt tín ngưỡng, đe dọa đến môi trường. Vấn đề đặt
ra là các cơ quan chức năng cần có biện pháp xử lí những hành vi xâm phạm,
tăng cường tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân về ý thức bảo vệ các di
tích, lịch sử, ý thức bảo vệ tài sản của chùa- là tài sản chung của nhân dân Việt
Nam.
3.2.3.Tăng cường công tác quản lý của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động
và tổ chức của Phật giáo nói riêng, tôn giáo nói chung


- Hiện nay hệ thống quản lý tôn giáo của nhà nước đã và đang được kiện
toàn từ Trung ương cho đến cơ sở. Song đội ngũ cán bộ cò nhiều hạn chế do
trình độ hiểu biết, năng lực thực tiễn còn thấp...Vì vậy, trước sự biến đổi nhanh
chóng của tôn giáo thì việc quản lý tôn giáo còn tỏ ra lúng túng, bị động. Việc
tuyên truyền chính sách của Đảng, phát hiện và ngăn chặn những phần tử xấu lợi
dụng tôn giáo chưa đồng bộ, kém hiệu qủa.
Trước tình hình đó, việc tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác
tôn giáo, xây dựng các tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng và nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể quần chúng là việc làm cấp thiết hiện nay.
- Cần tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc quản lý đối
cới các hoạt động của Phật giáo; làm tốt công tác quản ly; trách nhiệm không chỉ
thuộc về cơ quan quản lý về văn háo hay tôn giáo mà còn là trách nhiệm của các
ngành, các cấp và của toàn xã hội. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, cần phải phân định rõ trách nhiệm của từng cơ
quan, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan, tránh sự chồng chéo. Các
đoàn thể và Mặt trận có trách nhiệm vận động quần chúng tín đồ và các chức sắc
tôn giáo thực hiện các phong trào sống tốt đời đẹp đạo, cùng nhau góp phần bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc để dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
- Cần quản lý các hoạt động và tổ chức của Phật giáo bằng luật pháp chính là
tạo điều kiện pháp lí cho Phật giáo phát triển, là cơ sở để tăng cường đoàn kết xây

dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy tính tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
Phật giáo Việt Nam, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội.
3.2.4. Từng bước khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo
Sinh hoạt Phật giáo gắn bó chặt chẽ với tâm lý truyền thống và niềm tin
tôn giáo của nhân dân ta từ lâu đời. Dù tôn giáo là “tiếng thở dài của chúng sinh
bị áp bức”, nhưng nó vẫn cứ còn là một nơi không ít người dựa vào để trút vợi


nỗi khổ đau chất chứa trong lòng. Dù tôn giáo là thứ “hạnh phúc hư ảo” của
nhân dân, nhưng quần chúng vấn đón nhận và coi như “hạnh phúc” chừng nào
chưa có hạnh phúc thật sự. Trong Phật giáo người ta tìm thấy nguồn an ủi, vỗ
về, xoa dịu bớt nỗi đau đang hiện hữu nơi trần thế.
Nhưng Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, ngoài mặt tích cực ra còn
có mặt tiêu cực của nó. Niềm tin ở sức mạnh vạn năng của Phật ( Bụt), Bồ Tát...
đã hạ thấp vai trò của con người, làm mất tính chủ động, sáng tạo vốn là bản
chất của con người xã hội. Giáo lý và các nghi lễ của Phật giáo có phần đề cập
đến sự thiêng liêng, đến nghiệp chướng, đến luân hồi...phần nào tạo cơ sở cho sự
cầu xin hư ảo, cho mê tín dị đoan xuất hiện.
Những năm qua, những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để trục lợi cá
nhân như xây dựng chùa trái phép, nhân danh phật giáo kêu gọi phật tử đóng
góp nhưng thực chất là để vun vén cá nhân, đặc biệt hiện tượng mượn danh phật
giáo để tiến hành các hoạt động mê tín dị đoan đang diễn ra ngày càng phổ biến
trên đất nước ta, gây tổn hại đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Bên cạnh đó một số tín đồ chức sắc trong Phật giáo bị các thế lực thù
địch lôi kéo, đi ngược lại với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, với
lợi ích của dân tộc .Gây hoang mang dao động trong tư tưởng của nhân dân, lục
đục nội bộ và phương hại đến đại đoàn kết dân tộc.
Vì vậy Đảng và nhà nước cân nâng cao nhận thức cho quần chúng
tín đồ, nâng cao tinh thần cảnh giác và xây dựng lực lượng cách mạng trong
quần chúng tín đồ Phật giáo.Khắc phục mặt tiêu cực trong Phật giáo hiện nay là

yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng con người, đấu tranh chống các
thế lực xuyên tạc, lợi dụng tôn giáo, là yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh
chính trị nhằm thủ tiêu chế độ bất bình đẳng, xây dựng xã hội mới tốt đẹp,
nhưng điều đó không có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn Phật giáo, không biết kế thừa
những gì có ý nghĩa nhân bản tốt đẹp trong nó. Song, thực hiện lý tưởng trên


không phải trong ngày một ngày hai, mà đây là cả quá trình lâu dài, phức tạp.
Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta phải tập trung toàn tâm toàn ý để thực hiện
thành công nhiệm vụ khó khăn mà quan trọng này.
3.2.5.Nâng cao nhận thức, đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân chẳng những là mục
tiêu của Đảng và Nhà nước ta mà còn là nguyện vong tha thiết của nhân dân ta
từ bao đời nay. Ý nguyện này là tất yếu khách quan của cuộc sống loài người,
song để thực hiện nó không hề giản đơn, không phải chỉ bằng trí tuệ, công sức
mồ hôi mà nhiều khi phải đánh đổi bằng cả tính mạng và xương máu.
- Sự phát triển của kinh tế-xã hội và đời sống tinh thần là nền tảng của tiến
bộ lịch sử, nó dẫn tới hoàn thiện con người như một thực thể đạo đức, dẫn tới
phát triển ở con người tình cảm đối với nghĩa vụ xã hội, hiểu biết trách nhiệm
trước tập thể và gia đình.
- Phối hợp giữa các tổ chức chính trị, nhà trường với các cơ quan làm
công tác tư tưởng văn hoá trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
của xã hội về văn hoá tôn giáo.
- Giáo dục thế giới quan khoa học cho học sinh còn ngồi trên ghế nhà
trường giữ vai trò quan trọng trong việc xoá bỏ ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
nói chung và Phật giáo nói riêng, việc củng có niềm tin khoa học cho thế hệ trẻ
là vô cùng cần thiết.
- Lôi cuốn giới phật tử vào hoạt động thực tiễn thông qua hoạt động sản
xuất, chính trị, xã hội. Qua những hoạt động thực tiễn này sẽ khơi dậy trong con
người tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần trách nhiệm với mọi người, nâng cao

niềm tin khoa học, giảm thiểu đi các hoạt động mê tín dị đoan đang ngày càng
phát triển ở đất nước ta.


Các giải pháp cần phải thực hiện đồng bộ nhằm đẩy lùi những ảnh hưởng
tiêu cực một cách nhanh chóng và hiệu quả, giảm thiểu những thiệt hại về vật
chất và tinh thần mà nhân dân ta đang gánh chịu.

KẾT LUẬN


Phật giáo là tôn giáo lớn đã có hơn 2000 năm phát triển ở Việt Nam.
Trong quá trình du nhập và phát triển của mình, Phật giáo đã có những đóng góp
về nhiều mặt cho đời sống xã hội của người Việt Nam Hơn 2000 năm Phật giáo
nhập thân vào dân tộc và để lại dấu ấn sâu đậm của mình trong đời sống của
người dân Việt Nam nói chung và nhân sinh quan của người Việt nói riêng.
Ở Việt Nam hiện nay, Phật giáo đang được tạo điều kiện để phát huy
ảnh hưởng tích cực trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và văn học nghệ thuật.
Nhận diện những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Phật giáo đến nhân sinh
quan người Việt là việc làm cần thiết trong quá trình xây dựng lối sống mới ở
Việt Nam hiện nay. Và với triết lý nhân sinh cao đẹp của mình, Phật giáo đã,
đang và sẽ sống mãi trong tâm hồn người dân đất Việt yêu chuộng tự do, hòa
bình ngày hôm nay và cho đến tận mai sau.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Nguyễn Đăng Dung, Tư tưởng Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà


Nội,1999, Hà Nội.
2. GS. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
khoa học xã hội,1980, Hà Nội.
3. PGS-TS.Nguyễn Hùng Hậu, Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam , Nxb Khoa
học xã hội, 2002, Hà Nội.
4. PGS- TS. Nguyễn Hùng Hậu,Triết lý trong văn hoá phương Đông, Nxb Đại học
sư phạm, 2004, Hà Nội.
5. Phương Kỳ Sơn, Lịch sử Triết học, NXB Chính trị Quốc gia,1999, Hà Nội.
6. GS- TS. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật Giáo Việt Nam , NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2006, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. GS- TS. Lê Mạnh Thát, Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam, NXB Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999,
Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Đoàn Quan Thọ, giáo trình triết học, Nxb Lý luận chính trị, 2007, Hà Nội.
10.
Minh Thuận, Phật học căn bản, Nxb Tôn giáo, 2008, Hà Nội.
11.
PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam,Viện Triết
học, 1991, Hà Nội.
12.
Nguyễn Tài Thư, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay NXB Chính trị Quốc gia,1997, Hà Nội.
13.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006.




×