Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Khoa học và công nghệ Nhật Bản từ năm 2000 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.77 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
BỘ MÔN LỊCH SỬ THẾ GIỚI
BÁO CÁO KHOA HỌC SINH VIÊN
−−−−÷÷÷÷÷÷÷÷÷−−−−

ĐỖ GIA HÙNG

CHÍNH SÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
NHẬT BẢN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

Sinh viên: K58_Lịch sử CLC
MSSV: 13030712
Thầy hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh
Dũng


HÀ NỘI – 2016

Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy TS.
Nguyễn Mạnh Dũng, người đã hướng dẫn, quan tâm, giúp đỡ rất tận tình để em có
thể hoàn thành bài nghiên cứu khoa học cấp độ sinh viên này.
Em cũng xin bày tỏ lời cám ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn. Đặc biệt là các thầy, cô Bộ môn Lịch sử Thế giới - Khoa
Lịch sử đã giảng dạy cho em những kiến thức, kỹ năng để có thể vận dụng trong
quá trình thực hiện.
Em xin được gửi lời cám ơn các thầy, cô giáo, cán bộ thư viện Đại học Quốc
gia Hà Nội, Phòng tư liệu Khoa Lịch Sử, Thư viện Quốc Gia đã giúp đỡ để em có
nguồn tư liệu khai thác, hoàn thành bài báo cáo khoa học của mình.


Bên cạnh đó, em cũng xin gửi lời cảm ơn các bạn trong nhóm nghiên cứu
trẻ: Doãn Tùng Anh, Nguyễn Tuấn Quang, Trần Văn Mạnh đã lên ý tưởng cũng
như cung cấp tư liệu sưu tầm để thực hiện nghiên cứu này.
Do lượng kiến thức và quá trình tìm hiểu tư liệu còn hạn chế nên bài viết
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo, rút
kinh nghiệm của các thầy, cô!
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 24 tháng 3 năm 2016
Sinh viên


Đỗ Gia Hùng

Mục lục


Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là một tiến trình dài theo thời gian.
Thế giới quả là rộng lớn và tri thức của chúng ta và vô hạn. Làm thế nào để người
ta có thể hình dung lại lịch sử thế giới chỉ với những giấy và bút? Các nhà khoa
học nói chung và các nhà viết sử nói riêng đã rất thông thái khi chia một khối lịch
sử nhân loại thành các mảng nghiên cứu khác nhau rồi tổng kết chúng lại. Có
những nhà nghiên cứu lựa chọn cách diễn giải lịch sử thông qua sự hưng thịnh rồi
suy tàn của các đế chế, số khác lại lựa chọn cách giải thích thế giới thông qua sự
phát triển của những làn sóng văn minh. Dù theo cách diễn giải thế nào về lịch sử
thế giới, thì chúng ta không thể phủ nhận vai trò trung tâm của con người đối với
sự phát triền của nhân loại. Song, đến lượt mình, con người nếu muốn xây dựng
nên các đế chế hùng mạnh, hay chuyển biến xã hội theo các dạng thức văn minh

tiến bộ đều phải không ngừng tìm tòi và sáng tạo ra công cụ lao động sản xuất mới.
Đó chính là khoa học và công nghệ. Nói cách khác, khoa học và công nghệ đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong sự phát triển của lịch sử loài người.
Thế kỷ XX, đặc biệt là từ những năm 70 trở về sau, thế giới đã chứng kiến
những thay đổi vô cùng mau lẹ của công nghệ mới. Nó đi vào mọi ngóc ngách của
đời sống kinh tế - xã hội và chi phối sức mạnh, vị thế của mỗi quốc gia. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc ưu tiên phát triển kinh tế, áp dụng những thành
tựu mới nhất của khoa học, công nghệ hiện đại là nhu cầu tất yếu khách quan của
mọi quốc gia trên thế giới. Các cường quốc về khoa học và công nghệ hiện đại
ngày nay như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh… cũng đều là các cường quốc lớn
trên thế giới về kinh tế, tài chính và quân sự.

4


Trong số đó, Nhật Bản là lá cờ đầu của châu Á đi tiên phong trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ hiện đại có thể sánh vai với các cường quốc phương Tây.
Ngày nay, Nhật Bản vẫn thường được gọi với những cái tên hoa mỹ như “đất nước
của robot”, “đất nước của công nghệ”. Nhưng để đạt tới trình độ phát triển cao như
ngày hôm nay, Nhật Bản đã phải trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử. Người
Nhật đã xây dựng lại đất nước của mình từ một đống tro tàn của chiến tranh thành
một siêu cường hàng đầu thế giới về kinh tế và công nghệ. Lý giải sự thành công
của Nhật Bản đến từ nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố quyết định hàng đầu là
chính phủ đã chú trọng, đề ra chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho áp dụng
những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, đem lại thành công cho
nền kinh tế và giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Trong những năm thập niên
90 của thế kỷ trước, dù gặp phải những yếu tố bất lợi của tình hình quốc tế và khu
vực, song với những đối sách phát triển mới, Nhật Bản được kỳ vọng sẽ có những
đóng góp nhiều hơn đối với khoa học và công nghệ thế giới.
Nhận thức được điều đó, tác giả lựa chọn: “Chính sách và vai trò của khoa

học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản từ năm 2001
đến năm 2010” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp sinh viên.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản ngày càng trở nên mật thiết và toàn diện.
Nhu cầu tìm hiểu về đất nước, con người Nhật Bản ngày một lớn hơn trong những
người dân Việt Nam nói chung và các nhà nghiên cứu, các học sinh sinh viên nói
riêng. Các ngành khoa học đều có những đối tượng và mục tiêu nghiên cứu khác
nhau.
Khoa học lịch sử, trong đó Khoa lịch sử của trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn (Trường Đại học Tổng hợp cũ) là một trung tâm nghiên cứu học
5


thuật hàng đầu cả nước. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cụ thể,
trước kia các nhà khoa học lịch sử Việt Nam mới tập trung nghiên cứu về lịch sử
chính trị, lịch sử chiến tranh mà các vấn đề khác của sử học chưa được quan tâm
đúng mức, trong đó lịch sử khoa học, kỹ thuật vẫn còn là một “khoảng trống” trong
nhận thức của nhiều người dân Việt Nam. Thậm chí, nhiều vấn đề của lịch sử trong
nước và quốc tế hiện đại kể từ khi bước sang những năm đầu thế kỷ XXI vẫn chưa
được giới sử học quan tâm đúng mức.
Trong xu thế mới đi lên của đất nước, tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa của Việt Nam đang đứng trước nhiều, khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, là nước
“đi sau”, Việt nam có thể học hỏi từ các quốc gia đi trước để có thể đúc rút những
bài học kinh nghiệm, “đi tắt đón đầu”, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia. Ở châu Á, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi những kinh nghiệm phát
triển của Nhật Bản, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong việc đề ra chính sách và
các biện pháp thực hiện, áp dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ vào
phát triển đất nước.
Trong bài nghiên cứu nhỏ này, tác giả tập trung đi mô tả lại những chính
sách, đường lối mà chính chủ Nhật Bản đã thực hiện trong việc phát triển khoa học

và công nghệ trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010. Cùng với đó, việc thực
thi chính sách vào thực tiễn và vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển của kinh tế - xã hội Nhật Bản cũng được trình bày trong nội dung nghiên cứu.
Việc nghiên cứu khoa học và công nghệ dưới góc nhìn từ đường lối chính sách của
các nước đi trước như Nhật Bản sẽ là những bài học cho Việt Nam học hỏi và vận
dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của mình.
Với những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, báo cáo khoa học với đề tài
“Chính sách và vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế

6


- xã hội Nhật Bản từ năm 2001 đến năm 2010”, tác giả hy vọng có thể đóng góp
một phần nhỏ vào xu hướng nghiên cứu mới trong sử học Việt Nam.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chủ đề về khoa học và công nghệ đã được nhiều học giả, các tổ chức chuyên
môn quan tâm và nhiều công trình khoa học đã được công bố. Tùy theo từng lĩnh
vực cụ thể mà các nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề theo các góc độ khác nhau.
Xét về phương diện các lý thuyết chung về khoa học và công nghệ thế giới,
chắc hẳn giới nghiên cứu không thể không nhắc đến tác phẩm kinh điển: “Cấu
trúc các cuộc cách mạng khoa học” của tác giả Thomas S. Kuhn. Mặc dù cuốn
sách đã xuất bản từ năm 1962, song giá trị của tác phẩm về lý thuyết triết học khoa
học và khái niệm Paradigm (tạm dịch là “khung mẫu”) vẫn còn ảnh hưởng lớn đến
các thế hệ sau nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng. Bên
cạnh đó, một số công trình ngoại văn gây chú ý gồm: “Technology: A world
history” (Daniel R. Headrick, Oxford 2009), “The industrial revolution in world
history” (Peter N. Stearns, 2013)… Ở Việt Nam, người đọc có thể tìm hiểu một
cách tổng quát chung nhất về lý luận cũng như tiến trình phát triển của khoa học và
công nghệ trong lịch sử thông qua một số tác phẩm đã xuất bản như: Vũ Cao Đàm:
“Tuyển tập các công trình đã công bố” , Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2009. Tuyển tập

chia thành 5 tập nhỏ bao gồm: Tập 1: Lý luận chung về khoa học và công nghệ,
phương pháp luận nghiên cứu khoa học, những nghiên cứu xã hội về khoa học
và công nghệ; Tập 2: Nghiên cứu về chiến lược và chính sách; Tập 3: Nghiên
cứu về quản lý; Tập 4: Những nghịch lý của khoa học và giáo dục trong xã hội
đương đại Việt Nam; Tập 5: Ấn phẩm công bố ở nước ngoài. Ngoài ra, độc giả
có thể tìm đọc một số công trình khác như: “Tiến bộ khoa học – kỹ thuật và hiệu
quả” (1986) của nhóm tác giả Nguyễn Điển, Nguyễn Phú Đức và Trần Thanh
Phương; các công trình “Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hóa” (1998)
7


và “Lịch sử kỹ thuật và cách mạng công nghệ đương đại” (1999) của tác giả
Hoàng Đình Phu, “Lịch sử văn minh thế giới” do Vũ Dương Ninh (chủ biên),
Là một nước có tiềm lực khoa học và công nghệ hùng hậu, Nhật Bản được
nhiều học giả và các tổ chức khoa học quan tâm đặc biệt, đồng thời lựa chọn đây là
một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng không thể thiếu.
Khi nghiên cứu các chính sách khoa học và công nghệ của Nhật Bản, sẽ là
thiếu sót rất lớn nếu chúng ta bỏ qua công trình “Lịch sử chính sách khoa học và
công nghệ Nhật Bản” được biên soạn bởi Ủy ban Lịch sử Chính sách Khoa học và
Công nghệ Nhật Bản dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Keijiro Inoue. Đây là cuốn sách
đã trực tiếp mô tả lại và phân tích các chính sách khoa học, công nghệ mà Nhật
Bản đã thực hiện, đặc biệt là thời kỳ từ sau thế chiến thứ hai đến đầu thập kỷ 90
của thế kỷ trước. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian xuất bản (năm 1991 ra
bản tiếng Anh) nên công trình này không thể mô tả những chính sách về khoa học
và công nghệ của chính phủ Nhật Bản kể từ những năm 90 (thế kỷ XX) đến nay.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đề cập tới chủ đề này qua nhiều lăng kính
khác nhau như ở góc độ kinh tế, xã hội, môi trường, quan hệ quốc tế…. Đặc biệt,
quá trình cất cánh của nền kinh tế Nhật Bản thường được các nhà khoa học gián
tiếp giải thích gắn với vai trò của khoa học và công nghệ như một nhân tố hàng
đầu. Đó là các tác phẩm: “Nhật Bản cận đại” (Vĩnh Sính, năm 1990), “Nhật Bản,

đường đi tới một siêu cường kinh tế” của hai tác giả Lê Văn Sang và Lưu Ngọc
Trịnh xuất bản năm 1998, “Kinh tế Nhật Bản – Những bước thăng trầm trong
lịch sử” (Lưu Ngọc Trịnh, năm 1998), “Lịch sử Nhật Bản” (Nguyễn Quốc Hùng
chủ biên, xuất bản năm 2007), hay như cuốn sách rất nổi tiếng: “Tại sao Nhật Bản
thành công? Kỹ thuật phương Tây và tính cách Nhật Bản” của ngài Michio
Morishima công bố năm 1995.

8


Một số công trình ngoại văn đáng chú ý khác gồm: “A modern history of
Japan – from Tokugawa Times to Present” (Andrew Gordon, 2003), “The
Japanese economy”, (David Flath, 2005), “The economic development of
Japan” (Kenichi Ohno, 2006), “Contemporary Japan: history, politics and social
change since 1980s” (Jeff Kingston, 2013)…
Những báo cáo của Hội đồng Khoa học và công nghệ Nhật Bản, một số tổ
chức quốc tế uy tín về kinh tế, khoa học và công nghệ, công nghiệp của Nhật Bản
và các quốc gia khác trên toàn cầu cũng là nguồn tài liệu quan trọng không thể
thiếu khi thực hiện đề tài nghiên cứu này. Đó là: International Monetary Fund:
“World Economic and Financial Surveys. World Economic Outlook”, 2011;
Organisation for economic co-operation and development: “Manual on the
measurement of human resources devoted to S&T”, Paris, 1995; United Nations
Educational, Scientific and Cultural Organization, “The Current Status of Science
around the World, UNESCO Science report 2010”, UNESCO Publishing 2010;
The

International

Development


Research

Center,

Canada,

“Review

of

international nanotechnology developments and policy concerns”, 2009;
Government of Japan: “Science and Technology Basic Plan”, 28/3/2006;
Government of Japan, “The Science and Technology Basic Plan (2001-2005)”,
March 30, 2001; Council for Science and Technology Policy, “Japan’s Science
and Technology Basic Policy Report”, December 24, 2010…
Kinh nghiệm thành công của Nhật Bản cũng được khai thác nhiều, chẳng
hạn như “Kinh nghiệm công nghiệp hóa của Nhật Bản và sự thích dụng của nó
đối với các nền kinh tế đang phát triển” của cặp tác giả Kazushi Okawa và
Hirohisa Kohama, “Kinh nghiệm cải cách kinh tế của Nhật Bản” do Juro
Teranishi và Yutaka Kosai (đồng chủ biên) cũng đề cập đến kinh nghiệm nhập
khẩu công nghệ của Nhật Bản chủ yếu thời kỳ phát triển nhanh thập kỷ 60.
9


Trên đây chúng tôi đã chỉ ra một số công trình tài liệu tiêu biểu đề cập tới
chủ đề khoa học và công nghệ cùng những đóng góp của nó đối với những chuyển
biến kinh tế - xã hội của Nhật Bản. Tuy nhiên, nhìn chung thì mỗi tác phẩm thường
chỉ đề cập tới một lĩnh vực nội dung chính trong một khoảng thời gian nhất định,
nên không thể đáp ứng được các vấn đề mới mà khoa học hiện nay đặt ra. Kế thừa
từ những giá trị khoa học của các học giả đi trước và đối sánh với tình hình thực tế

hiện nay, tác giả lựa chọn đề tài “Chính sách và vai trò của khoa học và công
nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản từ năm 2001 đến năm
2010” với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu sự chuyển biến của đường lối chính
sách khoa học và công nghệ trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, những đóng
góp của nó đối với nền kinh tế - xã hội Nhật Bản và rút ra một vài kinh nghiệm cho
Việt Nam hiện nay.
4. Nguồn tài liệu
Trong bài viết, tác giả sử dụng các tài liệu nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản
bằng tiếng Việt của các nhà khoa học trong nước. Tài liệu của các học giả nước
ngoài đã được dịch ra tiếng Việt. Do trình độ ngoại ngữ chưa cho phép nên tác giả
không khai thác được tài liệu tiếng Nhật. Các học liệu khác bằng tiếng Anh được
tham khảo và khai thác thông tin.
Ngoài ra, nguồn thông tin trên mạng Internet cũng được sử dụng để tham
khảo, bổ sung kiến thức không tìm thấy được trong những tài liệu mà tác giả hiện
có và lấy hình ảnh minh họa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương
pháp logic. Trong đó, phương pháp lịch sử là chủ yếu.

10


Ngoài ra, báo cáo còn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh…các số liệu, các nội dung lịch sử.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về chính sách và vai trò
của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản từ năm
2001 đến năm 2010.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: tác giả lựa chọn phạm vi thời gian từ năm
2001 đến năm 2010. Trong bối cảnh nền kinh tế bị đình trệ sau “thập niên mất

mát” những năm 90 của thế kỷ trước, đồng thời tiếp nối Kế hoạch cơ bản về khoa
học và công nghệ lần thứ nhất đã được xây dựng giai đoạn 1996 – 2000, chính phủ
Nhật Bản thực hiện Kế họach cơ bản về khoa học và công nghệ lần hai và lần ba từ
năm 2001 – 2010 nhằm nỗ lực: tiếp tục phát triển và khẳng định năng lực khoa học
và công nghệ quốc gia, mặt khác vực dậy nền kinh tế Nhật Bản sau khủng hoảng.
Phạm vi không gian: xét trong trường hợp Nhật Bản.
7. Bố cục báo cáo
Kết cấu của bài báo cáo khoa học gồm ba chương:
Chương I. Nhật Bản trước khi bước vào thế kỷ XXI
Ở chương mở đầu, tác giả chủ yếu đi trình bày một cách tổng quan về tình
hình kinh tế - xã hội Nhật Bản cuối thế kỷ XX. Đặc biệt và quan trọng hơn, tác giả
đi khái lược đường lối, chính sách và tiềm lực khoa học và công nghệ của Nhật
Bản trước gia đoạn 2001 – 2010. Đây là những bối cảnh quan trọng trước khi tìm
hiểu những nội dung chính của đề tài ở hai chương sau.
Chương II. Chính sách khoa học và công nghệ từ năm 2001 đến năm
2010
11


Đây là nội dung chính và quan trọng nhất của toàn đề tài. Những chủ trương
chính sách, phương hướng phát triển của khoa học và công nghệ Nhật Bản giai
đoạn 2001 – 2010 sẽ được trình bày trong chương này.
Chương III. Đóng góp của khoa học và công nghệ trong sự phát triển
kinh tế - xã hội Nhật Bản từ 2001 – 2010
Đây là chương cuối cùng của đề tài. Trong phần này, tác giả sẽ trình bày một
số nội dung về tác động của chính sách đối với tiềm lực khoa học và công nghệ của
Nhật Bản. Đồng thời, những đóng góp của khoa học, công nghệ đối với nền kinh tế
và xã hội Nhật Bản giai đoạn 2001 – 2010 cũng sẽ được trình bày ở chương này.
Cuối cùng là rút ra một số kết luận và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


12


Chương I: Nhật Bản trước khi bước vào thế kỷ XXI
Nhật Bản là một quốc đảo hình vòng cung nằm ở phía Đông của châu Á.
Người Nhật gọi đất nước mình là “Nihon” hay “Nippon”, tức là xứ mặt trời mọc 1.
Tổng diện tích của nước Nhật là 379.954 km 2 với dân số thống kê tháng 7 năm
2010 vào khoảng 127 triệu người, xếp hàng thứ 10 thế giới.
Vị trí địa lý và địa hình là hai yếu tố căn bản quyết định đến các thành phần
tự nhiên khác của nước Nhật. Quốc đảo này nằm trong vùng hoạt động của vành
đai lửa Thái Bình Dương. Nhật Bản chiếm tới 1/10 tổng số núi lửa còn đang hoạt
động trên thế giới. Động đất xảy ra thường xuyên vầ những trận động đất lớn còn
kèm theo cả sóng thần rất nguy hiểm. Địa hình ở Nhật Bản chủ yếu là đồi núi và bị
cắt xẻ. Chỉ có khoảng 15% diện tích đất đồng bằng, là nơi mà những cư dân của
buổi bình minh lịch sử Nhật Bản định cư và sản xuất nông nghiệp. Đổi lại, đất
nước “xứ Phù Tang” có những dòng suối nước nóng và nhiều cảnh đẹp của một địa
hình đa dạng là những nơi hấp dẫn khách du lịch.
Lịch sử Nhật Bản thời kỳ cổ - trung đại kéo dài hàng ngàn năm đã khép lại
với sự chấm dứt của kỷ nguyên Tokugawa 2 (1600-1867). Thiên Hoàng Meiji lên
ngôi mở ra một thời kỳ mới, đó là công cuộc Minh Trị Duy Tân (1868-1912) nổi
tiếng đã làm xoay chuyển nước Nhật từ một quốc gia bị đe dọa mất quyền độc lập
sang vị thế ngang hàng với các cường quốc phương Tây, từ một nước nông nghiệp
lạc hậu đóng cửa với thế giới thì nay đã đứng trong hàng ngũ các nước đế quốc
hùng mạnh. Lúc bấy giờ, sự thành công của Nhật Bản là niềm mơ ước của nhiều
dân tộc khác, trong đó có Việt Nam. Chiến thắng trước một tên đế quốc phương
1 Tên “Nhật Bản” được Marco Polo (nhà du lịch người Italia thế kỷ XIII) phiên âm là Cipango (Xipango). Do người
Nhật Bản đọc chệch âm Quảng Đông “Nhật Bản quốc” thành “Gipen quốc” nên chuyển sang tiếng Anh và Đức là
Japan và tiếng Pháp là Japon. Xem Lưu Ngọc Trịnh: Kinh tế Nhật Bản: Những bước thăng trầm lịch sử. NXB
Thống kê, Hà Nội, 1998, tr.6.
2 Còn gọi là thời Edo. Ngoài cách phân kỳ theo văn hóa, ví dụ: Văn hóa Jomon, văn hóa Yayoi, Asuka…các nhà

nghiên cứu còn gọi tên các thời kỳ lịch sử Nhật Bản ứng với tên thành phố làm trung tâm quyền lực quốc gia như
thời Nara (710-794), thời Heian (794-1185), thời Kamakura (1185-1333), thời Muromachi (1336-1573) và thời Edo.

13


Tây sừng sỏ là nước Nga khiến cho tiếng vang của người Nhật càng thêm dậy
sóng, thế giới nhìn vào sự thành công của “chú lùn châu Á” này với con mắt cả sự
ngưỡng mộ lẫn đố kị.
Sự thành công của Nhật Bản không thể không nhắc đến vai trò đặc biệt quan
trọng của khoa học và công nghệ (KH&CN) tiên tiến. Sau thế chiến thứ hai, đặc
biệt là những thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ XX, Nhật Bản chủ trương xây dựng nền
tảng (KH&CN) cao nhằm chuyển hướng nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, thúc
đẩy sự cạnh tranh của Nhật Bản trên trường quốc tế. Đồng thời, KH&CN mới cũng
góp phần giải quyết các vấn đề nan giải của xã hội và môi trường sống mà Nhật
Bản phải đối mặt. Đúng một thế kỷ kể từ cuộc duy tân Minh Trị (1868 – 1968),
nhờ có chính sách ưu tiên phát triển KH&CN, Nhật Bản đã vượt mặt các cường
quốc châu Âu, chễm chệ ngồi ở vị trí nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau
Mỹ. Tuy nhiên, để duy trì là một “ông lớn” về kinh tế và là “gã khổng lồ công
nghệ” của thế giới, Nhật Bản sẽ cần phải có những sự điều chỉnh, trước hết là chiến
lược phát triển KH&CN sao cho phù hợp. Tình hình kinh tế - xã hội có nhiều biến
động trong những năm thập niên 90, kèm với đó là sự ra đời của “Luật Khoa học
công nghệ cơ bản” (năm 1995) đã trở thành những nhân tố căn bản nhất dẫn tới sự
thay đổi trong chính sách phát triển KH&CN của Nhật Bản trong đầu thế kỷ XXI.
1.1. Tình hình kinh tế - xã hội
1.1.1. Về kinh tế
Con đường phát triển của nền kinh tế Nhật Bản từ sau thế chiến thứ hai có
nhiều bước thăng trầm. Sau những năm tháng phát triển “thần kỳ”, kể từ sau cuộc
khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, đặc biệt vào cuối những năm 80 đến hết thập kỷ
90 (thế kỷ XX), tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu có những dấu

hiệu chững lại và lâm vào tình trạng khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau Chiến tranh

14


thế giới thứ hai. Nhiều nhà kinh tế học nhận định sự suy thoái của kinh tế Nhật Bản
là do những tác nhân chính sau:
Một là: sự đổ vỡ của nền “kinh tế bong bóng”3.
Sự xẹp xuống của nền “kinh tế bong bóng” đầu năm 1990 đã làm giảm động
lực chi tiêu của người tiêu dùng cũng như giảm đầu tư kinh doanh. Người dân Nhật
Bản đã thay đổi thói quen mua sắm, thay vì sẵn sàng chi tiêu cho những hàng hóa
đắt đỏ nhưng bền thì nay đã chuyển sang lựa chọn mua hàng hóa của nước khác
(như Hàn Quốc) tuy không bền bằng hàng Nhật nhưng lại rẻ hơn. Điều này gây tác
động tiêu cực đến kinh tế và các công ty, đặc biệt là doanh nghiệp điện tử - vốn là
thế mạnh của công nghiệp Nhật Bản bị cạnh tranh khốc liệt mặc dù tỷ lệ đầu tư
công nghệ mới không hề nhỏ.
Hai là: Khả năng sản xuất dư thừa và sự tăng giá của đồng Yên
Nền kinh tế Nhật Bản đang phải gánh chịu tình trạng sản xuất dư thừa.
Trong suốt những năm bùng nổ kinh tế của thập kỷ 1980, Nhật Bản đã đầu tư
mạnh vào các nhà máy và trang thiết bị mới. Ngày nay đứng trước tình trạng suy
thoái kinh tế toàn cầu, các công ty Nhật Bản gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc
tìm đầu ra cho khối lượng lớn các mặt hàng do họ sản xuất. Ngoài ra, Nhật Bản
phải đối đầu với một môi trường kinh doanh giao dịch bất lợi. Sự tăng giá của

3 Hiện tượng bong bóng kinh tế (đôi khi còn gọi là "bong bóng đầu cơ", "bong bóng thị trường", "bong bóng tài
chính" hay "speculative mania") là hiện tượng chỉ tình trạng thị trường trong đó giá hàng hóa hoặc tài sản giao dịch
tăng đột biến đến một mức giá vô lý hoặc mức giá không bền vững. Mức giá cao thái quá này của thị trường không
hề phản ánh mức độ thỏa dụng hay sức mua của người tiêu dùng theo như các lý thuyết kinh tế thông thường. Một
đặc trưng quan trọng của bong bóng kinh tế là ảnh hưởng của nó đến thói quen tiêu dùng. Những người tham gia
vào thị trường trong đó các tài sản được định giá quá cao có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn, vì họ có cảm giác là họ

giàu hơn. Đến một lúc nào đấy, sớm muộn rồi bong bóng cũng vỡ, những người nắm giữ những tài sản bị định giá
quá cao này lại bắt đầu có cảm giác nghèo đi, đồng thời từ bỏ thói quen tiêu dùng tùy tiện của mình, gây cản trở đến
tăng trưởng kinh tế, và tệ hơn, làm trầm trọng thêm suy thoái kinh tế. Ở Nhật Bản, những năm thập niên 80 thế kỷ
XX, người dân Nhật Bản và các tổ chức doanh nghiệp cũng xảy ra hiện tượng này. Bong bóng kinh tế đổ vỡ từ sau
1990 khiến Nhật Bản lâm vào cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng mà phải nhiều năm sau mới khắc phục được.

15


đồng Yên đã làm giảm giá cạnh tranh của hàng hoá Nhật Bản trong mối tương
quan với các hàng hoá được sản xuất bởi các hãng nước ngoài.
Ba là: tác động từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam A
Nhật Bản là nước láng giềng thân cận của khu vực Đông Nam Á, với kim
ngạch buôn bán và đầu tư song phương ở mức độ cao, cũng không nằm ngoài ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng. Từ cuối năm 1990, sau khi nền kinh tế "bong bóng"
xẹp xuống, do nhu cầu trong nước không cao, sự phục hồi của kinh tế Nhật Bản
chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Đông Nam Á là một trong những thị trường xuất khẩu
lớn của Nhật Bản, do vậy sự phá giá tiền tệ và tình trạng kinh tế đình đốn ở Đông
Nam Á đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu của Nhật Bản vào khu vực.
Kể từ năm 1990, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của
Nhật Bản có xu hướng giảm đi rõ rệt.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Nhật Bản từ năm
1990 đến năm 1999 (%)4

Năm

1990

1992


1994

1996

1997

1999

Tốc độ
tăng
GDP

5,6

1,0

0,6

2,9

1,9

0.8

4 Nguồn: Lưu Ngọc Trịnh: “Kinh tế Nhật Bản – Những bước thăng trầm trong lịch sử”. Nxb Thống kê, năm 1998,
tr. 415.
Bùi Thị Hải Yến: “Giáo trình địa lý kinh tế - xã hội thế giới”. Nxb Giáo dục, 2006, tr147.

16



Từ bảng số liệu và biểu đồ cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật
Bản có xu hướng giảm đi rõ rệt từ 5,6% (năm 1990) xuống chỉ còn 0.8% (năm
1999). Điều này phản ánh quá trình bất ổn định và suy thoái trong thời gian dài của
nền kinh tế hàng đầu châu Á những năm cuối cùng của thế kỷ XX. Giữa kinh tế
với KH&CN có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Nền tảng
kinh tế mạnh sẽ là môi trường tốt để phát triển tiềm lực KH&CN mới tiên tiến, dẫn
dắt xu hướng phát triển của nhân loại. Đổi lại, sự ứng dụng KH&CN hiện đại vào
sản xuất sẽ tăng giá trị sản phẩm, đem lại lợi ích kinh tế, nâng cao tiềm lực sức
mạnh quốc gia. Do đó, để xem xét, phân tích chính sách KH&CN trong một thời
kỳ nhất định không thể không xét tới nhân tố kinh tế là điều kiện hàng đầu. Sự biến
động của kinh tế Nhật giai đoạn này sẽ còn là bài toán cho chính phủ Nhật Bản
trong sự lựa chọn chiến lược phát triển KH&CN ngay khi bước vào thế kỷ XXI.

1.1.2. Về xã hội
Bên cạnh yếu tố kinh tế, bối cảnh xã hội cũng là điều kiện không thể thiếu
khi Nhật Bản tiến hành xây dựng và thi hành các chính sách về KH&CN của mình
giai đoạn 2001 – 2010.
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển của xã hội. Tuy nhiên, “khoa học tự thân nó không trở thành hiện thực,
nếu như thiếu những con người có khả năng tiếp thu, vận dụng chúng vào thực
tiễn. Việc tạo ra năng lực nội sinh của khoa học – công nghệ gắn bó với các vấn đề

17


khác như nâng cao dân trí, giáo dục – đào tạo ra con người có tri thức để tiếp thu,
cải biến khoa học – công nghệ, chính sách phát triển…”5.
Đồng thời, để phát triển được năng lực KH&CN của mỗi quốc gia, các nước
đều phải dựa vào sự quyết định của các nhân tố cơ bản. Đó là: vai trò của nhà nước

trong việc hoạch định các chính sách đúng đắn, hợp lý và đưa các đường lối chính
sách vào thực tiễn; việc triển khai có hiệu quả những thành tựu KH&CN vào sản
xuất và đời sống; cuối cùng là nhu cầu xã hội, hay những điều kiện cụ thể mà xã
hội cho phép nó tồn tại và phát triển. Từ đó có thể thấy, bối cảnh xã hội đối với
việc đề ra mục tiêu và những biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của KH&CN
của chính phủ là vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định hàng đầu tới trình độ
công nghệ của mỗi quốc gia.
Như trên đã phân tích, sự thành bại của các công ty công nghệ của Nhật Bản
phụ thuộc rất nhiều vào thị trường nội địa. Tuy nhiên, thói quen tiêu dùng của
người dân xứ “Phù Tang” đã dần thay đồi khi xu hướng mua hàng hóa chất lượng
đủ đáp ứng, đồ bền chỉ tầm 3 đến 5 năm và có giá cả vừa phải. Hàng của Nhật vốn
nổi tiếng chất lượng cao và bền, song giá cả lại tương đối đắt đỏ. Trong bối cảnh
suy thoái của nền kinh tế thì các doanh nghiệp Nhật Bản phải chịu sự cạnh tranh
khốc liệt của các đổi thủ đến từ các nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Đài Loan...
Một yếu tố bất lợi khác mà xã hội đặt ra là sự chấm dứt giai đoạn “dân số
vàng”, thay vào đó là quá trình “lão hóa” dân số ở Nhật Bản từ nửa đẩu những năm
90. Dân số và lực lượng lao động là nguồn lực quan trọng nhất đối với bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới. Nhờ tận dụng tối đa lợi thế của nguồn lực con người mà trong
giai đoạn “dân số vàng”, đặc biệt là sau chiến tranh, Nhật Bản đã xây dựng lại đất
nước từ đống đổ nát chiến tranh thành một hùng cường kinh tế. Dân số đông cùng
5 Trần Hồng Lưu: Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay. NXB Chính trị Quốc gia – sự thật, 2011, tr. 103.

18


lực lượng lao động trẻ dồi dào vừa tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn, vừa bổ sung
lao động cho các ngành kinh tế. Tuy nhiên, sự “già hóa” dân số đã khiến cho thị
trường lao động trong nước bị thu hẹp, số người già phụ thuộc vào số người làm
kinh tế ngày càng gia tăng. Áp lực đối với các công ty, tổ chức KH&CN ngày càng

lớn khi họ buộc phải đầu tư nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ mới sử dụng
ít lao động nhưng có hàm lượng tri thức cao vào sản xuất, vừa phải đáp ứng các
nhu cầu dịch vụ xã hội đặt ra.
Bảng 2: Giai đoạn dân số vàng tại các nước Á Châu
Bắt đầu

Kết thúc

Nhật Bản

1930 - 1935

1990 – 1995

Hàn Quốc

1965 - 1970

2010 – 2015

Trung Quốc

1965 - 1970

2010 – 2015

Thái Lan

1965 - 1970


2010 – 2015

Việt Nam

1970 - 1975

2020 – 2025

Nguồn: K. Oizumi, Oiteiru Ajia (A châu lão hóa), Chukoshinsho, 2007.6

1.2. Khái lược đường lối, chính sách và tiềm lực KH&CN
Khoa học và công nghệ là sức mạnh của quốc gia và là động lực của phát
triển kinh tế. Công nghệ tiên tiến tạo ra sản phẩm có giá trị, đem lại lợi nhuận về
mặt kinh tế. Đổi lại, nền kinh tế phát triển khỏe, mạnh sẽ tạo ra nguồn lực trở lại
giúp con người thỏa mãn năng lực tìm tòi khoa học và sáng tạo công nghệ mới.
Tuy nhiên, dù là quốc gia giàu có về tiềm lực tài chính và nguồn nhân lực chất
6 Dẫn theo GS. Trần Văn Thọ: “Chưa giàu đã già: Sự nghiệt ngã của cơ cấu dân số”. Đại học
Waseda, Nhật Bản. />
19


xám, Nhật Bản vẫn phải cân bằng giữa lợi ích của việc phát triển KH&CN với các
lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Do vậy, chính sách định hướng phát triển của chính
phủ Nhật Bản là rất cần thiết để xây dựng tiềm lực KH&CN trong từng giai đoạn
cụ thể.
Tháng 3 năm 1986, Nội các Nhật Bản đề xuất “Những nguyên tắc chỉ đạo
chung cho Chính sách Khoa học và Công nghệ”, kêu gọi chính phủ tăng đầu tư cho
nghiên cứu và triển khai, nâng cao hiệu quả sử dụng Quỹ nghiên cứu và phát triển.
Ngoài ra, cũng cần tăng thêm các biện pháp khuyến khích để tạo môi trường thuận
lợi cho việc thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển của khu vực tư nhân

nhằm đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tăng cường nghiên cứu khoa học cơ bản.
- Thúc đẩy khoa học và công nghệ đồng thời tăng thêm sự hiểu biết và duy
trì sự hài hòa với xã hội.
- Phát triển khoa học và công nghệ trên quan điểm quốc tế có xét đến triển
vọng Nhật Bản sẽ đóng vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế trong các lĩnh vực
khoa học công nghệ.
Cũng trong giai đoạn này, Nhật Bản hình thành các ngành khoa học và công
nghệ hàng đầu thế giới như khoa học nghiên cứu đại dương, khoa học sự sống,
công nghệ điện tử và sản xuất xe hơi…
Bảng 3: Những thay đổi về số cán bộ nghiên cứu tại Nhật Bản từ năm 1959 đến
năm 1987. (Đơn vị: 1000 người)7
Năm

Công nghiệp

Viện nghiên cứu Trường đại học Tổng số

7 Chỉ tính các cán bộ trong ngành khoa học tự nhiên, không tính trong ngành khoa học xã hội nhân văn
Nguồn: “Báo cáo Điều tra về nghiên cứu Khoa học và Công nghệ”, của Phòng Thống kê, Cục Quản lý và Điều phối.
Dẫn theo Ủy ban Lịch sử Chính sách Khoa học và Công nghệ: Lịch sử chính sách khoa học và công nghệ Nhật Bản.
NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2004, tr.232.

20


1959
1960
1970
1975

1980
1985
1986
1987

42,9
59,0
94,1
146,6
173,2
231,1
248,6
262,8

14,3
19,5
22,7
26,7
28,6
32,2
33,1
49,2

24,9
39,1
55,2
81,9
100,7
118,0
125,1

136,5

82,1
117,6
172,0
255,2
302,6
381,3
406,9
448,5

Năm 1995, Chính phủ Nhật Bản công bố “Luật cơ bản về khoa học và công
nghệ”(The science and technology basic Law). Với mục tiêu đưa Nhật Bản trở
thành “Quốc gia dựa vào sáng tạo KH&CN”, Luật nhấn mạnh đến sự liên kết giữa
các phòng thí nghiệm quốc gia, trường đại học và khu vực kinh tế tư nhân.
Sau khi bộ Luật mới ra đời, Hội đồng KH&CN Nhật Bản đề ra xây dựng
“Kế hoạch cơ bản về khoa học và công nghệ lần thứ nhất (1996 – 2000)” với mục
tiêu xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế, tạo ra các ngành công
nghiệp mới; hỗ trợ giải quyết các vấn đề toàn cầu về thực phẩm, năng lượng và các
nguồn lực khác; tăng cường sức khỏe nhân dân, ngăn ngừa thảm họa và tạo môi
trường sống lành mạnh. Bất chấp khủng hoảng kinh tế, đầu tư vào nghiên cứu và
triển khai (R&D) của Nhật vẫn khá lớn.
Bảng 4: Chi phí cho nghiên cứu và triển khai (R&D) của Nhật Bản năm 19998
Khu vực
Chi phí dành
1) Công ty/tập đoàn công cho nghiên cứu
nghệp tư nhân, bao gồm:

Máy móc điện tử
Hóa chất

Thiết bị vận tải

Tỷ lệ đóng góp (%)
Nghiên cứu cơ
Nghiên cứu
Triển khai
bản
ứng dụng
thực nghiệm

3.616
1.588
1.530

3.5
147
3.0

17.4
260
13.7

7.9
593
83.3

8 Scourse: Science and Technology Agency, Kagaku gijutusu rouran (indicartors of science and technology), 2001
Dẫn theo David Flath: “The Japanese economy”, Oxford university press, 2005, p.337

21



Ngành công nghiệp khác
Tổng:
2) Các viện nghiên cứu
3) Các trường đại học
Tổng chi phí
Nguồn quỹ đóng góp:
Chính phủ
Tư nhân
Nước ngoài

3.896
10.630
1.920
1.875
13.191

5.8
22.0
52.6

2.866
10.310
15

20.5
26.1
38.0


73.7
51.9
9.4

27%
78.2%
0.1%

Mặc dù có cường độ đầu tư lớn về hoạt động R&D, vai trò của các công ty
vẫn đóng vài trò quan trọng, song kết quả của kế hoạch lần thứ nhất không như
mong đợi: môi trường nghiên cứu và triển khai không được cải thiện rõ rệt, mối
quan hệ giữa “khoa học” và “hoạt động nghiên cứu” không gắn chặt thêm. Nói
cách khác, “tác động xã hội” ở đây vẫn thiếu hiệu quả. Do vậy, chính phủ Nhật
Bản cần tiếp tục có những chính sách đổi mới về chiến lược phát triển KH&CN
trong giai đoạn sau.

22


Chương II: Chính sách khoa học và công nghệ từ năm 2001 đến năm 2010
Một quốc gia phát triển thịnh vượng là điều mà tất cả mọi công dân và
những người đứng đầu nhà nước đều mong muốn. Đó là những nguyện vọng chính
đáng và không phải bàn cãi từ những con người chân chính mong muốn sự phồn
thịnh của nước nhà. Vấn đề là làm thế nào để xây dựng một quốc gia phát triển
mạnh mẽ và bền vững.
Là một siêu cường châu Á, Nhật Bản nhận thức được vị thế của mình là một
nước lớn và chịu nhiều, mạnh bởi các tác động bên ngoài của khu vực cũng như
quốc tế. Để ứng đối với những cơ hội cũng như thách thức của thế giới khi bước
sang thế kỷ XXI, Nhật Bản ý thức rằng chỉ có xây dựng và phát huy các các yếu tố
bên trong, tức yếu tố chủ quan của đất nước xứ Mặt trời mọc mới đủ sức hạn chế

những yếu tố bất lợi và tận dụng những cơ hội từ các yếu tố khách quan bên ngoài.
Nhấn mạnh vai trò của các yếu tố chủ quan bên trong không có nghĩa là
chúng ta tuyệt đối hóa yếu tố chủ quan. Yếu tố chủ quan không phải là tất cả song
nếu bản thân Nhật Bản không chuẩn bị cho mình đầy đủ những hành trang cần
23


thiết để bước vào thế kỷ mới thì những tác động bên ngoài cùng những hậu quả
của thập kỷ 90 “đen tối” sẽ còn đe dọa sự phồn vinh của siêu cường châu Á này
những điều không thể lường trước được trong thế kỷ mới.
Xuất phát từ thực tiễn và quan điểm đó, chính phủ Nhật Bản đã có những
bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy các yếu tố trong nước nhằm vực dậy quốc gia
vừa trải qua sự đổ vỡ của nền “kinh tế bong bóng” và khủng hoảng tài chính châu
Á cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Bên cạnh các biện pháp mới trong lĩnh vực
kinh tế - tài chính – ngân hàng, Nhật Bản xem khoa học và công nghệ như một
trong số các lĩnh vực then chốt cần phải tiếp tục đầu tư và cải tiến nhằm đáp ứng
các nhu cầu về lợi ích kinh tế và kỳ vọng xã hội.
Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể
quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số
nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của
họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một
hệ thống xã hội.9
Khoa học có nhiều khái niệm và cách tiếp cận tùy thuộc mục đích sử dụng.
Một cách phổ biến, khoa học được hiểu là “hệ thống tri thức về quy luật của vật
chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”. 10
Định nghĩa này được thừa nhận và sử dụng trong giới nghiên cứu trên thế giới
cũng như trong các văn kiện chính thức của UNESCO.
Cũng có cách hiểu khác về khoa học khi coi đây mà một dạng của hoạt động
xã hội. Mục đích cơ bản của hoạt động khoa học gồm có:
9 Khái niệm “Hệ thống xã hội” có thể hiểu theo ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành

chính, một doanh nghiệp, một nhà trường… Trong khuôn khổ nội dung báo cáo, khái niệm “Hệ thống xã hội” ở đây
được hiểu ở cấp độ quốc gia, cụ thể là Nhật Bản
Xem thêm: Vũ Cao Đàm: “Quản lý học đại cương”, Bài giảng, Đại học đại cương, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
1996
10 Pierre Auger, Tendances actuelles de la recherche scientifique, UNESCO, Paris, 1961, tr. 17 – 19.

24


1) Phát hiện ra bản chất các sự vật, phát hiện nhận thức về thế giới khách
quan.
2) Sáng tạo các sự vật mới, phát triển các phương tiện cải tạo thế giới khách
quan.
Dưới góc độ này, khoa học đã đóng vai trò tiên phong của lực lượng sản
xuất hiện đại. Nếu khoa học chỉ dừng lại ở “hệ thống tri thức” và nằm trong bộ não
của con người không thì chưa đủ. Quá trình nhận thức về thế giới và sức sáng tạo
các sự vật mới trong hoạt động khoa học là cơ sở để sáng chế ra những công nghệ
hiện đại như chúng ta đang thấy ngày nay.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Công nghệ gồm
có bốn phần: Phần kỹ thuật, phần thông tin, phần con người và phần tổ chức. Khái
niệm công nghệ hiện được dùng không chỉ trong công nghiệp mà đã thâm nhập vào
hàng loạt bộ môn khoa học và lĩnh vực hoạt động khác nhau như: công nghệ dạy
học, công nghệ quản lý, công nghệ kiểm tra... Như vậy, chính sách khoa học và
công nghệ là những đường lối, chủ trương, biện pháp của Nhà nước nhằm phát
triển lĩnh vực KH&CN, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Như đã trình bày ở phần trên, do đặc điểm của tình hình quốc tế và trong
nước có nhiều chuyển biến mau lẹ, chính phủ Nhật Bản buộc phải thay đổi những
đường lối, chính sách của mình cho phù hợp với hoàn cảnh mới, trong đó có lĩnh
vực KH&CN. Nhật Bản dành mối quan tâm đặc biệt tới sự phát triển của KH&CN,

coi đây là trụ cột quan trọng hàng đầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết
các vấn đề khác của xã hội và môi trường trong những năm thập niên đầu thế kỷ
XXI.

25


×