Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tểu luận: QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ MỚI (TỪ 1986 ĐẾN 2011), TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.14 KB, 33 trang )

2

TL: QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TRONG THỜI
KỲ MỚI (TỪ 1986 ĐẾN 2011), TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI
TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC

MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống,
kề vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân
tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi
trường sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu
đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục
thiên tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp
phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam thống nhất.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị


3

trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng
ta đó đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là:
“Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển”. Trải qua các thời
kỳ cách mạng, công tác dân tộc đó đạt được những thành tựu to lớn góp phần
quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước.
Vì vậy, nghiên cứu và nhận thức đúng đắn tình hình, đặc điểm vấn đề
dân tộc và chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng hiện nay có ý nghĩa rất
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó giúp cho chúng ta nắm
chắc quan điểm chính sách dân tộc của Đảng, thực hiện tốt công tác dân tộc


trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế. Góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh”.
NỘI DUNG
1. Đặc điểm tình hình dân tộc Việt Nam và những chủ trương, chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới (1986 đến 2011)
1.1. Đặc điểm tình hình dân tộc Việt Nam


4

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc. Dân tộc
Kinh chiếm 87% dân số; 53 dân tộc cũn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác
trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người
là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân
tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn
người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người Cống, Si La,
Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu). Các dân tộc nước ta cư trú xen kẽ là chủ yếu,
xu thế xen kẽ ngày càng tăng lên trong giai đoạn hiện nay. Trong cộng đồng
các dân tộc Việt nam, các dân tộc thiểu số ngoài một bộ phận cư trú ở đồng
bằng, ven biển, còn lại chủ yếu cư trú ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, là những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về môi trường sinh thái,
kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, đối ngoại và là vùng biên cương của
Tổ quốc. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng góp phần tạo nên sự thống


5

nhất trong đa dạng của nền văn hoá Việt Nam. Quá trình phát triển trong lịch
sử đó tạo nên khoảng cách chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các dân tộc.

Tình trạng này đòi hỏi việc giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc phải
dựa trên đường lối độc lập và chủ nghĩa xã hội nhằm đưa các dân tộc thoát
khỏi đói nghèo, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Có thể khái quát thành các đặc điểm của dân tộc Việt Nam trên các nội dung
cơ bản sau:
Một là, dân tộc Việt Nam là một quốc gia đa tộc thống nhất, gắn bó với
nhau, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Đoàn kết, kiên
cường, bất khuất trong lao động sáng tạo và trong chiến đấu là truyền thống
nổi bật của dân tộc ta.
Hai là, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, các dân tộc cư trú đan xen
nhau, không liền lãnh thổ, không có lãnh thổ riêng, không đều về số lượng dân cư.


6

Ba là, các dân tộc đều có ngôn ngữ và đặc điểm văn hoá riêng, sự tổng
hoà những đặc điểm đó tạo dựng nên một nền văn hoá chung thống nhất,
phong phú, đa dạng, mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình lịch sử của dân tộc Việt Nam là Lịch sử dựng nước và
giữ nước là nền tảng xây dựng nền văn hoá và tính cách dân tộc Việt Nam. Các
dân tộc ra nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam vẫn giữ được cho mình một
văn hoá, một tính cách dân tộc, nhưng đều đóng góp vào kho tàng văn hoá Việt
Nam, tạo nên nền văn hoá thống nhất, phong phú và đa dạng. Hầu hết các dân
tộc ở nước ta đều có ngôn ngữ riêng thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Việt –
Mường, Môn – Khơ me, Tày – Thái, H’Mông – Dao, Hán – Tạng…
Bốn là, các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đồng đều,
nền kinh tế nói chung còn nặng tính chất tự cung tự cấp, nhưng có sự quản lý


7


chung của Nhà nước và giao lưu, trao đổi kinh tế không bị bó hẹp trong phạm vi
dân tộc, mà mở rộng tạo nên sự thông thương giữa các khu vực.
Có thể nói: Những đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở
nước ta là sự cố kết dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất
đó trở thành truyền thống, thành sức mạnh và đó được thử thách trong các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy
ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay.
Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, tình hình thực tiễn của dân tộc Việt Nam trong thời gian qua làm cơ sở để
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc xem xét
nó như là vấn đề chính trị - xã hội rộng lớn, toàn diện gắn liền với các mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


8

1.2. Những chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
trong thời kỳ đổi mới (1986 đến 2011)
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam
ra đời (1930), quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là nhất
quán, theo nguyên tắc: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát
triển. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu
chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta. Đặc biệt mốc son quan trọng của
sự nghiệp đổi mới được đánh dấu từ: Đại hội Đảng toàn quốc lần thức VI
(1986), Đảng ta khẳng định: Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với
sự củng cố phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng
cường tính cộng đồng là quá trình hợp qui luật, nhưng tính cộng đồng, tính
thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo của mỗi

dân tộc. Nội dung mới trong chính sách dân tộc của thời kỳ này là tạo mọi điều
kiện để các dân tộc phát triển và củng cố sự thống nhất, tăng cường sức mạnh
của cộng đồng quốc gia, mở rộng quan hệ quốc tế. Cụ thể hoá đường lối đổi
mới của Đại hội VI, Bộ Chính trị (BCT) ra Nghị quyết 22/NQ – TW ngày
27/11/1989 Về một số chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế – xã hội
miền núi.
Đến Đại hội VII của Đảng năm 1991, Đảng đó chỉ ra các đặc trưng về
mối quan hệ dân tộc: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp nhau


9

cùng tiến bộ, tạo mọi điều kiện để các dân tộc đi lên con đường văn minh, tiến
bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Đại hội VIII (1996), Đảng ta khẳng định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến
lược lớn. Thực hiện bình đẳng đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, Đảng ta
cũng xác định 3 mục tiêu chủ yếu: xóa đói, giảm nghèo, ổn định và cải thiện
đời sống, sức khoẻ của đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng xa, vùng sâu,
biên giới và hải đảo. Thực hiện xóa mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và
phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Củng cố và đổi mới phương
pháp hoạt động của hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số, phát triển đội
ngũ cán bộ, đảng viên vùng các dân tộc thiểu số ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã nêu lên
nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc là “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,


10

giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Bốn nội dung đó có quan hệ hữu cơ, tác động

qua lại nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển.
Nhằm cụ thể hóavề chính sách dân tộc của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng, Hội nghị Trung ương 7 (Khoá IX) năm 2003 đã ra Nghị quyết
riêng về công tác dân tộc. Nghị quyết nhấn mạnh: Ngay từ khi mới ra đời và
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc,
công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong
cách mạng nước ta
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) càng đặc biệt chú
trọng đến chính sách dân tộc. Trong đó nhấn mạnh tư tưởng bảo đảm sự tôn trọng
và tin cậy lẫn nhau giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự


11

nghiệp cách mạng nước ta”. “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng
đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”.[6; 121]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) tiếp tục khẳng
định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết ,
thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân
giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. [7; 244]
Như vậy, quan điểm của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội IX về vấn đề
dân tộc và công tác dân tộc có bước phát triển mới về tư duy lý luận của
Đảng, thể hiện tập trung theo nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành



12

Trung ương Đảng khoá IX tại Hội nghị lần thứ bảy về công tác dân tộc với
những nội dung cơ bản sau đây:
Những quan điểm chỉ đạo chính sách dân tộc của Đảng:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Những thắng lợi to lớn trong lịch sử chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc;
giành và giữ gìn nền độc lập của dân tộc Việt Nam, cũng như xây dựng non
sông giàu đẹp có một nguyên nhân mang ý nghĩa quyết định, đó chính là sức
mạnh của sự đoàn kết, đồng lòng, chung sức của các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới
và đã thu được những thành tựu bước đầu to lớn. Những thành tựu to lớn và rất
quan trọng đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới cho thấy khối đại đoàn kết dân
tộc ở nước ta đã có tầm cao và chiều sâu mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự
phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng
được tăng cường. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, càng đòi hỏi nhân dân ta phải ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc phát huy cao độ nội lực, tạo cơ sở tranh thủ và nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế. Hiện nay giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giữ gìn và phát huy truyền
thống đoàn kết dân tộc vẫn là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cần
phải tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và
hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch
nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.


13

Hai là, các dân tộc trong đại gia đỡnh Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Bình đẳng là
ngang quyền trước pháp luật, tôn trọng lẫn nhau trong các mối quan hệ, không
có sự nô dịch giữa các dân tộc, giữa các dân tộc đa số với các dân tộc thiểu số
và ngược lại. Nói đến bình đẳng cũng chính là nói đến sự công bằng giữa các
dân tộc về quyền lợi và nghĩa vụ trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đoàn kết là truyền thống, là qui luật sinh tồn của dân tộc Việt Nam, là
nguồn gốc, là cơ sở của mọi thắng lợi thành công của cách mạng mà thực tiễn
lịch sử đã chứng minh. Đoàn kết nhằm vào tất cả những ai là “con Lạc cháu
Hồng” không phân biệt giàu nghèo, trai gái, dân tộc, tôn giáo, tất cả những ai
cùng phấn đấu vì mục đích chung: độc lập, tự do của Tổ quốc, vì nước Việt
Nam phồn thịnh “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù
địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, cần phải
phát huy tốt vai trò của các ban ngành, đoàn thể xã hội để xây dựng, củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc
Việt Nam thống nhất.


14
Hiện nay giữa các vùng, miền và các dân tộc vẫn còn tồn tại sự chênh lệch
khá lớn về trình độ phát triển trên nhiều mặt tạo ra sự bất bình đẳng trong thực

tế cuộc sống của nhân dân, thể hiện rõ nhất là giữa miền núi, vùng sâu vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số với miền xuôi, đồng bằng và đô thị; giữa dân tộc thiểu số
và đa số. Do vậy, cần phải có sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn nữa của Nhà
nước, của các địa phương cho các vùng khó khăn, vùng dân tộc. Tạo điều kiện
tốt nhất cho đồng bào dân tộc thiểu số tranh thủ được cao nhất sự giúp đỡ của
các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, phát huy tối đa nội lực để
phát triển theo kịp sự phát triển chung của cả nước. Lĩnh vực trọng tâm cần đặc
biệt quan tâm là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển các ngành nghề tạo ra
nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời giải quyết tốt các vấn
đề xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đẩy lùi các tệ nạn
xã hội… Cần quan tâm chăm lo phát triển nguồn nhân lực bằng nhiều biện
pháp thiết thực như: tăng cường đầu tư, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo
dục, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, ưu tiên đào tạo
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Về văn hoá, mỗi dân tộc có bản sắc
văn hoá đặc sắc riêng cần được giữ gìn, bảo tồn và phát triển để tạo lên sự đa
dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của từng vùng, đi đôi với
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự
cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ
của trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để khắc phục sự chênh lệch về kinh tế,
văn hoá, bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc. Đi đôi với phát huy
tiềm lực kinh tế của các vùng dân tộc cần chú trọng bảo vệ môi trường thiên


15
nhiên, ổn định đời sống của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa
đồng bào tại chỗ và đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi.

Các vùng dân tộc và miền núi do điều kiện tự nhiên chi phối tiêu cực (xa
xôi, hẻo lánh, giao thông liên lạc khó khăn) nên sự phát triển kinh tế - xã hội
còn rất lạc hậu. Vì vậy, trong thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải có các chính sách ưu tiên để cho các vùng
này có thể theo kịp sự phát triển chung của cả nước. Vùng dân tộc và miền
núi muốn phát triển tốt thì trước hết cần phải được chú trọng quan tâm xây
dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm… ở vùng dân tộc
và miền núi số hộ nghèo, đói còn chiếm tỷ lệ cao vì vậy cần phải quan tâm và
làm tốt hơn nữa công tác xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân bằng
nhiều chính sách, biện pháp sát thực cụ thể hiệu quả hơn nữa. Ưu tiên thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi trước hết phải bằng các biện
pháp nhằm phát huy được nội lực, sức mạnh, tinh thần tự lực, tự cường của đồng
bào các dân tộc, phát huy tối đa thế mạnh của mỗi vùng, đồng thời coi trọng và
tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và các địa phương trong cả
nước. Ưu tiên thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi
nhưng phải hết sức quan tâm không xem nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái,
bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc.
Xác định nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế nhưng tuyệt đối không được
coi phát triển kinh tế bằng mọi giá mà bỏ qua các giá trị tốt đẹp khác.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị .
Quan điểm này khẳng định rõ tiến hành công tác dân tộc và chính sách
dân tộc là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, của cả
hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương. Tuy nhiên, chỉ ra như vậy


16
không có nghĩa là nói đến trách nhiệm một cách chung chung mà trong đó
xác định rõ vai trò lãnh đạo thuộc về hệ thống các tổ chức đảng. Cùng với
đó là các cơ quan, các ban ngành có trách nhiệm trực tiếp tổ chức triển khai

tiến hành công tác dân tộc, chính sách dân tộc theo phạm vi trách nhiệm,
khu vực địa bàn được phân công, đồng thời chịu trách nhiệm trước Đảng,
Nhà nước và trước nhân dân về nhiệm vụ công tác mà đơn vị mình phụ
trách, địa bàn mình phụ trách.
Các quan điểm trên của Đảng được khái quát từ lý luận và thực tiễn cách
mạng, vừa có giá trị lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn to lớn, vừa là vấn đề chiến
lược lâu dài vừa là vấn đề cấp bách hiện nay. Đây là các quan điểm chứa những
nội dung cơ bản, nhấn mạnh tính chiến lược, chỉ rõ các nguyên tắc, phương pháp
tiến hành công tác dân tộc. Qua đó, thể hiện trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta trong thực hiện chính sách dân tộc, công tác dân tộc.
Những mục tiêu cụ thể của Đảng về chính sách dân tộc:
Nhất quán các nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ;
trong giai đoạn cách mạng mới cần phải hướng tới thực hiện các mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống
đồng bào các dân tộc. Các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không cũn hộ đói;
giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; giảm dần khoảng cách chênh lệch mức sống
giữa các dân tộc, các vùng; trên 90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt; xoá tình
trạng nhà tạm, nhà dột nát; 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; cơ bản
không còn xã đặc biệt khó khăn; hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư;
chấm dứt tình trạng di cư tự do; giải quyết cơ bản vấn đề đất sản xuất cho nông
dân thiếu đất; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái.
Thứ hai, nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức
hưởng thụ văn hóa của đồng bào: hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ
sở; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy và


17
học chữ dân tộc. Hầu hết đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa được tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở
vùng dân tộc. Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được

nghe đài phát thanh; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát triển.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất
và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống chính trị
cơ sở trong sạch, vững mạnh; nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện tốt chính
sách dân tộc.
Thứ tư, giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi; kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng ở các địa bàn
xung yếu vùng sâu, biên giới, ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định xã hội.
Những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách của Đảng về dân tộc:
Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa;
trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc
đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu
lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất,
dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh,
truyền hình; tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền hướng
về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh,
truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu


18
tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa của
các dân tộc.
Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân
tộc thiểu số. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về kiện toàn,

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; kiên quyết khắc phục tình trạng
quan liêu, xa dân của một số cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển
đảng viên trong đồng bào dân tộc, khắc phục tình trạng cơ sở không có tổ
chức đảng và đảng viên.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân,
phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch; tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội, không để xảy ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở
vùng dân tộc và miền núi.
Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo công tác dân tộc trong tình hình hiện nay:
Từ quan điểm của Đảng nói trên cũng như các mục tiêu, nhiệm vụ cấp
bách đặt ra công tác dân tộc trong tình hình hiện nay cần tập trung thực hiện
tốt một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp,
các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong
tình hình mới. Xem việc quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của
Đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền, Mặt trận, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước cho mọi cán bộ, đảng viên và cho nhân dân. Phổ biến sâu rộng các


19
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi
cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Hai là, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách

đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát
triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
Phát triển kinh tế – xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
vùng căn cứ cách mạng, làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng
vùng kinh tế mới. Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức
sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng
sâu, vùng xa. Trước mắt cần tập trung trợ giúp đồng bào nghèo các dân tộc
đặc biệt khó khăn về các vấn đề: lương thực, nước sinh hoạt, nhà ở, tư liệu
sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu, xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên
giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Huy động nhiều nguồn lực
cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng dân tộc và miền núi. Ưu tiên đầu tư cho
xóa đói, giảm nghèo, phát triển nhanh kinh tế - xã hội, giải quyết những khó
khăn bức xúc của đồng bào vùng dân tộc và miền núi; trước hết tập trung cho
các vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện nghiêm chỉnh việc công khai hóa các
chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư... để đồng bào biết và tham gia
quản lý, giám sát quá trình thực hiện. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ ở vùng dân tộc và miền núi.
Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ
là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc. Trong những năm trước
mắt, cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở
vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng; coi
trọng việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự làm
nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở; nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ


20
nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền
núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi, vùng cao.
Kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm công tác
dân tộc từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường số lượng và chất lượng

đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc để làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ,
chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách dân tộc. Một số bộ,
ngành cần tổ chức bộ phận và có cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc.
Bốn là, tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm
thực hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân trong việc tham gia triển khai, thực hiện công tác dân tộc, chính
sách dân tộc.
Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của
những người có uy tín trong đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi.
Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận quần chúng ở vùng
đồng bào dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng,
kiên trì, tế nhị, vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù
của từng dân tộc, từng địa phương. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền
núi phải quán triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận : “Trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”.
Trong giai đoạn hiện nay, Công tác dân tộc phải tiếp tục thực hiện tốt
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), nhất là Nghị quyết Trung ương 7 (khoá
X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm giải quyết căn bản vấn đề đói
nghèo, từng bước trở thành khá giả, rút ngắn khoảng cách thu nhập của đồng bào
so với các vùng khác. Đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh
sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí; chăm lo thiết thực hơn nữa việc


21
xây dựng đời sống văn hoá; chú trọng toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, cả việc nghiên cứu chế độ công chức dự bị,
thường xuyên củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị các cấp, nhất là ở cơ sở. Chủ
động tổ chức tốt phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân tộc
có ý nghĩa quyết định tới việc định hướng và đổi mới các biện pháp thực hiện
chính sách dân tộc, làm cho chính sách dân tộc đi vào cuộc sống cần phải
thực hiện tốt; Đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi: “đại đoàn
kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[7;
tr. 48]. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức, trên cơ sở các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đường lối
chính sách và sự liên hệ mật thiết với nhân dân.
Đó là những nhận định đúng đắn cho việc hoạch định và thực thi chính
sách dân tộc. Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở nước ta không chỉ là đề ra
đường lối, chính sách đúng đắn; mà còn phải đưa các chính sách dân tộc vào
thực tiễn, nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất nước, khơi dậy tính tích cực,
năng động, sáng tạo từ mọi giai tầng trong xã hội vào thực hiện mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.


22

2. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1986 đến 2011 và
trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
2.1. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng từ năm 1986 đến
2011
Những năm trong thời kỳ đổi mới, thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trong tất cả

lĩnh vực đời sống xã hội.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được thực hiện đầy đủ trong mọi
lĩnh vực hoạt động xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố;
Kinh tế vùng dân tộc và miền núi có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm cao (trung bình 7,26% năm). Nền kinh tế nhiều
thành phần bước đầu hình thành và phát triển, chuyển dịch theo hướng sản


23

xuất hàng hoá. Đã hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, sản xuất với
số lượng hàng hoá lớn như cà phê, chè, tiêu, điều; Kết cấu hạ tầng vùng dân
tộc và miền núi đã được cải thiện rõ rệt, góp phần đắc lực phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao đời sống của đồng bào các dân
tộc vùng dân tộc và miền núi; Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả
to lớn. Hàng năm tỷ lệ đói nghèo ở vùng dân tộc và miền núi giảm từ 3-4%.
Đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể; Mặt bằng dân trí
được nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu
học và xoá mù chữ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình
thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi,
tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; Đời sống văn hoá của các
đồng bào các dân tộc được nâng cao một bước, văn hoá truyền thống của các
dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ thống phát thanh


24

truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không ngừng phát triển; Các loại dịch
bệnh cơ bản được ngăn chặn. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm. Nhà nước đã

ban hành nhiều chính sách ưu tiên chăm lo sức khoẻ đồng bào các dân tộc,
nhất là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa biên giới; Hệ thống chính trị
vùng dân tộc và miền núi được tăng cường và củng cố, nhất là ở cấp cơ sở.
Công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào dân tộc được chú trọng; Tình
hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cơ bản ổn định. Quốc
phòng, an ninh được giữ vững.
Bên cạnh những thành tựu còn có những tồn tại, hạn chế như: Kinh tế ở
miền núi và các vùng đồng bào dân tộc còn chậm phát triển, nhiều địa
phương còn khó khăn, lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tập quán
canh tác ở nhiều nơi còn lạc hậu; Chất lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất ở


25

vùng dân tộc và miền núi thấp, tiêu thụ khó khăn, thị trường không ổn định;
Tình trạng du canh du cư vẫn còn tồn tại, di cư tự do diễn biến phức tạp.
Một số nơi, đồng bào thiếu đất sản xuất, thiếu nước, sinh hoạt, thiếu tư liệu
sản xuất; Kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi, nhất là ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa nhìn chung còn lạc hậu và thấp kém; Nhiều nơi môi trường
sinh thái đang tiếp tục bị suy thoái. Tình trạng tàn phá rừng, khai thác tài
nguyên bừa bãi vẫn đang tiếp diễn; Tỷ lệ đói nghèo ở vùng dân tộc và miền
núi còn cao hơn với mức bình quân chung của cả nước. Khoảng cách chênh
lệch về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc ngày càng gia tăng; Chất
lượng, hiệu quả về giáo dục và đào tạo còn thấp. Đào tạo nghề cho con em
đồng bào dân tộc thiểu số chưa được quan tâm, chú trọng; Công tác chăm
sóc sức khoẻ cho đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn; Bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đang có nguy cơ bị


26


mai một. Mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa
còn rất thấp. Một số tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển;
không sát dân, không tập hợp được đồng bào. Trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở
còn hạn chế, công tác phát triển Đảng chậm; Ở một số nơi vùng dân tộc và
miền núi, tôn giáo phát triển không bình thường, trái pháp luật. Có nơi đồng
bào bị kẻ xấu lợi dụng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc (như: Tây
Nguyên năm 2000, 2001; Tây Bắc năm 2011).
2.2. Trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện
chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Quân đội nhân dân Việt nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta sáng
lập ra, do vậy mà Quân đội nhân dân Việt nam là quân đội cách mạng của
dân, do dân, vì dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân đội
luôn tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân,
chiến đấu vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Cán bộ chiến sỹ là con em
của đồng bào các dân tộc Việt Nam, có quan hệ gắn bó thường xuyên với
đồng bào, được Đảng tin dân yêu.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa, là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước ta, có trách
nhiệm thực hiện các nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế của Đảng và Nhà
nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quân đội


×