Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.45 KB, 10 trang )

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954
- 1975), cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai cấp đất nước
được lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn cách mạng mới từ sau đại thắng mùa Xuân 1975, trên đất
nước ta đã và đang diễn ra biết bao sự kiện lịch sử - chính trị trọng đại. Nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu và tiến bộ nhưng
cũng gặp không ít khó khăn và vấp váp.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đề ra từ năm 1986 là một tất yếu. Nhờ công
cuộc đổi mới đó mà nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng và giữ được chế độ xã
hội chủ nghĩa. Từ sau cuộc đổi mới nông nghiệp và nông dân nước ta có nhiều
chuyển biến. Đây là một nội dung quan trọng mà nhiều đề tài nghiên cứu đến.
Trong bài tiểu luận này tôi xin chọn khoảng thời gian có nhiều biến động, đó là:
Nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
1
NỘI DUNG
I. Đường lối chỉ đạo của Đảng với nông nghiệp và nông thôn trong
thời kỳ đổi mới
Từ cuối năm 1985 đến cuối năm 1986 tình hình kinh tế xã hội nước ta đã
trở nên gay gắt đến mức: đại đa số các tầng lớp nhân dân cảm thấy không thể
tiếp tục sống như cũ được nữa, các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
cũng thấy rõ không thể tiếp tục duy trì những cơ chế, chính sách đã lỗi thời,
hoặc chỉ điều chỉnh một số chính sách riêng lẻ, cục bộ nào đó.
Trước yêu cầu của dân tộc và xu thế phát triển của thế giới, đại hội VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về
“những sai lầm nghiêm trọng trong nhiều chủ trương chính sách lớn” thời gian
trước đây, nhận thức lại một loạt quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội, qua đó
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước:
Đường lối đổi mới bao gồm nhiều nội dung phong phú , trong đó có
những nội dung cơ bản:
Một là, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp dựa


trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thành quốc doanh và tập
thể là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, dân chủ hóa đời sống xã hội phát huy yếu tố con người và từng
bước xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân do dân, vì dân.
Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện
mới, tham gia rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, thu hút vốn đầu tư và
khoa học công nghệ mới của nước ngoài để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Từ sau Đại hội VI của Đảng nhiều cải cách thể chế đã được thực hiện,
như thực hiện cơ chế một giá, chính sách tự do hóa lưu thông, đổi mới công tác
kế hoạch, sự tăng cường quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở, xóa bỏ bao
cấp và mốc đánh dấu bước ngoặt cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn là
2
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (năm 1988) về “Đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp”, gọi tắt là “khoán 10”. Tiếp đó là Nghị quyết 22 của Bộ chính trị (năm
1989) và quyết định 72 của chính phủ (1990) về “Phát triển kinh tế - xã hội miền
núi”, “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội từ nam 1991 đến năm
2000”, “Luật đất đai năm 1993” cùng nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác,
trong đó hàm chứa những điểm rất quan trọng sau:
a. Thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu dài và bình đẳng trước pháp luật
của mọi thành phần kinh tế.
b. Thừa nhận quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài (bao gồm các
quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế, thế chấp, cho thuê) của hộ nông dân
với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ.
c. Những hợp tác xã nào còn có tác dụng thì tinh giảm bộ máy quản lý,
chuyển đổi chức năng hoạt động, tập trung vào một số khâu dịch vụ cho sản
xuất mà từng hộ riêng lẻ làm không có hiệu quả bằng. Hình thành các loại hình
hợp tác mới đa dạng ở nông thôn, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.
d. Chuyển nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ tự cấp tự túc sang sản xuất

hàng hóa, căn cứ vào đặc điểm và lợi thế so sánh từng vùng, hướng dẫn khôi
phục lại các làng nghề, mở mang tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động dịch vụ ở
nông thôn.
đ. Ngoài thuế sử dụng ruộng đất, nông dân không còn phải bán lương
thực, thực phẩm, nghĩa vụ cho nhà nước theo giá quy định mà được tự do bán
trên thị trường theo giá thỏa thuận.
e. Nhà nước đầu tư xây dựng những công trình thủy lợi đầu mối, các dự
án trông lại rừng, lập ngân hàng cho người nghèo vay vốn, mở rộng công tác
khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cung cấp các loại giống cây trồng,
vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt cho nông dân.
f. Hỗ trợ việc xây dựng trường học, trạm y tế, đường giao thông, mạng
lưới điện, nguồn cung cấp nước sạch… ở nông thôn theo phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”.
3
II. Sự chuyển biến của nông nghiệp gắn với sự phân hóa của giai cấp
nông dân
1. Sự chuyển biến trong nông nghiệp
Những cải cách thể chế nói trên đã đáp ứng nguyện vọng đông đảo của
quần chúng nhân dân, tạo nên động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển khá liên tục
của nông nghiệp và nông thôn: ví dụ diện tích các loại cây trồng năm 1986 là 8,5
triệu ha, thì năm 1995 là 10,5 triệu ha, sản lượng lương thực qui thóc từ 18,3
triệu tấn tăng lên 27,57 triệu tấn, gạo xuất khẩu năm 1986 không có thì năm
1995 là 2,1 triệu tấn, trồng rừng tập trung năm 1986 không có thì 1995 là 165,3
nghìn ha. Số hộ có máy thu thanh năm 1986 là 7%, thì năm 1995 là 37,3%, số
hộ có ti vi năm 1986 là 1,2 %, năm 1995 là 21%.
Rõ ràng khi ta xóa bỏ cơ chế quản lý cũ để chuyển sang cơ chế quản lý
mới đã khai thông các ách tắc ở cả đầu vào và ra của nông nghiệp và nông thôn
khiến nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đạt nhiều thành tựu đáng kể. Sự phát
triển đó đã bảo đảm cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước,
tăng nguồn dự trữ quốc gia, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn vốn tích lũy

từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy lùi lạm
phát, thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ phát triển, cải thiện rõ rệt đời sống các
tầng lớp nhân dân, trong đó 80% là dân cư nông thôn. Tới đây hộ nông dân trở
thành đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận khoán ruộng đất dài hạn, trong khoảng
10 - 15 năm đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, người nông dân
hăng hái tin tưởng vào chế độ mới. Đây là điều mà mô hình sản xuất cũ không
thể tạo ra được. Hợp tác xã phải chuyển đổi nông dân, phương thức hoạt động
phải chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu. Đổi mới cơ chế tạo ra
sức bật mới cho nông nghiệp phát triển về năng suất: Từ năm 1989 ta xuất khẩu
gạo.
Có thể nói, sự “đột phá” thành công của quá trình đổi mới nông nghiệp và
nông thôn đã góp phần đặc biệt quan trọng đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội và bước sang một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn đẩy mạnh
4
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bao gồm cả công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn như Đại hội VIII của Đảng (1996) đã khẳng định.
Nhưng vấn đề nảy sinh là vấn đề ruộng đất manh mún, công nghiệp chế
biến không phát triển nên giá trị nông sản thấp, xuất hiện tiêu cực về mặt xã hội:
kết cấu hạ tầng nông thôn, văn hóa giáo dục.
Từ năm 1996 đến nay ta tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô,
quyền tự chủ của nông dân được nâng lên, tự chủ với ruộng đất, với quá trình
sản xuất kinh doanh, nhiều hộ chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi và
hình thành nên các trang trại.
2. Sự phân hóa của giai cấp nông dân
Dưới tác động của cơ chế thị trường, các hộ nông dân có sự phân hóa
đáng kể về các mặt.
a. Về nguồn lực sản xuất: là qui mô sử dụng đất đai, lao động, vốn, có hộ
không có ruộng đất, có hộ hàng chục ha.
b. Sự phân hóa về ngành nghề: có hộ thuần nông, chuyên ngành nghề
hoặc kiêm ngành nghề. Xuất hiện những hộ chuyên làm thuế. Sự phân hóa này

diễn ra ở miền Nam nhanh hơn.
c. Phân hóa về năng lực và mục tiêu sản xuất: Có hộ tự cung tự cấp, sản
xuất hàng hóa nhỏ, sản xuất hàng hóa lớn.
d. Phân hóa về thu nhập giàu nghèo: nước ta rất tích cực xóa đói giảm
nghèo nhưng xu hướng phấn hóa giàu nghèo vẫn ngày càng rộng ra.
Tòm lại đời sống nhân dân được cải thiện cả về vật chất và tinh thần.
Đồng thời cơ cấu giai cấp xã hội ở nông thôn nói chung và đối với nông dân nói
riêng có biến đổi to lớn. Năm 1988 cả nước có trên 100 nghìn trang trại sản xuất
nông nghiệp. Riêng tỉnh Yên Bái có 11.728 trang trại qui mô từ 2 đến 500 ha,
trong đó 45 đến 55 trang trại thường xuyên thuê từ 5 - 25 lao động. Tỷ suất hàng
hóa bình quân của 50 trang trại được chọn kiểm soát là 60 - 85%. Về thu nhập
thì 32 trang trại có lãi dòng chiếm 50% tổng thu nhập và 18 trang trại có lãi
dòng từ 25 - 30% tổng thu nhập.
5

×