Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Giải pháp nhằm tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.02 KB, 69 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc khủng hoảng kinh tế vào cuối năm 2008 kéo dài sang năm 2009 đã ảnh
hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Tốc độ
phát triển chậm lại, doanh số bán lẻ hàng hóa dịch vụ thấp, cầu giảm dẫn tới hoạt
động sản xuất của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó
hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do thị trường quốc tế bị thu hẹp dẫn đến
tình trạng thiếu hụt USD trong nền kinh tế.
Đứng trước tình hình khủng hoảng kinh tế quốc tế, Chính Phủ đã chủ động
thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách kích cầu tiêu dùng, chính sách
hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức vay vốn ngân hàng. Ngân hàng luôn đóng vai trò
quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc gia, là cầu nối giữa cá
nhân, doanh nghiệp với thị trường, giúp Chính Phủ điều tiết nền kinh tế một cách
hiệu quả. Để làm tốt việc đó thì hoạt động huy động vốn của ngân hàng đã giữ một
và là nền tảng cơ bản đáp ứng những nhu cầu đầu tư, mở rộng của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong khi chưa khai thác được số lượng lớn tiền nhàn rỗi trong các tổ
chức kinh tế và dân cư, nhiều Ngân hàng vẫn còn phụ thuộc vào nguồn vốn vay, kể
cả vay của các Ngân hàng nước ngoài vì vậy chi phí nguồn vốn cao và chưa phát
huy nội lực để phát triển một cách vững chắc. Do vậy yêu cầu tăng cường vốn có
mức chi phí hợp lý và ổn định cao được đặt ra hết sức cấp thiết đối với NHTM Việt
Nam nói chung và NHNo&PTNT Quỳnh Phụ nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã học được tại
trường Học Viện Ngân Hàng, cùng với kiến thức đã thu nhận được trong thời gian
thực tập, tìm hiểu tình hình thực tế tại NHNo&PTNT Quỳnh Phụ, em đã lựa chọn
đề tài: “ Giải pháp nhằm tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình ” .
2. Mục đích nghiên cứu


-


Khái quát hệ thống hóa các lý thuyết về huy động vốn tại Ngân hàng

-

thương mại.
Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình trạng chất lượng huy động vốn tại
NHNo & PTNT huyện Quỳnh Phụ nhằm rút ra ưu, nhược điểm, chỉ ra
nguyên nhân, hạn chế và từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm tăng
cường nguồn vốn huy động tại ngân hàng.

3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên một số phương pháp: phương pháp khái quát
hóa, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh…kết hợp với minh họa bằng sơ
đồ và bảng biểu nhằm rút ra được những ưu điểm cần phát huy cũng như nhược
điểm đang tồn tại nhằm tăng cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT Quỳnh
Phụ.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài được chia làm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề cơ bản về NHTM và hoạt động huy động vốn của
NHTM.
Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện
Quỳnh Phụ.
Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện
Quỳnh Phụ.
Do hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế nên chuyên đề không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô giáo cùng các cô, chú, anh, chị tại NHNo&PTNT Quỳnh Phụ đã tận tình
giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NHTM
1.1. Một số vấn đề cơ bản về NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hóa, một động lực
quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò đó, ngân hàng
không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào, vì vậy mỗi nước đều xây
dựng những khung pháp lý, quy định giới hạn hoạt động của ngân hàng, mỗi nước
khác nhau sẽ có một khái niệm, mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau.
Trong điều 1 Luật ngân hàng của Pháp (ngày 13/06/1941) có ghi : “ Ngân hàng
là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp là thường xuyên nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức kí thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên
đó cho chính họ, trong các nghiệp vụ chiết khấu và nhiệm vụ thanh toán ”.
Tại Việt Nam, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình ngân hàng bao gồm: NHTM, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác xã.”
Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có chỉ rõ : “ Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất
cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác ” trong đó : “ Hoạt
động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các
nghiệp vụ sau đây :
a) Nhận tiền gửi
b) Cấp tín dụng
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản ”



Như vậy có thể nói, ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các sản phẩm đa dạng nhất, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kì tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
NHTM là bà đỡ cho mọi nền kinh tế, một nền kinh tế phát triển và tăng trưởng
mạnh là một nền kinh tế mà ở đó NHTM đóng vai trò chủ chốt và quyết định nhất.
1.1.2. Vai trò của NHTM đối với nền kinh tế
Trong thời gian gần đây, tình hình diễn biến lãi suất, giá vàng, ngoại hối và đặc
biệt là hoạt động của các NHTM đang thu hút sự quan tâm lớn của dư luận và giới
kinh doanh. Chính vì điều đó, NHTM thông qua thực hiện các chức năng, vai trò
của mình đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng đã trở thành một bộ phận thúc
đẩy nên kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau:


Thứ nhất : NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế để đầu tư vào sản
xuất kinh doanh và các nhu cầu chi tiêu khác.

Hiện nay, với vai trò cầu nối, ngân hàng đứng ra huy động các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức cá nhân, kinh tế, mọi thành phần kinh tế bằng cơ chế
tiền gửi có kì hạn và không kì hạn, rồi tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân, đáp
ứng đầy đủ và kịp thời cho quá trình tái sản xuất.


Thứ hai : NHTM hỗ trợ Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế.
Các NHTM thực hiện đúng chức năng của mình để hướng tới mục tiêu lợi

nhuận cho chính ngân hàng đồng thời đã góp phần thực hiện các mục tiêu của chính
sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo việc làm và tăng
trưởng kinh tế. NHTM ngày càng phát huy được vai trò công cụ đòn bẩy của nó
trong việc thực thi chính sách tiền tệ tín dụng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh
tế theo như những mục tiêu đã hoạch định.



Thứ ba : NHTM góp phần phân bổ, điều hòa vốn giữa các ngành, các vùng
trong nền kinh tế quốc dân, do đó tạo nên sự phát triển nhanh các vùng
trong một nước.


Để tạo đồng đều về vốn giữa các vùng, ngành trong nền kinh tế, NHTM sẽ
đứng ra thực hiện chức năng của mình, thu hút vốn thừa ở các ngành vùng có nhiều
nguồn vốn nhàn rỗi chuyển sang các ngành, vùng đang có nhu cầu vốn.


Thứ tư : NHTM góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
và là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.

Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn bổ sung vốn lưu động (vốn ngắn hạn) cho tổ
chức kinh tế mua nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất kinh doanh và hoạt động
ngân hàng làm biến đổi điều kiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, của các chủ thể
kinh tế theo hướng tối ưu, nhất là đảm bảo yếu tố “ đầu vào” và “đầu ra” qua một hệ
thống đồng bộ về vốn.


Thứ năm : NHTM là cầu nối giữa các nước, thúc đẩy ngoại thương, nông
nghiệp và các ngành có liên quan.
Cùng với xu hướng hội nhập, khu vực hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra trên

thế giới không ngừng mở rộng giao lưu buôn bán, hợp tác, tương trợ lẫn nhau.
Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, quan hệ tín dụng với
ngân hàng nước ngoài, hệ thống ngân hàng đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.

Tóm lại, NHTM có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế hiện nay, ngân
hàng có vai trò rất lớn trong quá trình hình thành, phát triển, chuyển dịch cơ cấu
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta làm cho nền kinh tế tăng
trưởng mạnh từ đó tạo động lực thúc đẩy quy mô tín dụng ngân hàng, giảm rủi ro
xảy ra. Điều này cần được nhận thức và quán triệt xuyên suốt trong quá trình hoạch
định chính sách về vốn, phương thức và cơ chế hoạt động của NHTM.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng đóng vai trò trong việc điều hòa, cung cấp vốn cho nền kinh tế. Với
sự phát triển công nghệ hiện nay, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất
nhanh, đa dạng và phong phú song ngân hàng vẫn duy trì những nghiệp vụ cơ bản
sau :


a) Nghiệp vụ huy động vốn

Huy động vốn (HĐV) là các hoạt động nhằm tạo vốn cho ngân hàng, hình
thành tài sản nợ cho ngân hàng. Huy động vốn là hoạt động nền tảng cho sự hoạt
động và phát triển của ngân hàng, ngân hàng dùng nhiều hình thức huy động vốn
khác nhau :
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kì hạn).
TGTK gồm TGTK không kì hạn và TGTK có kì hạn.
Vay từ ngân hàng trung ương (NHTW) và các TCTD.
Phát hành kì phiếu hoặc trái phiếu.
Huy động thêm vốn chủ sở hữu.
Huy động thêm các nguồn khác.
Hiện nay, các ngân hàng còn đưa ra nhiều chương trình, nhiều biện pháp đẩy
mạnh huy động vốn, tạo uy tín ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động
trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế
và các tổ chức dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cần
căn cứ chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, địa phương. Từ đó, đưa

ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung dài hạn nhằm
đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b) Nghiệp vụ sử dụng vốn

Sử dụng vốn là việc ngân hàng sử dụng những nguồn đã huy động được để đưa
vào kinh doanh thu lợi nhuận, đây là nghiệp vụ hình thành tài sản có trên bảng cân
đối kế toán của ngân hàng. Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ
nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên
thị trường. Do đó, ngân hàng cần đưa ra chiến lược sử dụng vốn hợp lý nhất.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay


Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, hoạt động sống còn của ngân hàng.
Đây là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng sử dụng vốn cho người khác theo
những đảm bảo nhất định về tài sản, vật thế chấp, về khả năng hoàn trả, về lãi
suất…Hoạt động cho vay đem lại thu nhập chính cho ngân hàng, theo thống kê thì
khoảng 70%- 75%. Hiện nay các NHTM đa dạng hóa các loại hình cho vay : cho
vay theo thời hạn tín dụng, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay tiêu dùng,…..để
làm sao thỏa mãn tối đa nhất nhu cầu của khách hàng.
Hai là, ngân hàng tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu
khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi
ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin để luôn cung cấp đầy đủ, kịp thời
nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay ngân hàng còn sử
dụng hình thức đầu tư. Khác với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư mang lại
nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng. Khi xác định đầu tư vào một khoản mục nào đó thì
mọi chi phí, mọi rủi ro là hoàn toàn do ngân hàng chịu trách nhiệm. Tất nhiên rủi ro
cang cao thì lợi nhuận càng lớn, vì vậy ngân hàng phải luôn cân nhắc trước khi đầu
tư. Các loại hình đầu tư mà ngân hàng thực hiện, đó là đầu tư vào cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ, bên cạnh đó còn đầu tư kinh doanh liên kết với các ngân

hàng, các tổ chức khác trong nền kinh tế. Ngân hàng tham gia đầu tư không chỉ với
mục đích duy nhất là gia tăng lợi nhuận mà còn với mục đích sâu xa hơn đó là xâm
nhập sâu hơn vào thị trường tài chính, tham gia chi phối nền kinh tế hoàn thành mục
tiêu của mình.
Ba là, nghiệp vụ ngân quỹ
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng của các chủ thể khi tham gia tiến hành
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau những mục tiêu đó là yếu tố an toàn.
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với mục đích
nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng thanh
toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định dự trữ bắt buộc do NHNN đề ra.


c) Các nghiệp vụ khác

Nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng và sử dụng các dịch vụ của ngân
hàng ngày càng được quan tâm và đòi hỏi ngày càng phát triển hơn. Các hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được ưu tiên.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện nhiều các nghiệp vụ như ủy nhiệm thu,
ủy nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng…Mặt khác, các NHTM còn tiến hành
môi giới, mua bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng
khoán cho các công ty. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ ủy thác như
ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát…ủy thác giải ngân và thu hộ.
Như vậy, các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn
tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay. Vì các nghiệp vụ trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Nguồn
vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng
vốn ảnh hưởng tới quy mô cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung
gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng
qua đó tạo điều kiện cho việc huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2. Nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM

1.2.1. Nguồn vốn của NHTM
Vốn là cơ sở là nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng. Đây là biểu hiện
bằng tiền cho toàn bộ giá trị tài sản có của ngân hàng, nó được xác định từ nhiều
nguồn khác nhau. Để thuận tiện cho mọi quá trình vận hành và xác định, người ta
chia thành hai loại vốn cơ bản đó là vốn chủ sở hữu và vốn vay.
1.2.1.1.Vốn chủ sở hữu
Vốn này có vai trò quyết định trong quá trình đăng kí kinh doanh, quá trình
thành lập hay quá trình hình thành nên tài sản, trang thiết bị, hay máy móc thiết bị
cho mỗi tổ chức, nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng được cụ thể thành các loại
như sau :


a.

Nguồn vốn hình thành từ ban đầu

Vốn hình thành từ ban đầu hay vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, là xuất
pháp điểm cơ bản cho mọi hoạt động của ngân hàng và cũng là yếu tố tài chính
quan trọng để đảm bảo khoản nợ cho mỗi khách hàng, là niềm tin của khách hàng
đối với ngân hàng.
Tuy vậy, ngân hàng lại là một doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt, rất
nhạy cảm đó chính là vốn. Song qua đó, ta thấy được thực lực, quy mô và uy tín của
ngân hàng và hơn hết nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác cho ngân hàng.
Thông tư 13 do NHNN quy định cụ thể tại điều 4 : “ Tổ chức tín dụng, trừ chi
nhánh nước ngoài phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với
tổng tài sản “có” rủi ro của tổ chức tín dụng ( tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ).
b. Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động

Ngoài việc hình thành vốn ban đầu, các NHTM còn bổ sung vốn kinh doanh
của mình bằng nhiều cách : bổ sung từ lợi nhuận không chia, bổ sung từ phát hành

thêm cổ phần…
- Nguồn từ lợi nhuận : Không chỉ có NHTM mà tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh đều có nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận không chia, nó được xác định từ hoạt
động kinh doanh của từng năm. Tuy nhiên nó lại khá là quan trọng khi thu nhập
ròng của doanh nghiệp lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hương gia tăng vốn
bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành đầu tư, tỉ lệ tích lũy tùy thuộc vào
cách xác định và phương hướng kinh doanh của từng ngân hàng. Nguồn vốn này có
chi phí thấp mà mang lại hiệu quả cao nên luôn được các ngân hàng sử dụng và cân
nhắc trước hết.
- Nguồn vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở
rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng
thêm vốn chủ sở hữu theo quy định của NHNN. Khi đó, NHTM sẽ yêu cầu cổ đông
góp thêm vốn hoặc xin được cấp thêm…
c. Các quỹ


Ngân hàng hay bất kì tổ chức nào đều có các quỹ riêng : quỹ khen thưởng, quỹ
phúc lợi, quỹ dự phòng…Bên cạnh đó, ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
nên quỹ của nó cũng mang những đặc thù riêng.
- Quỹ dự phòng tổn thất : Loại quỹ này được trích lập hàng năm, dù để bù đắp
những tổn thất xảy ra hàng năm. Rủi ro là rất lớn nên quỹ này rất được quan tâm và
chú trọng. Theo quy định của NHNN thì quỹ dự phòng tổn thất của các NHTM Việt
Nam bao gồm hai loại quỹ đó là quỹ dự phòng để xử lí rủi ro và quỹ dự phòng tài
chính.
- Quỹ bảo toàn vốn : là loại quỹ được hình thành nhằm bù đắp hao mòn của
vốn dưới tác động của lạm phát.
- Quỹ thặng dư : là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh lệch
giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
Ngoài ra, còn có các quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng mang tính chất động viên
các tổ chức, các cá nhân…các quỹ này hình thành trên cơ sở thu nhập hàng năm của

ngân hàng.
1.2.1.2. Vốn nợ
a. Tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi
một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi để
giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của
doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có
chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau.
Tiền gửi cũng có nhiều loại :
- Tiền gửi thanh toán


- TGTK của doanh nghiệp và tổ chức xã hội
- TGTK dân cư
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
b. Tiền vay
Chúng ta đều biết rằng, tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của các NHTM, tuy
nhiên khi cần thì các ngân hàng thường vay mượn thêm. Ở nhiều nước NHTW
thường quy định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động vốn và vốn của chủ. Do vậy, nhiều
ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải đi vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu
chi trả khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Nghiệp vụ đi vay không dễ dàng như
nghiệp vụ nhận tiền gửi, khi đi vay ngân hàng còn phải tính đến mọi chi phí cũng
như phương án trả nợ hợp lý nhất vì tránh rủi ro cho ngân hàng mình.
- Vay của NHTW:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong việc chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ NHTM thường đến vay NHTW, NHTW
là nơi cuối cùng NHTM có thể đến vay. Hình thức cho vay chủ yếu của NHTW là

tái chiết khấu (tái cấp vốn). Khi nhu cầu vốn cấp bách, NHTM đến vay NHTW
bằng hình thức đem những thương phiếu đã chiết khấu ấy đến NHTW tái chiết
khấu. Thông thường NHTW chỉ chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng,
thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao phù hợp với mục tiêu của nhà nước
trong những thời kì khác nhau. Tuy nhiên trong trường hợp chưa có thương phiếu,
NHTM sẽ được vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức nhất định.
- Vay của các tổ chức tín dụng
Trên thị trường liên ngân hàng, đây là nguồn vay mà các ngân hàng thường
vay mượn lẫn nhau hoặc vay của các TCTD khác. Khi mà ngân hàng đang thiếu
hụt dự trữ, nguồn vốn không đủ để chi trả những khoản cấp bách, họ lập tức phải đi
vay để đáp ứng nhu cầu chi trả đúng thời hạn. Trong khi đó, những ngân hàng khác
hay những TCTD khác như các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm…đang có
lượng dự trữ vượt yêu cầu sẽ sẵn lòng cho vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn, lợi


nhuận cao hơn. Hai bên gặp nhau, cùng trao đổi để hai bên cùng có lợi, hình thức
vay này đơn giản, dựa trên uy tín của ngân hàng nên mạng lại hiệu quả cao và vì thế
cũng được sử dụng nhiều.Nhu vậy, nguồn vay từ các ngân hàng khác là rất hữu ích
trong việc đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả khi cấp bách và đôi khi là để bổ sung
hoặc thay thế cho nguồn vay từ NHTW.
- Vay trên thị trường vốn
Đây là nguồn vốn mà ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường
tài chính . Ngân hàng cũng là một trung gian tài chính, thường xuyên phải đáp ứng
nhu cầu về vốn cho khách hàng vì thế việc thiếu vốn là một điều không thể tránh
khỏi. Vay trên thị trường vốn là các khoản vay trung dài hạn vì thế chủ yếu phụ
thuộc vào uy tín của ngân hàng. Căn bản đây là hình thức vay ngân hàng phát hành
giấy nợ ra công chúng nên ngân hàng nào có uy tín cao, có khả năng trả lãi suất cao
thì sẽ được vay mượn nhiều. Ngân hàng có thể phát hành kì phiếu hoặc trái phiếu:
Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ mà người cầm nó có quyền đòi tiền
người phát hành ra nó mà ở đây là các NHTM. Trên trái phiếu ngân hàng có ghi

thời gian trả một số tiền nhất định cho người cầm trái phiếu này.
Kì phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu, là hình thức phục vụ tốt nhất cho
nhu cầu của khách hàng.
c. Vốn nợ khác
Ngoài các nguồn vốn trên, ngân hàng còn có những nguồn huy động vốn khác
như thông qua nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán…
- Các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân…
các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác cho ngân hàng.
- Nguồn trong thanh toán là các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt như
ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, séc, tiền kĩ quỹ để mở L/C…đã góp phần tạo nên
nguồn vốn cho ngân hàng.
1.2.2.Các hoạt động huy động vốn của NHTM


Sau khi mà các ngân hàng sử dụng hết nguồn vốn tự có của mình mà vẫn
không đủ để đáp ứng nhu cầu giao dịch và thanh toán của khách hàng thì các
NHTM đều phải huy động vốn từ bên ngoài. Huy động vốn là các hình thức nhằm
thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân, các thành phần khác trong nền kinh tế để phục
vụ cho mục đích kinh doanh của mình. Thường thì nguồn vốn này chiếm một tỉ
trọng khá lớn trong kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng để đảm bảo cho các hoạt
động của ngân hàng.
1.2.2.1. Các hình thức huy động vốn của NHTM
Tùy theo các tiêu chí khác nhau mà chia ra nhiều hình thức huy động vốn.
a. Huy động vốn theo thời gian


Vốn ngắn hạn

Là loại vốn có thời gian huy động dưới 12 tháng. Vì nhu cầu của khách hàng là
rất đa dạng nên ngân hang cũng chia ra làm rất nhiều thời gian khác nhau như dưới

1 tháng, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng hoặc khách hàng cũng có thể
rút ra bất kì khi nào họ cần. Nguồn này thì khá phù hợp với nhu cầu của khách hàng
song chi phí cũng khá lớn vì thế nguồn huy động này chủ yếu cho vay ngắn hạn.


Vốn trung hạn

Là loại vốn có thời hạn từ 12 tháng (1 năm) đến 5 năm. Nguồn này chủ yếu là
phục vụ cho khách hàng với những khoản vay trung hạn, có thể nói đây cũng là
nguồn rất quan trọng cho cả khách hàng và ngân hàng vì thế ngân hàng cần có
những hình thức huy động vốn thật hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này.


Vốn dài hạn

Vốn dài hạn là khoản vốn có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu để phục vụ cho
những nhu cầu dài hạn như các dự án có thời hạn dài. Tuy nhiên nguồn này chỉ
chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng vì huy động
nguồn này gặp khá nhiều khó khăn và chi phí cao.


Nói chung, NVHĐ có thời gian khác nhau thì ngân hàng cũng đưa ra quyết
định cho vay khác nhau, đầu tư như thế nào để tạo lợi nhuận cho ngân hàng và khả
năng thanh toán cho khách hàng.
b. Huy động vốn theo đối tượng
- Huy động vốn từ dân cư
Dân cư là tầng lớp huy động khá lớn bởi các tầng lớp dân cư đều có những
khoản tiền tạm thời chưa sử dụng đến. Có rất nhiều điều kiện có thể tiếp cận với
ngân hàng, mọi người đều có thể gửi tiết kiệm với mục đích là an toàn với khoản
tiền mình đem gửi và sinh thêm lãi. Để thu hút TGTK của dân, ngân hàng khuyến

khích dân thay đổi thói quen giữ vàng và tiền, đưa ra các biện pháp thu hút hấp dẫn
để thu hút được nhiều vốn.
- Huy động vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức xã hội
Trong quá trình kinh doanh, quá trình luân chuyển vốn, các tổ chức kinh tế,
các doanh nghiệp có những lượng tiền nhàn rỗi thì ngân hàng nơi phù hợp để giữ
vốn cho họ và tìm kiếm thêm lợi nhuận từ nguồn vốn đó. Hoặc thường là các doanh
nghiệp do nhu cầu của việc sản xuất kinh doanh nên các tổ chức này cần gửi vào
ngân hàng một lượng tiền lớn để thuận tiện cho việc thanh toán. Việc nhận tiền và
thanh toán đan xen nên ngân hàng sẽ có một khoản thu nhất định dường như góp
phần tạo nên nguồn vốn mà huy động với chi phí khá thấp lại khối lượng cũng khá
nhiều. Tuy nhiên cũng có hạn chế đó là tính ổn định của nó hơi kém, độ lớn là bao
nhiêu lại phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp.
- Huy động vốn từ các tổ chức của nước ngoài
Khi tham gia liên kết với các tổ chức nước ngoài thì một số các nghiệp vụ như
giữ vốn cho công trình đầu tư, giữ vốn ủy thác, vốn để thanh toán…tuy không sôi
nổi lắm nhưng có thể huy động được nguồn vốn khá lớn mặc dù không ổn định.
c. Huy động vốn theo phương thức huy động
- Huy động vốn bằng tiền gửi :




Huy động vốn bằng tiền gửi không kì hạn :

Đây là một dịch vụ khá quen thuộc và lâu đời, các khoản tiền doanh nghiệp gửi
vào nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán. Loại tiền này chủ sở hữu có thể trả chi đối
tác kinh doanh bằng séc hoặc việc rút tiền thực hiện bằng điện thoại hoặc qua các
cây ATM khá là rộng rãi. Đối với khách hàng thì mục đích chủ yếu trong việc trong
việc mở tài khoản này là thanh toán nên việc dễ dàng chuyển nhượng, dễ dàng chi
trả là một yếu tố rất quan trọng, còn việc hưởng lãi lại là thứ yếu, nó không đem lại

lợi nhuận cao cho người gửi nên lãi suất thấp thì thay vào đó người gửi được hưởng
dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
Tuy nhiên, khoản vốn này khá biến động, nó phụ thuộc vào tình hình kinh
doanh của từng doanh nghiệp. Do vậy, NHTM phải đưa ra dự kiến sự biến động của
khoản vốn này một tốt nhất thì mới sử dụng hiệu quả được.


Huy động bằng tiền gửi có kì hạn :

Trên thực tế, có những khoản tiền mà các cá nhân hay doanh nghiệp không cần
sử dụng ngay trong thời gian ngắn. Do vậy, ngân hàng đã đưa ra hình thức huy
động vốn là gửi tiền có kì hạn. Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa khách
hàng và ngân hàng về lãi suất và thời gian gửi. Thường thì khoản tiền này được gửi
với thời gian dài và ấn định nên cũng được đưa ra với chế độ lãi suất cao. Tuy nhiên
thì tùy vào tình hình thực tế của khách hàng mà có thể lựa chọn kì hạn khác nhau, 1
tuần, 1 tháng, 1năm…để gửi. Nếu khi cần thiết khách hàng vẫn có thể rút trước hạn
nhưng sẽ phải chịu lãi suất không kì hạn ( khá thấp so với việc hưởng lãi suất có kì
hạn). Vì thế nguồn này cũng mang lại nhiều thu nhập và lợi ích lớn.


Huy động vốn bằng TGTK :

TGTK là khoản tiền nhàn rỗi mà chưa được sử dụng của người dân, họ muốn
gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và thêm lợi nhuận. Nhân cơ hội, ngân hàng
có thể huy động thêm vốn, tích lại và sau đó cho vay các khách hàng. Điều này
ngân hàng vừa kiếm thêm lợi nhuận vừa thực hiện được chức năng chính của mình
là trung gian tài chính cung cấp vốn cho người thiếu vốn. Vốn huy động từ TGTK


cũng chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng NVHĐ bằng tiền gửi của ngân hàng. Ở

đây lãi suất còn được gọi là lãi bậc thang tức là lãi suất tỉ lệ thuận với thời gian tiền
gửi như vậy sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn lâu hơn, ngân hàng sẽ
tốn phí cao hơn nhưng cũng được nắm giữ lâu hơn, an toàn hơn nên vốn này thường
được dùng để đầu tư vào các dự án dài hạn. Mặc dù vậy nhưng nó lại phụ thuộc chủ
yếu vào thu nhập, tình hình kinh tế xã hội vì vậy ngân hàng cần đưa ra biện pháp để
hấp dẫn, lôi kéo khách hàng gửi tiền tiết kiệm.
- Huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá :
Các ngân hàng có thể phát hành những công cụ nợ như : chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu, kì phiếu…
+ Kì phiếu ngân hàng : là một loại giấn nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát
hành nhằm thu hút vốn trong dân cư. Lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng, được các
nhà đầu tư ưa chuộng, dễ chuyển đổi thành tiền mặt khi cần thiết.
+ Trái phiếu ngân hàng : là loại giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành cam kết
thanh toán một số tiền nhất định vào thời gian nhất định trong tương lai. Trái phiếu
là công cụ nợ dài hạn thường là 5 năm đến 10 năm, lãi suất thường bằng hoặc cao
hơn lãi suất trái phiếu Chính Phủ, nguồn này huy động được với số lượng lớn song
cũng phải bỏ ra số lượng chi phí lớn.
+ Chứng chỉ tiền gửi : là giấy xác nhận khoản vay của ngân hàng, xác nhận số
tiền vay, lãi suất, ngày đáo hạn. Công cụ này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản
lí tài sản nợ trong việc huy động vốn, để phù hợp với điều kiện, mức lãi suất được
thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng ở mức có thể chấp nhận được. Hình thức
này chủ yếu hấp dẫn các nhà kinh doanh nhỏ và hộ gia đình, nó cũng khá nhạy cảm
với lãi suất thị trường nên để có được nguồn vốn này ngân hàng cần nghiên cứu đưa
ra mức lãi suất hợp lí, đôi khi có thể cao hơn cả lãi suất trái phiếu. Hiện nay, nhiều
ngân hàng còn đưa ra các chứng chỉ tiền gửi dự thưởng đa dạng giúp khách hàng có
thể dễ dàng lựa chọn thời gian gửi phù hợp với kế hoạch tài chính của mình và linh
hoạt trong việc chuyển nhượng cầm cố khi thực hiện các giao dịch rút tiền. Có được


những sản phẩm như vậy tạo thêm nhiều thuận lợi hơn cho ngân hàng và thu hút

được vốn với số lượng mong muốn.
- Vay từ NHTW và các tổ chức khác :
+ Vay từ NHTW : khi thiếu vốn trầm trọng hay đang rơi vào những thời điểm
cấp bách thì NHTW là nơi cuối cùng có thể giúp cho các NHTM đảm bảo khả năng
thanh toán bằng việc đem các giấy tờ có giá tới NHTW xin tái chiết khấu, tái cấp
vốn.
+ Vay của các tổ chức tín dụng khác : đều là các doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ việc đi vay các tổ chức tín dụng khác là chuyện khó tránh khỏi
bởi nguồn này không cần đảm bảo mà nhanh, tuy nhiên cũng chỉ sử dụng khi thật
cần thiết.
- Tăng vốn chủ sở hữu : hình thức huy động này ngân hàng có thể thực hiện
bằng rất nhiều cách như giữ lại lợi nhuận không chia để tăng thêm nguồn vốn chủ
sở hữu hoặc phát hành thêm cổ phần, cổ phiếu. Để tăng thêm nguồn vốn chủ sở hữu
làm tăng thêm uy với khách hàng và năng lực hoạt động trên thị trường thì đây
cách rất phù hợp cho ngân hàng và đảm bảo khả năng thanh toán với chi phí thấp
hoặc không mất phí.
- Hình thức khác : ngoài các hình thức trên, ngân hàng còn sử dụng các hình
thức khác nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư như thông qua các
hoạt động ủy thác bao gồm ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát…dịch
vụ câu lạc bộ hoặc đứng ra làm dịch vụ đại lý phát hành chứng khoán cho các công
ty, trung gian thanh toán để tranh thủ được khoản tiền nhàn rỗi trong quá trình thu
chi hộ khách hàng.
1.2.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá huy động vốn
- Quy mô hoạt động vốn :
Đây là yếu tố đầu tiên khi xem xét về hoạt động huy động vốn. Dù ở bất kì
doanh nghiệp nào điều đầu tiên cần biết đến đó là quy mô hoạt động của nó như thế
nào ? lớn hay nhỏ ? đặc biệt với ngân hàng thì điều này lại khá là quan trọng, nhắc


đến ngân hàng là nhắc đến quy mô về vốn bởi đó là nguồn chính để ngân hàng

cung cấp các dịch vụ về mặt tài chính cho khách hàng. Với mục tiêu là tối đa hóa
lợi nhuận, tối đa hóa giá trị tài sản và nâng cao uy tín của mình thì ngân hàng phải
mở rộng hơn nữa về mặt kinh doanh đa dạng các dịch vụ, cơ bản của điều đó chính
là nâng cao hiệu quả và chất lượng huy động vốn. Mỗi ngân hàng khác nhau, tùy
vào điều kiện sẵn có mà tốc độ thay đổi quy mô vốn là khác nhau. Với những ngân
hàng lớn thì quy mô vốn lớn nhưng tốc độ thay đổi nguồn vốn lại nhỏ hơn những
ngân hàng nhỏ song các ngân hàng đều đạt những sự thay đổi nhất định về nguồn
vốn qua từng thời kì.
- Chi phí huy động vốn :
Chi phí của nguồn vốn là nhân tố quyết định chất lượng nguồn vốn như thế
nào. Huy động nguồn có chi phí thấp thì ngân hàng có được lợi nhuận cao, có thể
mở rộng cho vay, đầu tư và ngược lại. Tuy nhiên, nhân tố cơ bản quyết định chi phí
đó là lãi suất, cái luôn là vấn đề quan tâm của các chủ thể kinh tế. Người gửi muốn
hưởng lãi suất cao, người vay lại muốn vay lãi suất thấp vì thế ngân hàng phải tìm
cách điều chỉnh lãi suất cho hợp lý cho các bên và đảm bảo lợi ích của ngân hàng.
Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, bên cạnh
đó sự đa dạng lãi suất phù hợp với cách hình thức huy động là điều cần thiết. Có
nhiều ngân hàng đưa ra nhiều biện pháp điều chỉnh bằng cách cải thiện biên độ lãi
suất đầu ra để từ đó tăng lãi suất đầu vào mà ngân hàng vẫn có lãi nhưng để làm
được điều này là không phải dễ dàng.
Bên cạnh chi phí về lãi suất còn có một số chi phí cũng ảnh hưởng đến chi phí
huy động vốn như chi phí in ấn phát hành, chi phí tiền lương cho cán bộ huy động
vốn, chi phí cơ sở vật chất, quảng cáo…mặc dù chi phí này chiếm một phần rất nhỏ
nhưng nếu hạn chế được nó thì cũng giảm bớt được phần nào chi phí huy động vốn
cho ngân hàng.
- Tính ổn định của nguồn vốn:


Ở đây, ổn định về nguồn vốn bao gồm ổn định về khối lượng, cơ cấu nguồn và
tốc độ tăng trưởng. Chúng ta hiểu được rằng công tác huy động vốn không thể có

hiệu quả khi kết quả hoạt động huy động vốn không đạt quy mô theo kế hoạch ngân
hàng đề ra hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn và sự hợp lí giữa vốn
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cơ cấu huy động vốn thay đổi sẽ ảnh hưởng tới sự
thay đổi cơ cấu đầu ra của ngân hàng như việc cho vay, bảo lãnh, đầu tư…ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Vì thế sự tác động này đòi hỏi ngân
hàng phải thường xuyên nghiên cứu thị trường một cách chính xác nhất để tránh
những rủi ro cao cho ngân hàng.
Mặt khác thì khối lượng vốn có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô vốn, để tạo
điều kiện cho hoạt động của ngân hàng đòi hỏi quy mô vốn phải lớn, mở rộng hoạt
động kinh doanh và đa dạng cung cấp dịch vụ. Khi quy mô vốn lớn thì ngân hàng
phải quan tâm tới tốc độ tăng trưởng của nó, nó có ổn định hay không và tăng
trưởng như thế nào là điều không dễ dàng. Vì vậy ngân hàng cần kiểm soát để có
thể giảm được đáng kể những khó khăn về vốn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn của NHTM
1.3.1. Nhân tố khách quan
1.3.1.1. Môi trường pháp lý
Ở bất kì quốc gia nào, hoạt động ngân hàng đều có mức độ ảnh hưởng, tác
động mạnh mẽ tới nền kinh tế mà cụ thể là việc huy động vốn và sử dụng vốn đều
có tác động rõ rệt tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, tốc độ chu chuyển vốn, tình
hình lạm phát. Là một doanh nghiệp kinh doanh, hoạt động ngân hàng cũng chịu
những quy định của pháp luật như luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN, chính sách
tiền tệ, chính sách tỉ giá, đầu tư…
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ: kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, sức mua
đồng tiền, tăng trưởng kinh tế…Lạm phát tăng nhà nước sẽ thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút tiền ngoài xã hội như
vậy ngân hàng sẽ thu hút vốn dễ dàng hơn. Ngược lại, khi nhà nước khuyến khích


đầu tư thì các NHTM sẽ khó thu hút vốn hơn vì nguồn tiền nhàn rỗi đó đã được đầu
tư vào sản xuất.

- Lãi suất chiết khấu: nếu tăng sẽ hạn chế việc ngân hàng đến vay và ngược
lại.
- Dự trữ bắt buộc: nếu tăng cao sẽ làm cho vốn khả dụng của ngân hàng giảm,
thắt chặt khả năng tạo tiền của ngân hàng và ngược lại.
1.3.1.2. Môi trường kinh tế, chính trị
Tình hình chính trị ổn định hay bất ổn, chính sách ngoại giao mở rộng hay thắt
chặt, quan hệ hợp tác song phương giữa các quốc gia đều ảnh hưởng đến hoạt động
huy động vốn của NHTM. Một nền chính trị ổn định sẽ kích thích đầu tư nước
ngoài tạo điều kiện cho hoạt động thu hút vốn của ngân hàng, khả năng phát triển
hoạt động kinh doanh cao hơn và như vậy người dân sẽ có nhiều tài sản nắm giữ,
nhiều tiền mặt để gửi vào ngân hàng. Ngược lại, một nền chính trị gặp nhiều vấn đề,
kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá sẽ làm cản trở việc huy động
vốn của ngân hàng.
1.3.1.3. Tâm lý thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tâm lý, tập quán tiêu dùng của người dân ảnh hưởng một phần tới hoạt động
huy động vốn của các NHTM. Ở những vùng dân cư quen sử dụng số tiền nhàn rỗi
vào việc gửi ngân hàng để hưởng lãi, an toàn tài sản thì cơ hội thu hút vốn của ngân
hàng sẽ dễ dàng hơn. Còn nếu người dân lại quen sử dụng dưới hình thức tích trữ
vàng, hàng hóa hay tiền mặt thì việc huy động vốn cũng khó khăn hơn, một phần
cũng vì vàng là loại hàng hóa đảm bảo giá trị. Vì vậy ngân hàng cần nâng cao hoạt
động marketing giúp cho người dân hiểu được chức năng của ngân hàng.
1.3.1.4. Nhân tố khách hàng
Khách hàng là người trực tiếp đến gửi tiền tại ngân hàng, huy động vốn ít
chứng tỏ khách hàng đó đã không chọn ngân hàng mình làm điểm đến của họ. Một
ngân hàng có chất lượng phục vụ tốt, nhiệt tình, uy tín hoặc có mức lợi tức cao sẽ
thu hút được nhiều khách hàng hơn những ngân hàng không làm được điều này.


1.3.1.5 Sự cạnh tranh trên thị trường
Trong môi trường ngành ngân hàng, cạnh tranh về tiền gửi có thể diễn ra dưới

nhiều hình thức. Về cơ bản thì các ngân hàng có thể áp dụng các điều kiện giống
nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền, vì thế các sản phẩm dịch vụ liên quan đến
tiền gửi càng ngày được mở rộng hơn và phổ biến nhanh chóng . Thêm vào đó
nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng còn huy động tiền gửi có kì hạn còn cung cấp
các tài khoản không kì hạn. Do cạnh tranh nên lãi suất tiền gửi tăng lên trong khi
giá dịch vụ liên quan đến tiền gửi giảm xuống, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận của ngân hàng.
Bên cạnh đó, việc marketing không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả vì thế
cũng tạo nên khó khăn cho ngân hàng.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Hình thức huy động vốn của ngân hàng
Với mỗi khách hàng khác nhau lại có một mục đích và nhu cầu gửi tiền vào
ngân hàng khác nhau. Do đó, hình thức huy động của ngân hàng đưa ra càng phong
phú, đa dạng và linh hoạt thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn.
Chính sự đa dạng hóa các hình thức huy động vốn càng giúp người dân, mỗi doanh
nghiệp chọn được một hình thức đầu tư hợp lí. Ngược lại chất lượng dịch vụ chưa
cao, mạng lưới hoạt động còn ít chưa thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch
với ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn của ngân hàng.
Hiện nay, các NHTM cũng đưa ra các hình thức đa dạng như tiết kiệm có kì
hạn trả trước, trả sau, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm tiêu dùng…bên cạnh đó còn đưa
ra các chương trình khuyến mại, kì hạn lãi phong phú lãi tuần, lãi tháng, lãi năm…
để nhằm thu hút hơn nữa khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
1.3.2.2. Lãi suất huy động vốn
Lãi suất là một vấn đề được chú ý khá lớn khi một khách hàng cá nhân hay
doanh nghiệp nào đó muốn gửi tiền vào ngân hàng. Nếu khách hàng đánh giá ngân
hàng có cùng một hệ số an toàn và tiện ích như nhau thì họ sẽ chọn ngân hàng nào


có lãi suất huy động cao hơn. Khung lãi suất đưa ra phụ thuộc vào lãi suất trần hay
lãi suất sàn theo quy định của NHTW và điều chỉnh theo chính ngân hàng đó. Tuy

nhiên, không phải lãi suất huy động nào cũng giống nhau, thông thường lãi suất tiết
kiệm có ảnh hưởng hơn bởi người dân còn so sánh với sự trượt giá của đồng tiền
trong tương lai hay việc đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu…có lợi hơn. Nhưng đối với
doanh nghiệp thì việc lãi suất huy động lại không ảnh hưởng nhiều bởi tiền hộ gửi
vào chủ yếu là để thanh toán. Vì vậy, để thực hiện lãi suất huy động hợp lý thì các
NHTM cần thường xuyên theo dõi những biến động lãi suất trên thị trường và địa
bàn hoạt động để điều chỉnh cho kịp thời và thu hút được khách hàng hơn nữa.
1.3.2.3. Trình độ công nghệ ngân hàng
Ngày nay khi khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì trong ngành ngân
hàng nói riêng, công nghệ thanh toán hiện đại, không dùng tiền mặt ngày càng
chiếm ưu thế. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở một ngân
hàng có trình độ công nghệ cao, cơ sở vật chất khang trang hiện đại. Và thực tế hiện
nay đã có nhiều sản phẩm dịch vụ mới như ATM, POS, dịch vụ ngân hàng điện tử
…rất hiện đại và thuận tiện nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nghiệp
vụ chuyển tiền điện tử, thanh toán qua mạng điện tử, trả lương qua tài khoản đang
ngày càng phát triển góp phần làm tăng hiệu quả huy động vốn cho ngân hàng.
1.3.2.4. Uy tín của ngân hàng
Uy tín của ngân hàng có thể coi là tài sản vô hình của ngân hàng bởi nó sẽ tạo
nên trong thị trường ngân hàng một hình ảnh riêng, như vậy khách hàng sẽ tin
tưởng vào ngân hàng, gửi tiền vào ngân hàng bởi sự an toàn và dịch vụ tốt nhất cho
dù phải chịu lãi suất thấp hơn các ngân hàng khác. Các tổ chức tín dụng cũng sẽ cho
vay với những ngân hàng nổi tiếng, có uy tín, kinh doanh có lãi bởi như vậy họ
cũng sẽ có khả năng trả nợ cao hơn. Như vậy khi có uy tín với khách hàng và các tổ
chức khác giúp cho ngân hàng ổn định khối lượng huy động vốn, tiết kiệm chi phí
và mang lại chất lượng cao.
1.3.2.5. Chính sách marketing ngân hàng


Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng cho rằng lãi suất càng cao
càng tốt họ sẽ lập tức gửi tiền vào ngân hàng có lãi suất đưa ra là cao nhất. Nhưng

có những khách hàng lại thích gửi tiền vào một ngân hàng có uy tín, có thương hiệu
đã được khẳng định. Hoạt động marketing của NHTM cần được đặt ra cao hơn, có
tình đặc thù hơn bởi quá trình hình thành nên một sản phẩm mới phải mất rất nhiều
thời gian và công sức, bên cạnh đó còn có những khó khăn không phải ngân hàng
nào cũng làm được. Nếu không được biết đến và hoạt động nhiều sẽ gây những chi
phí đáng kể cho ngân hàng.
Vì thế, ngân hàng cần đưa ra các hình thức quảng bá hình ảnh, đẩy mạnh và
phát triển thương hiệu giúp cho khách hàng đến với ngân hàng một cách nhanh nhất
góp phần không nhỏ vào hoạt động huy động vốn.
1.3.2.6. Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
- Phương diện quản lý : Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản nợ,
có của công ty sẽ nắm bắt được những rủi ro xảy ra, dự đoán sự đầu tư của mình có
hiệu quả hay không thì quá trình đảm bảo về vốn và thu hút được khách hàng.
- Phương diện nghiệp vụ : Trình độ nghiệp vụ của ngân hàng càng cao, thao
tác nhanh và chính xác, tác phong làm việc tốt, nhiệt tình, vui vẻ sẽ gây được ấn
tượng tốt với khách hàng, hấp dẫn được nhiều khách hàng hơn tạo thuận lợi cho
việc thu hút vốn của ngân hàng. Như vậy ngân hàng cần phát huy hơn nữa cả về
trau dồi nghiệp vụ, kiến thức và thái độ làm việc để giữ được mối quan hệ lâu dài
giữa khách hàng và ngân hàng.
1.3.2.7. Các dịch vụ do ngân hàng cung cấp và chất lượng các dịch vụ
Một ngân hàng đưa ra hệ thống dịch vụ đa dạng, chất lượng tốt đương nhiên sẽ
có lợi thế hơn những ngân hàng hạn chế về dịch vụ. Các ngân hàng có hệ thống có
dịch vụ qua thư tín, điện tử, chi nhánh tự động và dịch vụ hoạt động nhanh nhạy sẽ
là một lợi thế cho ngân hàng trong hoạt động huy động vốn.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT
HUYỆN QUỲNH PHỤ
2.1. Giới thiệu về NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ
Theo nghị định số 53/ HĐBT ngày 26/03/1988 Ngân hàng phát triển nông thôn
Việt Nam được thành lập và hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Ngày 14/11/1990 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 400/CP đổi tên thành Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam. Đến ngày 15/10/1996 thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam được thủ tướng chính phủ ủy quyền ký quyết định 280/QĐ-NH5 đổi tên
thành Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Tên tiếng anh : Vietnam Bank For Agriculture And Rural Development
Viết tắt là AGRIBANK
Cùng với sự lớn mạnh không ngừng của NHNo&PTNT Việt Nam.
NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ cũng kiên trì phấn đấu vươn lên để tự khẳng định
mình. Khi mới chuyển sang Ngân hàng nông nghiệp, hành trang mang theo của
Ngân hàng Quỳnh Phụ chủ yếu là đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo trong
đó cán bộ trình độ đại học còn ít, cán bộ có trình độ trung cấp và sơ cấp là đa số
trên tổng số cán bộ toàn cơ quan. Nhưng đến nay, NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ
đã có những kết quả tiến bộ không ngừng, toàn chi nhánh có 1 trung tâm
NHNo&PTNT huyện ( thuộc thị trấn Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình) và 3 Ngân
hàng cấp III đó là phòng giao dịch Quỳnh Trang, phòng giao dịch Bến Hiệp, phòng
giao dịch Tư Môi với trụ sở làm việc khang trang với đội ngũ cán bộ công nhân
viên chức có trình độ đại học là đa số chiếm 60% tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ
nông dân của 38 xã giao dịch với ngân hàng, nâng cao việc cung cấp chất lượng
dịch vụ.


Từng bước NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ đã và đang xây dựng và trưởng
thành, tự tin vững bước trong công cuộc đổi mới, hòa mình vào sự phát triển vượt
bậc của hệ thống điện tử hiện đại, an toàn, tin cậy đạt hiệu quả với chuẩn mực quốc
tế trong quá trình hội nhập kinh tế của đất nước.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ
Sơ đồ cơ cấu tổ chức tại NHNo&PTNT huyện Quỳnh Phụ :


GiámĐốc
GiámĐốc

Phó
Phó Giám
Giám Đốc
Đốc

Phòng
Phòng Kế
Kế Toán
Toán -- Ngân
Ngân Quỹ
Quỹ

Phó
Phó Giám
Giám Đốc
Đốc

Phòng
Phòng Hành
Hành Chính
Chính Sự
Sự Nghiệp
Nghiệp

Và 3 phòng giao dịch :
Phòng giao dịch Tư Môi


Phòng giao dịch Quỳnh Trang

Phòng giao dịch Bến Hiệp

Phòng
Phòng Kế
Kế Hoạch
Hoạch -- Kinh
Kinh Doanh
Doanh


×