SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“PHƢƠNG PHÁP RÈN CHỮ, GIỮ VỞ CHO HỌC SINH TIỂU
HỌC”
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tên sáng kiến: Phƣơng pháp rèn chữ, giữ vở cho học sinh tiểu học.
2. Lý do chọn sáng kiến:
Ở tiểu học rèn 4 kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết là việc làm khơng thể thiếu được
trong suốt quá trình dạy học và là trách nhiệm, nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên.
Tất cả các kỹ năng cùng lúc đều phải rèn song việc rèn kỹ năng viết cho học sinh
tiểu học là rất quan trọng.
Thông thường từ trước người thầy giáo chỉ chú ý dạy các em viết (ghi lại bằng chữ) các
nội dung kiến thức đã học mà chưa có sự chú ý đúng mức về mặt nghệ thuật viết của các
em. Bởi vì kỹ năng viết chữ là loại kỹ năng thiên về mặt kỹ thuật, địi hỏi sự khéo léo,
kiên trì luyện tập. Thậm chí có em học rất giỏi tốn, tiếng việt nhưng về mặt chữ viết lại
rất xấu.
Ngày nay được sự quan tâm sát sao của các cấp giáo dục, việc rèn chữ cho học sinh tiểu
học càng được chú trọng hơn, đúng như lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: ”Nét
chữ- nết người”. Vì vậy thơng qua việc rèn chữ là rèn cho các em những đức tính hết sức
cần thiết và quan trọng của mỗi con người để vận dụng trong học tập cũng như trong
cuộc sống, đó là tính cẩn thận, tỷ mỷ, kiên trì, chính xác và thẩm mỹ. Thực tế trong q
trình học từ lớp1 đến lớp 5, học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp tơi nói riêng cịn
có nhiều sai sót về chữ viết nên tơi rất chú trọng đến vấn đề này. Chính vì vậy tơi đã chọn
việc “ rèn chữ, giữ vở” cho học sinh là cơng việc chính phải làm trong nhiều năm và ngay
trong năm học này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của sáng kiến:
Học sinh lớp 2A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy. Thông qua tất cả các môn học mà
chủ cơng là giờ tập viết và chính tả.
Tìm ra hình thức, phương pháp, mơ hình và giải pháp thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục toàn diện trong trường tiểu học.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của sáng kiến
*Phương pháp tiếp cận: Tiếp cân thực tế hàng ngày với học sinh qua các giờ dạy.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân loại học sinh theo đối tượng để nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ của sáng kiến
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh, phân loại học sinh.
Đánh giá nhận thức và ý thức việc rèn chữ, giữ vở của học sinh
Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc rèn chữ, giữ vở.
Tìm ra được giải pháp thực tiễn, hình thức có hiệu quả
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Việc “Rèn chữ đẹp, giữ vở sạch” là một vấn đề không mới. Mặc dù những năm học trước
nhà trường đều có kế hoạch chỉ tiêu đề ra cho mỗi lớp song kết quả chưa cao. Mãi đến
năm học 1997-1998 mới được Sở giáo dục đào tạo quan tâm, chỉ đạo sát sao xuống các
phòng giáo dục và các trường tiểu học. Để thực hiện tốt lời dặn của cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng “Nét chữ-nết người”. Tôi đã tiến hành khảo sát bằng nhiều hình thức ngay từ
tuần 2 tháng thứ nhất của học kỳ I và đã phân ra từng đối tượng học sinh.
CHƢƠNG II: ĐIỀU TRA KHẢO SÁT
Đối tƣợng1: Các em có ý thức rèn chữ giữ vở. Trình bày đẹp, chữ việt đúng mẫu, đúng
cỡ, chữ viết đều nét, viết rõ ràng các kiểu chữ nét thẳng, nét cong, nét hất, biết nối liền
nét các chữ trong tiếng, khoảng cách các chữ đều nhau (xếp loại A).
Đối tƣợng 2: Chữ viết nhìn chung chưa đạt như đối tượng1. Chữ viết rõ ràng song nét
chữ không đều, lúc thưa lúc mau. Một số chữ tỷ lệ chiều cao chưa đúng, gạch xoá chưa
đúng quy định ( xếp loai B).
Đối tƣợng 3: Các em viết chữ xấu, sai lỗi chính tả. Cụ thể: chữ viết khơng đủ chiều cao
quy định, các nét không rõ ràng, gãy nét, khoảng cách giữa các chữ khơng đều, hay gạch
xố bẩn, vở nhàu bẩn, quăn góc (xếp loại C)
Kết quả điều tra và phân loại
T/số
học
Đối tƣợng 1
Đối tƣợng 2
Đối tƣợng 3
số em
%
số em
%
số em
%
10
26,34
18
47,32
10
26,34
sinh
38
Khi đã phân loại ra các đối tượng trong lớp, tơi có kế hoạch rèn ngay từ tuần thứ 3 của
năm học.
CHƢƠNG III: BIỆN PHÁP
Đầu tiên tơi tiến hành tìm hiểu rõ nguyên nhân việc các em viết chữ xấu, sai nhiều
lỗi chính tả là vì do đâu?
Lý do:
Ngồi trong lớp các em chưa tập trung chú ý nghe giảng. Giờ tập đọc, các em đọc
yếu chưa chú ý phát âm đúng các âm vần, tiếng dễ lẫn, khi các bạn đọc chưa rèn đọc
thầm theo bạn- Chưa chăm viết bài hàng ngày ( giờ tập viết, chính tả hay qn vở hoặc có
viết thì viết cho xong, khơng có ý thức rèn chữ).
Sau khi biết rõ ngun nhân, tôi tập trung rèn chữ cho học sinh trong lớp mình phụ
trách, nhất là đối tượng 3 và 2.
1. Viết bảng của giáo viên:
Để viết bảng của giáo viên được chuẩn, thẳng hàng chúng tôi đã đề nghị nhà trường
kẻ bảng. Chẳng những bảng lớp được kẻ dòng mà cịn kẻ ly và ơ như trong vở viết của
học sinh. Từ việc có bảng kẻ, muốn cho học sinh viết đúng, đẹp thì điều trước tiên người
thầy giáo phải viết bảng đẹp, cẩn thận vì học sinh tiểu học dễ bắt chước “thầy viết thế
nào, trò viết thế ấy”.
2. Vở viết của học sinh:
Các bộ vở trong lớp được đều, đẹp cùng với quy định của nhà trường tôi đã qui
định chung vở viết cho lớp.
Cụ thể: Cả lớp thống nhất cùng viết 1 loại vở (Kẻ ô ly vuông), cùng viết 1 loại mực.
Khi các em cất vở vào cặp, để tránh nhàu nát, quăn góc, tơi hướng dẫn các em cách
đưa phần gáy của sách vở vào trước và xuống dưới cặp. Khi giở vở cũng phải có cách mở
tránh làm nhàu vở.
Với các lớp đầu cấp học, các em còn nhỏ, việc giữ gìn sách vở sạch đẹp là vấn đề
nan giải. Chính vì vậy mà tơi đã u cầu mỗi quyển ghi của các em phải có một mảnh bìa
cứng, cặp vào trang vở đang viết. Để khi cần các em sẽ mở được vở ngay mà không cần
phải lật từng trang để tìm. Hơn nữa tờ bìa đó khi viết cịn giúp các em kê ở dưới tay
khơng làm bẩn vở (Nhất là những em ra mồ hôi tay hoặc tay bị bẩn)
3. Trong giờ tập đọc:
Tôi cố gắng đọc thật chuẩn (đọc diễn cảm, phát âm rõ ràng) để các em chú ý nghe.
Tôi luôn chú ý đến các em đọc yếu: Gọi đọc thường xuyên, uốn nắn kịp thời những
sai sót nhất là phát âm tiếng, từ các âm đầu rễ lẫn: l/n, ch/tr, r/gi/d/s/x… và một số vần
khó đọc các em phải đọc đi đọc lại nhiều lần.
4. Trong giờ tập viết:
Tôi đưa ra chữ mẫu cho học sinh quan sát, sau đó viết mẫu, hướng dẫn học sinh
viết từng nét trong chữ, độ cao, nét hất, khoảng cách, cuối cùng là các em được luyện viết
bảng rồi viết vở.
5. Trong giờ chính tả:
Khi đọc mẫu bài (đoạn ) viết, giáo viên cần phải đọc chuẩn. Trước khi viết bài cần
cho các em luyện viết những tiếng, từ khó (vào bảng con hoặc vở nháp ) và nhắc nhở học
sinh:
- Yêu cầu về chữ: Chữ viết phải đúng cỡ (1ly), nét chữ đều đặn, tròn trịa, nối liền
các nét trong một chữ. Chú ý các nét khuyết, nét hất, khoảng cách các nét chữ, các chữ
trong toàn bài đều nhau.
- Yêu cầu cần đạt về điểm: Điểm đạt yêu cầu là 9,10.
Quy định của lớp:
Bài đạt điểm 7 - 8: Viết lại 1 lần
Bài đạt điểm 5 - 6: Viết lại 2 lần
Bài viết dưới điểm 5: Viết lại 3 lần
Từ kết quả điểm số và quy định của lớp để các em thấy cần chú ý cẩn thận khi viết để đạt
kết quả tốt.
* Trong khi học sinh viết bài: người thầy giáo phải chú ý đọc to, rõ ràng, đúng tốc độ
(đọc 2 lần 1 câu hoặc cụm từ, không đọc đi đọc lại nhiều lần) để học sinh phải chú ý viết
bài cho kịp, cho đúng.
Người thầy giáo cũng phải thường xuyên quan sát theo dõi những em viết chậm, sai
lỗi chính tả để uốn nắn kịp thời.
Trong các giờ học khác người thầy đều phải nhắc nhở trình bày chữ viết đúng quy
định, viết cẩn thận cho đẹp, cách kẻ chân tên môn, kẻ hết bài, hết ngày, hết tuần.
+ Quy định chung:
- Kẻ hết bài: Kẻ ở giữa (cách mác 3 ơ và 3 ơ ở cuối dịng)
- Kẻ hết ngày: Kẻ từ mác vở đến hết dòng
- Kẻ hết tuần: Kẻ sát ngay từ mép vở đến hết
Chú ý các đường kẻ hết bài, hết ngày, hết tuần đều kẻ trùng vào đường kẻ chính (đường
kẻ đậm)
Với những em hay viết sai chính tả, viết xấu các chữ cái có chiều cao 4 ly, có nét
khuyết như chữ: h, b, l , k… các chữ có chiều cao 2 ly như chữ: m, n, …. nét chữ viết hay
nhọn đầu, cần cho các em viết lại nhiều lần, nhiều dịng, bao giờ được mới thơi. Cịn các
em khác có ý thức tự giác rèn chữ hơn, giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá bài
viết của các em bằng điểm số.
Sau một tháng cho các em thi viết một bài chính tả, một bài tập viết (Chủ yếu viết
các chữ cái, chữ viết hoa), trình bày một bài văn xi, bài thơ. Mục đích qua mỗi lần thi
như vậy đạt được những yêu cầu sau:
- Học sinh biết viết đúng cỡ chữ, mẫu chữ, nét chữ.
- Chữ viết đẹp, đúng các chữ hoa, trình bày bài đẹp, khoa học.
- Rèn kỹ năng viết, tốc độ viết nhanh, cẩn thận.
* Qua mỗi bài thi viết của học sinh, giáo viên chọn ra những bài viết đúng nhất, đẹp nhất,
mẫu mực nhất để cả lớp cùng quan sát, học tập. Đồng thời cho trưng bày các bài đó lên
bảng “Bài hay điểm giỏi” để hàng ngày các em cùng lấy đó làm bài học rèn chữ cho
mình.
* Bên cạnh đó, giáo viên nên xếp các em có ý thức “rèn chữ, giữ vở” thường xuyên ngồi
cạnh những em chữ viết xấu, hay sai lỗi chính tả. Nhằm mục đích các em có khá này
nhắc nhở, giúp đỡ các bạn này và để các bạn viết xấu, ẩu quan sát và học tập bạn mình.
* Mỗi tháng giáo viên đều chấm vở sạch chữ đẹp cho học sinh cả lớp, xếp loại về chữ
viết về bộ vở của học sinh. Qua việc chấm vở tìm ra những gương tốt trong lớp về: Chữ
viết đẹp, bộ vở sạch, trình bày bài viết đẹp khoa học để làm gương cho cả lớp đồng thời
nhắc nhở chấn chỉnh những em chữ viết và vở chưa đạt yêu cầu.
Khi chấm bài cho học sinh, giáo viên cần phải lưu ý về cách viết điểm số cũng như
lời nhận xét trong bài của học sinh phải rõ ràng, chân phương đúng như chữ số, mẫu chữ,
cỡ chữ mà người thầy đã rèn cho học sinh của mình, để các em học tập và noi theo.
Mặt khác giáo viên phối kết hợp với cha mẹ học sinh rèn chữ viết cho các em ở
nhà. Gia đình kiểm tra, nhắc nhở các em thường xuyên trao đổi lại với giáo viên chủ
nhiệm.
Với các em học sinh trong lớp, biện pháp trên đã có sự chuyển biến rõ rệt về “rèn
chữ, giữ vở”
CHƢƠNG IV: KẾT QUẢ SAU KHI ỨNG DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
1. Sau khi sử dụng các biện pháp trên, kết quả đạt đƣợc:
Cho đến nay hầu hết các em học sinh trong lớp đều viết đúng các cỡ chữ, nét chữ
trịn đều khơng bị gãy nét, vở giữ sạch sẽ, khơng bị nhàu nát, quăn góc, đạt u cầu về “
rèn chữ, giữ vở”.
2. Kết quả cụ thể:
Số em viết đúng, đẹp, trình bày sạch sẽ nhiều hơn trước (28 em)
Số em viết chưa thật đẹp song viết đúng cỡ, đúng mẫu, đủ nét, rõ ràng, trình bày
tương đối sạch đẹp (6 em)
Số cịn lại (4 em) đã có nhiều cố gắng trong việc rèn chữ song trình bày đơi chỗ cịn
bẩn nên tôi vẫn tiếp tục kiểm tra, giúp đỡ các em rèn luyện tốt.
Bảng so sánh
a- Đầu năm học:
Số h.s
của lớp
38 em
Vở loại A
Vở loại B
Vở loại C
Tổng số %
Tổng số %
Tổng số %
10 em
18 em
10 em
20,34
47,32
26,34
b- Cuối kỳ I:
Số h.s
của lớp
Vở loại A
Vở loại B
Vở loại C
Tổng số %
Tổng số %
Tổng số %
38 em
34 em
89,48
4
10,52
0
0
Năm học 2010 - 2011 qua kỳ thi “ vở sạch chữ đẹp” của trường lớp tôi đạt 90% bộ vở
được xếp loại A. Đó cũng là kết quả và thành công của tôi đã vận dụng trong phương
pháp rèn chữ cho học sinh.
CHƢƠNG V: KẾT LUẬN
Một điều tôi tự thấy rằng không thể thiếu và bỏ qua được đó là sự mẫu mực, là sự
cẩn thận của người thầy giáo, nhất là vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp vì đối với
học sinh tiểu học “ Thầy làm thế nào, trị làm thế ấy”. Chính vì vậy, tơi ln thận trọng,
cẩn thận trong từng việc làm của mình. Từ khâu đọc mẫu trong các giờ tập đọc, đến cách
trình bày chữ viết, chữ số trên bản, trong lời phê nhận xét chấm chữa bài trong vở của
học sinh, tôi luôn cố gắng: Đọc chuẩn, viết cẩn thận đúng mẫu chữ, cỡ chữ để làm gương
cho các em học tập, noi theo.
Vì vậy mà trong từng giờ học tơi chỉ nhắc nhở các yêu cầu, học sinh hiểu và thực
hiện đúng ngay.
Việc rèn chữ giữ vở tôi đã thực hiện từ những năm khi các em mới vào lớp 1.
Song càng lên các lớp cuối cấp, các em được học nhiều mơn hơn, chương trình dài,
kiến thức khó hơn cộng với sự thiếu tự giác, thiếu sự kiên trì của lửa tuổi học sinh tiểu
học chắc chắn không tránh khỏi sự vội vàng, cẩu thả. Nếu giáo viên không kiểm tra sát
sao, nhắc nhở và uốn nắn thường xuyên thì các em khó có thể đạt được về yêu cầu “rèn
chữ đẹp, giữ vở sạch” được.
Việc rèn chữ giữ vở thường xuyên còn tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn
học khác. Bởi lẽ với bất kỳ môn học nào đều phải đạt được yêu cầu trọng tâm về kiến
thức kỹ năng và ý nghĩa giáo dục thẩm mỹ, đức tính kiên trì, bền bỉ, thận trọng và chính
xác.
Chính vì vây việc rèn chữ cho học sinh tiểu học là một việc rất cần thiết thường
xuyên của giáo viên tiểu học nói riêng và của người làm cơng tác giáo dục nói chung.
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trên cơ sở thực tiễn và phân tích kết quả đối chiếu với yêu cầu đặt ra, tôi đã thực
hiện được phần lớn.
- Điều tra thực tế và phân tích kết quả đối chiếu với yêu cầu đặt ra để nắm bắt tình
hình cụ thể.
- Đánh giá đúng mức trình độ của học sinh, động viên kịp thời, gây hứng thú
cho học sinh trong học tập, nhất là việc rèn chữ cho học sinh tiểu học.
- Phối kết hợp giữa phụ huynh, nhà trường và đồng nghiệp (giáo viên bộ môn) để
nâng cao chất lượng “rèn chữ giữ vở” cho học sinh.
- Phải thường xuyên hàng ngày, hàng giờ để học sinh ln có ý thức chăm lo trong
việc giữ gìn sách vở sạch, rèn chữ đẹp của mình.
Trên đây là những việc làm tơi đã làm trong quá trình rèn chữ cho học sinh lớp tơi
nói riêng và cho học sinh tiểu học nói chung.
Bằng phương pháp này: Thầy hướng dẫn, trò tự giác, thầy kiểm tra, nhắc nhở, kiên
trì thực hành trong nhiều năm qua, tơi thấy có hiệu quả. Tơi mạnh dạn nêu lên để các bạn
đồng nghiệp cùng tham khảo.
Những kinh nghiệm này đã được hội đồng khoa học nhà trường xác định và nghiệm
thu, đánh giá cao.
Rất mong các đồng chí, các bạn đồng nghiệp đóng góp thêm cho tơi những ý kiến
chân thành để tôi tiếp tục làm tốt việc tôi đã chọn và đã làm để tôi đạt kết quả tốt hơn
trong những năm sau
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- 5 quy định về rèn chữ giữ vở đối với giáo viên và học sinh của trường tiểu học Tiên
Cát.
2- Một số quy định về rèn luyện chữ viết và tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại “ giữ vở
sạch, rèn chữ đẹp” đối với học sinh tiểu học (Sở GDĐT/1998)
3- Yêu cầu cơ bản kiến thức kỹ năng của 9 môn học (lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4, lớp 5)
4- Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt tiểu học( chu kỳ 1996 - 2000)
5- Phương pháp dạy phân mơn: Tập đọc, tập viết, chính tả