Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Câu hỏi thi nâng ngạch chuyên viên có đáp án chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.48 KB, 102 trang )

Câu hỏi 5: Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (đã đợc sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định:" Nhà
nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nứôc pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân" anh,chị hãy lý giải:
- Nhà nớc pháp quyền là gì? so sánh các đặc trng của nhà nớc pháp quyền nói chung
và nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam noí riêng.
- Tại sao nớc ta phải xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN? Phơng hớng hoàn thiện bộ
máy nhà nớc ta theo hớng pháp quyền.
Trả lời:
- Khái niệm về nhà nớc pháp quyền
1. Khái niệm nhà nớc pháp quyền
Hiện nay, trong lý luận có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về khái niệm và các
yếu tố cơ bản của nhà nớc pháp quyền. Cụ thể các quan điển thờng nhấn mạnh đến một trong những
yếu tố cơ bản sau đây của nhà nớc pháp quyền: tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp
luật của chính nhà nớc; cơ chế phân chia quyền lực, kìm chế và đối trọng giữa những nhánh quyền
lực: lập pháp, hành pháp và t pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền con ngời
Là một khái niệm có nội hàm khái niệm rộng lớn, nhà nớc pháp quyền bao gồm nhiều thành
tố cấu thành trong mối quan hệ biện chứng: nhà nớc và pháp luật, nhà nớc và xã hội công dân, dân
chủ. Nhà nớc pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nớc.
Trên cách hiểu phổ quát nhất, nhà nớc pháp quyền đợc thể hiện ở những đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, tổ chức nhà nớc đợc thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật, bản thân nhà nớc
cũng phải đặt mình trong khuôn khổ pháp luật. Hình thức tổ chức nhà n ớc đợc xây dựng trên cơ
sở của sự phân công lao động hợp lý giữa các loại cơ quan trong bộ máy nhà n ớc: lập pháp,
hành pháp và t pháp .
Một hình thức tổ chức nhà nớc mà nền t pháp đợc tổ chức khoa học, có hiệu quả và độc lập
chỉ tuân theo pháp luật. Trong nhà nớc pháp quyền phải hiện hữu một nền hành chính trong sạch,
hiệu quả, phục vụ tốt nhất những nhu cầu đa dạng, chính đáng của các cá nhân, tổ chức.
Thứ hai, một hình thức tổ chức nhà nớc mà pháp luật có vị trí, vai trò xã hội to lớn, là
phơng tiện điều chỉnh quan trọng hàng đầu đối với các quan hệ xã hội, là công cụ của nhà nứơc
và toàn xã hội.
Nhấn mạnh đến vị trí vai trò của pháp luật, song nhà nớc pháp quyền không loại trừ đạo


đức. Đờng lối của Đảng, Nhà nớc ta cũng đã xác định: quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với
giáo dục, nâng cao đạo đức và mọi hành vi dân sự đều không đợc trái pháp luật và trái đạo đức xã
hội.
Thứ ba, pháp luật trong nhà nớc pháp quyền phải thực sự vì con ngời-giá trị cao quý
nhất. Theo đấy pháp luật là công cụ ghi nhận các quyền con ngời, quy định cơ chế bảo đảm và
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ của nhà nớc, cá nhân và tổ chức, không có ngoại lệ nào.
Từ phơng diện xã hội, nhà nớc pháp quyền chính là sự thể hiện một xã hội đợc tổ chức thành
nhà nớc, có sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự, nơi nhà nớc thực sự là một tổ chức công
quyền, mối quan hệ giữa nhà nớc và cá nhân là mối quan hệ bình đẳng pháp lý và đồng trách nhiệm.
Các đặc điểm, tiêu chí trên của nhà nớc pháp quyền lại có những mức độ thể hiện khác nhau ở các
quốc gia cả trên bình diện lý luận, nền văn hoá và tổ chức nhà nớc, hệ thống pháp luật.
Nhà nớc pháp quyền là hiện tợng chính trị -pháp lý phức tạp rộng lớn đợc thể hiện trên nhiều
phơng diện khác nhau. Do vậy có thể đa ra một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm nhà nớc
pháp quyền.
Hiện nay, trong luật học đã có sự thừa nhận chung về khái niệm nhà nớc pháp quyền, tức là
một khái niệm cho phép thể hiện đợc những đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản nhất, tiêu biểu nhất của
nhà nớc pháp quyền.
Định nghĩa nhà nớc pháp quyền:
Nhà nớc pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nớc với sự phân công lao động khoa
học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, t pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nớc
đợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật
có tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con ngời.
Xây dựng nhà nớc pháp quyền là một tất yếu khách quan ở nớc ta. Đờng lối xây dựng nhà nớc pháp quyền Việt Nam XHCN đã đợc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định: " Nhà nớc là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân".
Thể chế hoá tinh thần, nội dung trên của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Điều 2 Hiến
pháp năm 1992 ( đã đợc sửa đỏi, bổ sung năm 2001) quy định: " Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩâ Việt Nam là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"
chung


- So sánh đặc điểm Nhà nớc pháp quyền Việt Nam XHCN và Nhà nớc pháp quyền nói

Những đặc điểm cơ bản của nhà nớc pháp quyền
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nớc pháp quyền, có thể nêu những đặc điểm cơ
bản nhất về nhà nớc pháp quyền nh sau:


- Nhà nớc pháp quyền là nhà nớc có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo đức
tiến bộ cuả nhân loại.
- Xác lập và có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính tối cao của luật trong hệ thống các văn bản
pháp luật.
- Pháp luật trong nhà nớc pháp quyền phải mang tính nhân đạo phù hợp đạo đức xã hội, tất
cả vì lợi ích chính đáng của con ngời.
- Nhà nớc pháp quyền là nhà nớc, trong đó mối quan hệ giữa nhà nớc và công dân bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá
nhân, tổ chức kể cả nhà nớc, nhà nớc phải chịu trách nhiệm bồi thờng những thiệt hại vật chất, tinh
thần cho cá nhân về các quyết định và hành vi sai trái của mình.
- Nhà nớc pháp quyền là nà nớc trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của
con ngời đợc nhà nớc bảo đảm thực hiện bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật
đều phải đợc xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
- Trong nhà nớc pháp quyền, quyền lực nhà nớc đợc tổ chức khoa học, các quyền lập pháp,
hành pháp, t pháp đợc phân định rõ ràng, hợp lý cho ba hệ thống cơ quan nhà nớc tơng ứng trong
mối quan hệ cân bằng, kiểm soát lẫn nhau tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống nhất của
quyền lực nhà nớc, thực hiện quyền lực nhân dân.
- Nhà nớc pháp quyền tồn tại trên cơ sở một xã hội công dân phát triển lành mạnh, đảm bảo
tự do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
- Nhà nớc pháp quyền là nhà nớc sống hoà đồng với cộng đồng thế giới, thực hiện các cam
kết quốc tế, các điều ớc quốc tế mà nhà nớc là thành viên ký kết hay công nhận.

Nhận diện từ góc độ tổng thể, nhà nớc pháp quyền là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao
và tính pháp quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Mục đích cao cả, nhiệm vụ th ờng trực
của nhà nớc pháp quyền không gì khác hơn là vì con ngời.
Những đặc điểm của Nhà nớc pháp quyền Việt Nam XHCN
Căn cứ vào những đặc điểm chung của nhà nớc pháp quyền, căn cứ vào tình hình cụ thể ở nớc ta có thể nêu những đặc điểm của Nhà nớc pháp quyền Việt Nam XHCN nh sau:
1). Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
- Cái gốc của chế độ Nhà nớc pháp quyền là xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và bảo
đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhà nớc phải là sản phẩm của ý chí nhân
dân. Dấu hiệu đặc trng đầu tiên của Nhà nớc pháp quyền là tính hợp pháp, hợp hiến của Nhà
nớc.
ở nớc ta, chính quyền và Nhà nớc ngay từ đầu đã thể hiện tính chất nhân dân và cách
mạng sâu sắc, bởi vì nó chính là thành quả trực tiếp của Cách mạng thánh Tám do nhân dân
thực hiện thành công dới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà nớc ta là con đẻ
của khối đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo1. Có thể nói, Nhà nớc ta đợc thai nghén từ trong khói lửa cách mạng trong căn cứ địa đạo
Cao Bắc- Lạng, từ Đại hội quốc dân Tân Trào và Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam đợc
thành lập ngày 16 - 8 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngay từ đầu, chính quyền,
Nhà nớc của ta là chính quyền, Nhà nớc của nhân dân ta, do nhân dân giành đợc. Còn về mặt
pháp lý thì đó là những thiết chế quyền lực do nhân dân ta tự giác bầu ra trên cơ sở sử dụng
quyền bầu cử của những công dân hoàn toàn tự do của một đất nớc hoàn toàn độc lập. Trong
Tuyên ngôn độc lập do độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trớc quốc dân đồng bào ngày 2-91945 tại Quảng trờng Ba Đình đã chỉ rõ: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100
năm để xây dựng nên Nhà nớc Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mơi
thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hoà.
Vì vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị: Tôi đề
nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu. Tất cả công dân trai, gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân
biệt giàu nghèo, tôn giáo, giòng giống.
Tính pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nớc ở nớc ta là ở chỗ đó. Chính vì tầm
quan trọng của việc khẳng định chủ quyền chính trị của nhân dân mà ngày nay vấn đề bầu cử,

các hình thức dân chủ trực tiếp vẫn tiếp tục là những vấn đề cần đợc đặt trong sự chú ý của quá
trình cải cách bộ máy nhà nớc và đổi mới hệ thống chính trị ở nớc ta. Bầu cử nh thế nào, quyền
bầu cử phải đợc sử dụng nh thế nào để nhân dân tìm cho đợc những ngời xứng đáng thay mặt
cho mình gánh vác việc nớc là nội dung cơ bản của việc đổi mới cơ chế bầu cử ở nớc ta hiện
nay.
- Khẳng định quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản đợc
ghi nhận trong hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập các cơ chế bảo đảm thực hiện
quyền lực thực sự của nhân dân.
+ Nhân dân ta, ngời chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên Nhà nớc của mình, trực
tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình
thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nớc, tác động mạnh mẽ đến quá trình
hoạch định chính sách đờng lối của Đảng và Nhà nớc, cũng nh vào các hoạt động thuộc phạm
vi của Nhà nớc hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý điều hành, công tác xét xử và các
hoạt động bảo vệ pháp luật. Đó chẳng những là chủ trơng của Đảng và Nhà nớc ta mà còn là
một trong những quyền cơ bản của công dân nớc ta. Điều 53 của Hiến pháp ghi: Công dân có
quyền tham gia quản lý Nhà nớc và xã hội.


+ Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên là những tổ chức để qua đó nhân dân ta tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân, cùng Nhà nớc chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân (), giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nớc, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nớc (Điều 9 Hiến pháp).
Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và của ngời lao động, cùng
với cơ quan nhà nớc () chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những
ngời lao động khác, tham gia quản lý Nhà nớc và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nớc (Điều 10 Hiến pháp). Thay mặt cho các tổ chức của mình, Chủ tịch uỷ ban
Trung ơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và ngời đứng đầu các
đoàn thể nhân dân đợc mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan
(Điều 111 Hiến pháp). Đến lợt mình, Chính phủ có trách nhiệm hiến định là phối hợp với các tổ chức
đó trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có

hiệu quả (Điều 112 Hiến pháp).
+ Cá nhân công dân, song song với việc tham gia vào các hoạt động của Nhà n ớc với t
cách là thành viên của các tổ chức chính trị xã hội, còn tham gia công việc của Nhà nớc và xã
hội ở cơ sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng
(Điều 11 Hiến pháp). Trong các phạm vi khác nhau của hoạt động Nhà nớc, pháp luật cũng đã
tạo ra những điều kiện về mặt pháp lý để thu hút sự tham gia rộng rãi và sự đóng góp tích cực
của công dân. Đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hiện thực.
Chẳng hạn, theo Hiến pháp ở nớc ta, ngoài hệ thống các Toà án có thể thành lập các tổ
chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vụ vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong
nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân,
của Toà án quân sự có hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Một trong những mục đích của
các chế định nh phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, án treo v.v là nhằm động
viên sự tham gia của công dân vào việc thực hiện một chức năng quan trọng của Nhà nớc là duy
trì và bảo vệ trật tự pháp luật, phòng chống tội phạm, giáo dục, cải tạo ngời phạm tội.
+ ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá
trình thực hiện quyền lực nhà nớc.
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nớc ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hoá
khả năng đó. Nhà nớc phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh,
xuất bản, th viện và các phơng tiện thông tin đại chúng khác, khuyến khích phát triển các hình
thức hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân nói tiếng
nói của mình góp vào quá trình hoạch định đờng lối của Đảng, xây dựng chính sách và pháp
luật của Nhà nớc. Đảng và Nhà nớc ta tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử dụng một cách
có hiệu quả các quyền quan trọng nh quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền đợc thông tin
(Điều 69, quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân hoặc bất cứ cá nhân nào (Điều 74 Hiến pháp). Việc khiếu nại, tố cáo phải đợc cơ quan nhà
nớc xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Chính phủ thực hiện chế độ báo
cáo trớc nhân dân qua các phơng tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà
Chính phủ phải giải quyết. Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Uỷ

ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa ph ơng cho Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây
dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phơng (Điều 125 Hiến pháp).
+ Giáo dục ý thức chính trị và năng lực chính trị cho nhân dân là bảo đảm hết sức quan
trọng để duy trì bản chất dân chủ của Nhà nớc ta và chế độ chính trị của chúng ta. Nhng đối với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý thức và năng lực đó của nhân dân phải là sản phẩm của hoạt động
quản lý, tham gia quản lý Nhà nớc và quản lý xã hội của nhân dân. Ngời nói : Nhà nớc ta
phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, làm cho mọi ngời công dân
Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nớc (ngời trích nhấn mạnh).
+ Hiệu quả của chính quyền, của cả hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay là đẩy tới
sự nghiệp đổi mới, làm cho đất nớc ta không ngừng phát triển, mà trớc hết là lấy kết quả phát
triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
làm mục tiêu tổ chức và hoạt động.
- Trong t tởng và phơng châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, tính hiệu
quả và thiết thực vì dân là một phơng châm tổ chức và hoạt động hết sức đợc coi trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi ; nếu dân rét,
Đảng và Chính phủ có lỗi ; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi. Khi Bác nói nh vậy là Bác
muốn nói đến hiệu quả thực tế nhiệm vụ cụ thể trong việc hoạch định chính sách và pháp luật
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.
Từ đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nớc là khả năng phục vụ
nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, sử dụng tốt và có hiệu
quả các quyền, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
Chúng ta cần nhớ câu nói rất đơn giản, nhng rất rõ ràng của Bác là: Việc gì có lợi cho
dân thì ta phải làm, việc gì hại cho dân thì ta phải tránh. Chính quyền là của dân, nên nó phải
tiện lợi cho dân, gắn với dân, tôn vinh nhân dân.
- Đối với chúng ta vấn đề về tính pháp quyền của quyền lực nhà nớc đợc xem xét ở bình
diện khẳng định và bảo đảm quyền lực đó là của nhân dân, giữ cho nó luôn luôn nằm trong quỹ
đạo phục vụ nhân dân.



ở bình diện thứ hai, vấn đề đợc đặt ra là làm thế nào để nhân dân uỷ nhiệm cho Nhà nớc
thực hiện quyền lực của mình mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền, sử dụng quyền lực
để đi ngợc lại với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
Do đó, một trong những vấn đề bức xúc hiện nay đối với Đảng và Nhà n ớc ta, với cả hệ
thống chính trị nớc ta là vấn đề đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Quan liêu, tham nhũng
là những hiện tợng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực nhà nớc. Điểm chung giữa
chúng là đều dẫn tới chỗ làm cho quyền lực của nhân dân đi chệch khỏi bản chất, mục tiêu của
Nhà nớc ta.
- Để thực hiện đợc sự giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nớc, Hiến
pháp và pháp luật đã quy định một hệ thống các bảo đảm mà trớc hết là quy định về các quyền
của công dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền đợc thông tin. Đó là những quyền
rất quan trọng để nhân dân có thể đợc tự do thể hiện ý kiến, làm tăng tính công khai, minh bạch
của các hoạt động của Đảng và Nhà nớc. Thông tin chính, đầy đủ, đa chiều, có chất lợng, sự
thảo luận, bàn bạc thấu đáo các vấn đề quốc kế dân sinh, thu hút đông đảo ng ời dân tham gia,
nghiêm túc tiếp thu các ý kiến và sự phản biện có tính chất xây dựng- đó là thớc đo của một xã
hội dân chủ, cởi mở.
2). Nh nớc pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, ra
sức tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong Nhà nớc pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị đợc xác lập một
cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp đợc coi
là Đạo luật cơ bản của Nhà nớc, có hiệu lực pháp lí cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nớc. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất
bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của ngời dân.
Nh vậy, chủ nghĩa lập hiến là điều kiện để bảo đảm sự chính đáng về mặt pháp lí (tính pháp
quyền) của các thiết chế quyền lực nhà nớc cũng nh của các hành vi có tính quốc gia. Điều đó giải
thích vì sao chủ nghĩa lập hiến và sự hiện diện của chế độ bảo hiến, lại là một dấu hiệu quan trọng
của Nhà nớc pháp quyền.
ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phơng hớng quan trọng để thực
hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống

kinh tế-xã hội.
Trong t tởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đờng cách mạng Việt Nam, từ rất sớm, đã có
yếu tố của lập hiến tiến bộ. Trong bài diễn ca nói về 8 yêu sách gửi các nớc đồng minh họp Hội nghị
Vessailles đầu năm 1919, Nguyễn ái Quốc viết:
Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền 1
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 3-91945, Hồ Chủ tịch đã nói: Trớc chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế, nên nớc ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không đợc hởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ 2
Nh vậy, ngay từ đầu, ở nớc ta, sự hiện diện của Hiến pháp đã đợc gắn liền với nền dân chủ,
với quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhà nớc ta đợc tính chất và hoạt động trên nền tảng Hiến
pháp và trong khuôn khổ của Hiến pháp.
Kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm
1992 của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ những nguyên tắc và quan điểm lớn
của Đảng ta và điều chỉnh những chế định lớn nh:
1) Chủ quyền quốc gia sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
2) Đại đoàn kết toàn dân;
3) Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân: quyền lực nhà nớc là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân và là quyền lực thống nhất;
4) Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nớc và xã hội;
5) Phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa;
6) Thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngời, các quyền và tự do cơ bản của công dân và
nghĩa vụ của công dân; thực hiện vai trò xã hội của Nhà nớc, đề cao chủ nghĩa nhân đạo XHCN, và
tính nhân văn trong đời sống xã hội;
7) Bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trớc pháp luật
8) Quản lí xã hội bằng pháp luật, đề cao đạo đức XHCN, bảo đảm và không ngừng tăng cờng
pháp chế XHCN;
9) Tập trung dân chủ trên cơ sở có sự phân công và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nớc trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và t pháp; bảo đảm sự độc lập của Toà án;
10). Tổ chức quyền lực theo đơn vị hành chính-lãnh thổ, đảm bảo sự hài hoà giữa quyền lực tập

trung thống nhất với sự chủ động sáng tạo của địa phơng và cơ sở.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản trên đây của Hiến pháp là cơ sở pháp lí quan
trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nớc, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có
tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng nh
các quyết sách khác của Nhà nớc và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
1
2

Trích theo Báo Nhân dân ngày 3.2.1977.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.4, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.6.


Hiến pháp có một vai trò quan trọng nh vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho
nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về
những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nớc ở nớc ta hiện nay.
Trên những nét đại thể, cơ chế đó phải là một cơ chế lấy những quy định của Hiến pháp để
làm căn cứ cho các đánh giá và phán quyết của mình, phải thực sự khách quan, toàn diện, trung
thực, lấy lợi ích quốc gia, các quyền và tự do và các lợi ích chính đáng của nhân dân làm thớc đo
duy nhất.
Vì thế, chính các quy định của Hiến pháp phải thực sự ổn định, có tính pháp lí cô đọng và
đầy đủ và có đầy đủ khả năng tạo ra sự an toàn pháp lí cao nhất cho công dân và có khả năng phát
huy hiệu lực trực tiếp.
Tôn trọng Hiến pháp là tôn trọng ý chí phổ biến nhất và đầy đủ nhất của nhân dân. Chính vì
vậy, chủ nghĩa lập hiến đồng nghĩa với sự thừa nhận tính tối cao của chủ quyền nhân dân. Bảo vệ
Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nớc, bảo vệ ý chí của nhân dân.
3). Nhà nớc pháp quyền Việt Nam quản lí xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối th ợng
của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật XHCN của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa đờng lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục khoa học, đối nội,

đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan,
thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nớc pháp quyền là nói đến tính pháp
luật khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp
dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nớc ta phản ánh đờng lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân.
Vì vậy, pháp luật phải trở thành phơng thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nớc
và là thớc đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng những tố chất cần thiết
cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nớc và xã hội ta.
Nhà nớc pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỉ luật. Pháp luật thể chế hóa
các nhu cầu quản lí xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế
Nhà nớc. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh
nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp đã ghi rõ những yêu cầu đó nh sau:
a) Về Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam
() là lực lợng lãnh đạo Nhà nớc và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Điều 4).
b) Về Nhà nớc: - Nhà nớc quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cờng pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật (Điều 12).
- Nhà nớc thống nhất quản lí toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật (Điều 18); Nhà
nớc thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách (Điều 26)
c) Về công dân: Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định
(Điều 51); Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57); Các tôn
giáo đều bình đẳng trớc pháp luật (Điều 70); Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 71); Việc bắt giữ và
giam giữ ngời phải đúng pháp luật (Điều 71); Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
cha có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 72); Việc khám xét chỗ ở, việc bóc, mở,

kiểm soát, thu giữ th tín, điện tín của công dân phải do ngời có thẩm quyền tiến hành theo quy định
của pháp luật (Điều 73); Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải đợcnghiêm chỉnh chấp hành (Điều 136).
Nội dung pháp luật của Nhà nớc ta chính là sự thể chế hóa đờng lối của Đảng, do vậy trong
nội dung pháp luật đã hàm chứa đầy đủ đờng lối của Đảng (đờng lối của Đảng là cái hồn của pháp
luật), chấp hành pháp luật chính là thực hiện đờng lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật là những quy
tắc xử sự chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy
nhất có vị trí lãnh đạo Nhà nớc và xã hội ta, nhng Đảng, các tổ chức ủy đảng và đảng viên đều phải
chấp hành pháp luật. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật không loại trừ bất cứ một ai. Mặc
dù Điều 4 Hiến pháp 1992 xác định: Đảng là lực lợng lãnh đạo Nhà nớc và xã hội thì cũng tại Điều
4 Hiến pháp 1992 khẳng định: mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nớc ta đã từng bớc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển
nền kinh tế thị trờng XHCN và đổi mới hệ thống chính trị. Pháp luật đã bớc đầu trở thành công cụ
chủ yếu để quản lí Nhà nớc, quản lí xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bớc đợc đề cao và phát huy
hiệu quả trên thực tế.
Pháp luật là cơ sở để duy trì bản chất của Nhà nớc. Bản thân Nhà nớc vừa là công cụ tổ chức
của giai cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai. Tính chất đó của Nhà n ớc tất
yếu chỉ có thể đợc biểu hiện bằng những đại lợng có khả năng thể hiện sự phổ biến và công khai. Đó


là pháp luật. Nhà nớc chỉ có thể thể hiện ý chí phổ biến và uy quyền công khai của mình qua một
loại đại lợng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung.
Cần phải khẳng định rằng, tính chất thực sự nhân dân và nguyên tắc pháp lý trong tổ chức
quyền lực là tiền đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có đợc bản chất pháp lý của nó, tức
là tính bình đẳng, phổ biến, công bằng. Sự hiện diện của một hệ thống nh vậy, một hệ thống pháp
luật làm tiêu chí cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực, làm giá trị cho việc xác định các mục
tiêu của quyền lực mục tiêu vì con ngời - đó chính là những đặc trng cơ bản của Nhà nớc pháp
quyền, trong đó, pháp luật là cơ sở cho hoạt động của các thiết chế quyền lực, còn các thiết chế

quyền lực phải thực sự trở thành bảo đảm cho pháp luật có đợc những thuộc tính công bằng và dân
chủ.
Nhà nớc là ngời làm ra luật, ban hành pháp luật, nhng lại phải tự đặt mình trong sự
ràng buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trớc pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp
luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đ ờng lối, chính sách của
Đảng.
Tuy nhiên nói đến pháp luật trong Nhà nớc pháp quyền là nói đến bản chất dân chủ và giá trị
công bằng, bình đẳng của nó. Không thể tuỳ tiện đa ra luật! Tình trạng phi mã của các văn bản dới
luật, các giấy phép con của các Bộ, ngành, các địa phơng; tình trạng thay đổi quá nhanh và thiếu
tính khả thi của các quy định pháp luật đã phần nào làm suy giảm lòng tin vào những giá trị công
bằng và khả năng điều chỉnh của pháp luật hiện nay. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc
xây dựng Nhà nớc pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặt công việc
đó trên một nền tảng khoa học.
Đề cao pháp luật, tăng cờng pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đa pháp luật
vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân.
Cho nên, xây dựng pháp luật và đa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm
vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp
luật. Tăng cờng hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện
cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện tốt các
nghĩa vụ của họ, khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ; phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ
tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống t pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp
chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật,
đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong
bộ máy Đảng và Nhà nớc.
4). Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con ngời, các quyền
và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ giữa Nhà nớc và công dân, giữa Nhà nớc
và xã hội
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con ngời thuộc về các Nhà nớc chân chính cách
mạng, Nhà nớc XHCN. Cuộc đấu tranh trên bảy mơi năm đầy gian khổ, hy sinh của dân tộc Việt
Nam vì độc lập, tự do dới sự lãnh đạo của Đảng, suy cho cùng, chính là vì quyền con ngời, quyền đợc sống, quyền tự do và quyền mu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng

con ngời mà Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam tuyên bố
với toàn thế giới trong ngày khai sinh ra nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà 2/9/1945 đã chỉ rõ:
Tất cả mọi ngời đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm đợc; trong những quyền ấy có quyền đợc sống, quyền tự do và quyền mu cầu hạnh
phúc.
Vấn đề bảo đảm quyền con ngời, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nớc và công dân, giữa công dân với Nhà nớc v.v, luôn đợc Đảng ta dành sự
quan tâm đặc biệt.
Do đó, xây dựng Nhà nớc pháp quyền theo hớng bảo đảm tôn trọng quyền con ngời, quyền
công dân là một nhiệm vụ cấp bách.
Quyền của công dân khác với thẩm quyền của cá nhân thuộc các chức sắc của bộ máy nhà
nớc. Quyền của công dân - đó là những khả năng đợc bảo đảm trong việc thụ hởng các điều kiện và
nhu cầu khác nhau và do đó công dân có thể sử dụng hay không sử dụng các quyền đó và sử dụng
nh thế nào đó theo ý riêng của mình. Trong khi đó, thẩm quyền của các chức sắc Nhà nớc, các cơ
quan nhà nớc là cái mà các chức sắc và cơ quan đó có trách nhiệm phải thực hiện.
Công dân có thể làm tất cả những gì luật không cấm. Các chức sắc Nhà nớc và các cơ quan
nhà nớc chỉ đợc làm những gì luật quy định.
Công dân phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm pháp luật. Các chức
sắc Nhà nớc có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý không chỉ vì hành vi vi phạm pháp luật mà cả
bởi những việc làm có thể không do lỗi của mình mà do những bất cập, những khuyết điểm, những
biểu hiện thiếu trình độ và năng lực cần thiết.
Chức năng và hoạt động của Nhà nớc cần đợc cải cách theo hớng tạo ra các điều kiện thuận
lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân c đều có cơ hội tiếp cận một cách công bằng đối
với các đầu vào, gia nhập thị trờng bao gồm đất đai, tín dụng, kỹ thuật, môi trờng kinh doanh,
thông tin kinh tế. Xóa bỏ tận gốc cơ chế xin-cho của cơ chế bao cấp, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu
chuẩn đánh giá hoạt động của bộ máy nhà nớc cũng nh các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh
doanh. Xóa bỏ u đãi có tính chất độc quyền trong sản xuất, kinh doanh.
Nhà nớc cần làm tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất,
kinh doanh.



Nhà nớc cần thực hiện chính sách điều tiết thu nhập giữa những ngời tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh sao cho ngời lao động không bị giới chủ bóc lột quá mức và có thu nhập tơng
xứng, xứng đáng với giá trị sức lao động của họ. Đó là công bằng xã hội của thời kỳ quá độ.
Đồng thời, Nhà nớc cũng ra sức khuyến khích làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện cho ngời lao
động không ngừng nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp.
Ngòai việc phân phối cho những ngời trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh,
Nhà nớc cần thực hiện việc phân phối lại thông qua các sắc thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất, nhập khẩu v.v...) để tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nớc và lấy từ nguồn này
chi đầu t phát triển và tiêu dùng.
Nhà nớc còn có vai trò xây dựng và thực thi vào quy hoạch phát triển, thực hiện kế hoạch
cân đối hợp lý vào đầu t cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Có hai loại khu vực và địa bàn: các khu
vực và địa bàn trọng điểm, đầu tàu; các khu vực và địa bàn khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ. Sự quan tâm đặc biệt này có
hai mục đích. Mức đầu t cần thiết cho các vùng và địa bàn trọng điểm, đầu tầu sẽ kéo theo sự phát
triển của cả nớc. Còn sự chú ý thích đáng đến các vùng và địa bàn khác là nhằm khắc phục sự bất
công tự nhiên hoặc do lịch sử để lại, giữ vững ổn định chính trị, xã hội bảo đảm sự phát triển bền
vững của xã hội.
5. Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành
pháp và t pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nớc
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) cùng với Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp
giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nớc mới đợc chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế
thừa, phát triển, vận dụng vào hòan cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và tr ớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lợng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nớc. Và
đến Hội nghị Trung ơng lần thứ tám (khóa VII), (1995), quan niệm của Đảng về sự tồn tại của ba
quyền đã đợc sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, t pháp. Có
nói rằng, quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nớc có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa ba

quyền và quyền lực nhà nớc là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ
chức Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- ở nớc ta xuất phát từ bản chất của Quốc hội với tính cách là cơ quan quyền lực nhà nớc
cao nhất và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội cần nắm giữ những quyền hạn mà
việc thực thi chúng có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ hoạt động Nhà nớc.
Quyền quyết định các vấn đề quan trọng, trong đó cần chú trọng đến quyền quyết định
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách Nhà nớc và phân bổ ngân sách
Nhà nớc, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nớc... Vấn đề ngân sách Nhà nớc luôn có ý nghĩa
quyết định đối với tòan bộ hoạt động Nhà nớc. Do vậy quyền quyết định ngân sách Nhà nớc đợc
khẳng định thuộc về Quốc hội và chỉ thuộc về Quốc hội mà thôi.
Quốc hội là một cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Do vậy quyền làm luật là thẩm quyền cơ
bản nhất của Quốc hội.
- Cải cách nền hành chính quốc gia là một trong những khâu đột phá của cải cách bộ máy
hành chính Nhà nớc. Do vậy sự chuyển đổi tính chất, nội dung và phơng pháp thực thi của nền hành
chính quốc gia phải đợc bắt đầu từ cải cách Chính phủ.
Để có đợc các giải pháp cải cách Chính phủ phù hợp với nhu cầu của một nền hành chính
mới, cần thiết phải đổi mới nhận thức về vai trò, bản chất của Chính phủ trong điều kiện hiện nay.
Trớc hết phải nhận thức rằng tính chất của quá trình chuyển đổi nền hành chính quốc gia
đang ngày càng làm tăng vai trò của Chính phủ, trong mọi quan hệ hành chính.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chính phủ đóng vai trò vừa là ngời mở đờng,
khai thông các quan hệ kinh tế đối với các quốc gia khác, vừa là ngời cung cấp các dịch vụ và bảo
đảm cho các doanh nghiệp trong nớc tham gia vào thị trờng thế giới. Điều đặc biệt quan trọng là
trong quá trình hội nhập quốc tế, Chính phủ không chỉ phải chịu trách nhiệm chính trị về hội nhập
quốc tế mà còn phải chịu trách nhiệm bảo vệ lợi ích quốc gia, của các doanh nghiệp trong các quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Tính định hớng XHCN của nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam, đòi hỏi phải thay đổi tính chất,
nội dung, chức năng kinh tế và chức năng xã hội của Nhà nớc mà ngời đại diện thực hiện các chức
năng này là Chính phủ.
Với vị trí là cơ quan hành chính Nhà nớc cao nhất, lãnh đạo thông suốt toàn bộ hệ thống
hành chính Nhà nớc, Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính có hiệu lực

từ Trung ơng đến địa phơng, Chính phủ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với công cuộc cải cách hành
chính.
Tăng cờng quản lý tập trung thống nhất của Chính phủ trên các vấn đề quản lý vĩ mô,
không can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện đúng và tốt
hơn chức năng quản lý Nhà nớc đích thực trong kinh tế thị trờng; phát huy mạnh mẽ tính năng
động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng. Chính phủ phải tập trung vào nhiệm
vụ đổi mới và hoàn thiện thể chế hành chính trong quản lý kinh tế, nâng cao chất lợng quy
hoạch, kế hoạch định hớng cho sự phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đổi mới
chính sách tài chính, tiền tệ, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nớc; chăm lo các vấn đề


văn hoá xã hội, bảo vệ môi trờng, giữ gìn trật tự, an ninh và kỷ cơng pháp luật; củng cố an ninh,
quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Bảo đảm tính thống nhất, tập trung của hệ thống hành chính, phát huy tính năng động, sáng
tạo của địa phơng. Điều chỉnh cơ cấu tổ chức, tinh giản bộ máy hành chính các ngành, các cấp hành
chính trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi tổ chức và
mối quan hệ công tác giữa các tổ chức ấy. Nói chung, Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp cần
đợc sắp xếp tinh gọn, giảm đầu mối, tập trung làm tốt công tác quản lý Nhà n ớc trên các lĩnh vực.
Khắc phục tình trạng bộ máy cồng kềnh, trùng lặp và tính cục bộ trong hệ thống hành chính ở cả
Trung ơng và địa phơng.
Chính phủ có trách nhiệm quản lý, đào tạo, bồi dỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ công chức
Nhà nớc. Thực tiễn điều hành công việc của Chính phủ trong thời gian vừa qua cho thấy giải pháp
xây dựng một đội ngũ những ngời làm hành chính chuyên nghiệp đợc tuyển chọn và đào tạo theo
tiêu chuẩn chức danh là khâu có ý nghĩa quyết định. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng và hoàn
thiện chế độ công vụ bao gồm những vấn đề về trách nhiệm và kỷ luật đối với công chức, về đạo đức
của ngời công chức trong khi thi hành nhiệm vụ. Từng bớc chính quy hoá các công sở, nâng cao kỷ
luật và phong cách làm việc; ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý hành chính; tăng cờng các phơng tiện thông tin liên lạc cho các cơ quan để nâng cao hiệu suất công tác và hiệu lực
quản lý.
- Các cơ quan t pháp.
+Trong Hiến pháp 1992, vấn đề tổ chức và hoạt động của Toà án đợc quy định tại các điều từ

Điều 127 đến Điều 136. Các Toà án nhân dân ở nớc ta đợc tổ chức theo nguyên tắc kết hợp giữa
thẩm quyền xét xử với tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. ở mỗi đơn vị
cấp huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) có một Toà án, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ơng có một Toà án cấp tỉnh và ở Trung ơng có Toà án nhân dân tối cao.
+Hệ thống Viện Kiểm sát - vai trò, địa vị pháp lý của hệ thống các Viện kiểm sát đợc quy
định trong Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002.
Viện Kiểm sát nhân dân có hai chức nănng chính:
*Chức năng thực hành quyền công tố (chức năng công tố) là chức năng chính yếu của Viện
kiểm sát.
* Chức năng kiểm sát hoạt động t pháp
Trong quan niệm về phân quyền hiện đại, ngoài sự phân biệt ba quyền lập pháp, hành pháp
và t pháp, còn có sự phân quyền giữa Trung ơng và địa phơng. Trên thế giới, tùy thuộc vào tính chất
của chế độ Nhà nớc mà sự phân quyền theo chiều dọc này là rất đa dạng và có nhiều mức độ. Nhng cũng phải thấy một điều rất rõ nét hiện nay là phân quyền, phân cấp từ Trung ơng cho địa phơng
đang là một xu thế trong các cuộc cải cách Nhà nớc hiện nay trên thế giới.
ở nớc ta khái niệm chính quyền địa phơng đợc dùng thông dụng kể từ sau khi thành lập
chính quyền nhân dân. Trong khái niệm này thờng bao hàm hai cơ quan là Hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân (ủy ban hành chính trớc Hiến pháp 1980).
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đều có cùng chức năng chấp hành pháp luật tại địa
phơng, quản lý địa phơng theo quy định của pháp luật. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa
phơng, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phơng, UBND là cơ quan chấp
hành của HĐND và là cơ quan hành chính Nhà nớc ở địa phơng.
6). Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nớc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo
Trong hệ thống chính trị nớc ta Đảng cộng sản Việt nam là một bộ phận hợp thành, vừa là tổ
chức lãnh đạo hệ thống ấy. Lịch sử của Đảng ta là lịch sử của một Đảng cách mạng gắn bó máu thịt
với nhân dân. Đảng ở trong lòng dân, từ nhân dân mà ra và hoạt động không vì mục đích nào khác
ngoài việc phục vụ lợi ích của nhân dân. Đảng hoàn thành đợc sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình
nhờ sự ủng hộ của nhân dân, đi đúng đờng lối phục vụ nhân dân.
Bài học đó là bài học xuyên suốt lịch sử Đảng ta. Sự nghiệp đổi mới đợc tiến hành với
những kỳ tích đợc thế giới thừa nhận cũng nhờ Đảng đã nắm bắt đợc sáng kiến to lớn của

nhân dân, hiểu đợc nguyện vọng của nhân dân và phát huy đợc động lực to lớn của nhân dân
thực hiện sự nghiệp đổi mới đó.
Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức
tạp. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trớc dân tộc, Đảng phải thờng xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Qua tổng kết thực tiễn thế giới và Việt
nam, Đảng ta đã nêu rõ nguy cơ lớn nhất của Đảng cầm quyền là quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến
chất, đi đến mất phơng hớng về chính trị. Trong điều kiện kinh tế thị trờng và toàn cầu hóa, càng cần
cảnh giác và có giải pháp khắc phục nguy cơ nói trên.
Mối quan hệ Đảng nhân dân ở đây đợc Đảng ta nhìn nhận từ những bình diện sau đây:
Thứ nhất, Đảng tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân là để lấy các ý kiến đó làm cở sở
cho việc hoạch định đờng lối, chủ trơng đúng đắn của mình.
Xa rời nhân dân, thiếu hiểu biết về ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân, quan liêu,
bao biện là những căn bệnh hết sức nguy hiểm đối với một đảng cầm quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn phải dựa vào điều
kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nớc, ở trong nớc và ở địa phơng. Phải luôn luôn do
nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.
Thứ hai, khi đã có đờng lối, chủ trơng, chính sách tốt thì Đảng chỉ có thể đa đờng lối, chủ
trơng, chính sách đó vào cuộc sống nếu đợc sự tiếp nhận và tự giác thực hiện từ phía nhân dân, từ đó


mới có thể huy động đợc đông đảo nhân dân tham gia thực hiện bằng nhân tài, vật lực của chính
nhân dân nguồn lực nội sinh của sức mạnh kiểm tra, sự sáng tạo của nhân dân.
Quá trình lãnh đạo cách mạng mấy chục năm qua của Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng
định tính đúng đắn của t tởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Khi nào đờng lối của Đảng đợc xây
dựng từ cở sở thực tiễn Việt nam, tranh thủ đợc những ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân thì đợc
nhân dân tiếp nhận, nhanh chóng đa vào cuộc sống. Ngợc lại, lức nào đờng lối, chính sách của Đảng
xa rời thực tiễn, không hợp lòng dân thì khó đợc nhân dân chấp nhận.
Thứ ba, sự liên hệ mật thiết với nhân dân giúp cho Đảng có thể dựa vào dân để tự chỉnh đốn,
xây dựng Đảng ta và đội ngũ đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vạch rõ rằng, đại đa số đảng viên vào đảng với mong muốn

phấn đấu, hy sinh cho dân, cho nớc. Song không ít đảng viên vào đảng vì họ tởng rằng vào đảng thì
dễ tìm công ăn việc làm, mong làm chức này chức nọ. Những ngời nh vậy dễ sinh ra những bệnh
rất nguy hiểm nh bệnh tham lam, bệnh lời biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ
luật, óc hẹp hòi.
Có thể nói rằng một đảng duy nhất cầm quyền, cơ chế quyền lực nhà nớc tập quyền xã hội
chủ nghĩa không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập những đặc điểm đó của hệ thống
chính trị nớc ta đã đặt sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động của Nhà nớc nói riêng và nền dân chủ
XHCN của chúng ta nói chung vào trạng thái phát triển không có đối trọng. Trong bối cảnh đó
không thể không nói đến nguy cơ chủ quan, lạm quyền và quan liêu trong bộ máy Đảng và Nhà nớc.
Tuy nhiên, giống nh một bài toán của lịch sử, yếu tố kiềm chế thay cho cơ chế đối trọng
trong hệ thống chính trị nớc ta đã đợc xác lập. Đó là Mặt trận Tổ quốc Việt nam và hệ thống các tổ
chức, đoàn thể xã hội với vai trò kiểm tra, giám sát của các tổ chức đó đối với hoạt động của bộ máy
Đảng và Nhà nớc ta.
Ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các tổ chức quần chúng
trong cách mạng nớc ta. Ngời nói: nớc ta là một nớc dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân
mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, nh Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân
cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc.v..v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực
quyền của dân, lien lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ.
Trên cơ sở kinh nghiêm khẳng định vai trò quan trọng ấy của Mặt trận và các đoàn thể, Hiến
pháp nớc ta (Điều 9) đã ghi nhận: Mặt trận Tổ quốc Việt nam () động viên nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thực hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nớc, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nớc. Với tính cách là một tổ chức chính trị
xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của ngời lao động, Tổng liên đoàn lao động Việt nam
cũng đợc Hiến pháp xác định chức năng tham gia quản lý Nhà nớc và xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế (Điều 10).
Nh vậy sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của họ đã đợc đặt
lên tầm Hiến định, do đó nó có khả năng hiện thực để áp dụng và mang tính bắt buộc về mặt pháp
lý. Đó chính là một cơ chế kiểm tra, giám sát của xã hội đối với hoạt động lãnh đạo và của bộ máy
công quyền. Cơ chế đó là bảo đảm quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của
Nhà nớc đạt đợc mục đích và hiệu quả mong muốn tránh đợc những sai phạm và rủi ro không đáng

có.
Đối với vấn đề Đảng cầm quyền trong Nhà nớc pháp quyền Việt nam XHCN, có một khía
cạnh quan trọng là phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà n ớc. Nhiều vấn
đề cụ thể xung quanh vấn đề lớn này đợc đặt ra nh: mối tơng quan giữa cấu trúc tổ chức các cơ quan
Đảng với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nớc ở các cấp từ Trung ơng đến địa phơng; các tiêu chí phân
định sự lãnh đạo chính trị của các cấp ủy đảng và quyền tự chủ, độc lập của các cơ quan nhà n ớc; cơ
sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong các hoạt động lãnh đạo,
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nớc ở các cấp; vai trò, phơng thức lãnh đạo của
các cấp ủy đảng theo cấu trúc lãnh thổ nh tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy xã và của các cấp ủy trong bản
thân các cơ quan nhà nớc cần phải đợc xác định nh thế nào: các vị trí, chức vụ trong bộ máy đảng và
bộ máy nhà nớc, cán bộ đảng và công chức nhà nớc cần đợc xác định về mặt pháp lý.
- Tại sao nớc ta phải xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN? Phơng hớng hoàn thiện bộ
máy nhà nớc ta theo hớng pháp quyền.
Việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền, về cơ bản chính là yêu cầu, đòi hỏi đối với việc hoàn
thiện phơng thức tổ chức quyền lực nhà nớc để đáp ứng các tiêu chí của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đợc Đảng ta coi là nhiệm vụ quan
trọng và đã đợc Hiến pháp ghi nhận. Nhiệm vụ đó đợc Đảng đặt trong định hớng chung của việc đổi
mới và hoàn thiện phơng thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bớc hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. 3 Đảng ta coi xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; xây dựng Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhu cầu bức thiết
của xã hội; Nhà nớc phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyền của công dân,
quyền của con ngời; phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Báo Nhân dân, ngày 19-42006.
3


hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành

công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nớc và Mặt trận tổ quốc cùng các đoàn
thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp, làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị ngày càng vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân đợc thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó
tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới 4.
Nh vậy, việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN ở nớc ta xuất phát từ những yêu
cầu, đòi hỏi chủ yếu sau đây:
1. Nhu cầu về việc phát huy bản chất XHCN duy trì và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nớc XHCN và hệ thống chính trị XHCN, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của tất cả
các khâu trong hệ thống chính trị; đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, làm
trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nớc;
2. Thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
3. Tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của con ngời, bảo vệ có hiệu quả các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
Các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, hội nhập và toàn cầu hoá đang đặt ra cho
chúng ta nhiều cơ hội và thách thức. Những cung cách quản lý, điều hành xã hội của cơ chế hành
chính, tập trung hoá, bao cấp trớc đây không còn phù hợp. Để đủ sức quản lý xã hội trong bối cảnh
mới, phải cải cách sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, nhà nớc và pháp
luật. Xây dựng nhà nớc pháp quyền sẽ đáp ứng đợc những yêu cầu đó.
Xây dựng nhà nớc pháp quyền để củng cố, phát huy bản chất nhân dân của nhà nớc ta, thiết
lập những mối quan hệ đúng đắn giữa nhà nớc và nhân dân. Xây dựng nhà nớc pháp quyền sẽ cho
phép giải quyết một cách tốt nhất giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội trong điều kiện nền
kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Xây dựng nhà nớc pháp quyền là vấn đề còn rất mới mẻ đối với chúng ta cả về lý luận và
thực tiễn, do vậy phải đợc tiến hành một cách đồng bộ. Trong quá trình xây dựng nhà nớc pháp
quyền, cần phải vừa tiếp thu có chọn lọc lý luận và thực tiễn nớc ngoài, vừa phát huy nội lực, đảm
bảo định hớng xã hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc dân tộc, kế thừa kinh nghiệm dựng nớc và giữ nớc cuả cha ông.
2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nớc pháp quyền Việt Nam XHCN.
Việc xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền lực nhà
nớc thuộc về nhân dân. Quan niệm này thể hiện bản chất nhà nớc ta và đã đợc xác định trong Hiến

pháp 1992 (sửa đổi năm 2001):"Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".
Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân đợc thể hiện trong tổ chức và hoạt động, trong
chính sách và pháp luật nhà nớc ta. Nhà nứơc ta do nhân dân thành lập, do nhân dân kiểm tra, giám
sát. Mục tiêu cao nhất của nhà nớc là phục vụ lợi ích của nhân dân. Đấy cũng chính là nguồn sức
mạnh to lớn của nhà nớc đã đợc kiểm nghiệm trong lịch sử dân tộc. Để đảm bảo nguyên tắc quyền
lực nhà nớc thuộc về nhân dân, cần phải thực hiện thờng xuyên hoạt động giám sát nhà nớc và giám
sát xã hội đối vớí toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nớc, đặc biệt là giám sát tối cao của quốc hội.
- Quyền lực nhà nớc thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nớc
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, t pháp.
Nguyên tắc quyền lực nhà nớc thống nhất thể hiện quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân,
chủ thể cao nhất thực hiện quyền lực nhà nớc. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo , tổ chức
và hoạt động của nhà nớc ta không theo nguyên tắc phân chia quyền lực nh ở nhiều quốc gia khác.
Đồng thời quan điểm này cũng thể hiện sự tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong học thuyết và thực
tiễn áp dụng phân chia quyền lực ở các quốc gia khác.
Trong lần sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992 đã thể hiện một bớc tiến trong việc nhận
thức và thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nớc thống nhất nhng có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, t pháp. Sự phân công rành mạch, xác định rõ chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng loại cơ quan nhà nớc và cơ chế phối hợp chính là điều
kiện cốt yếu để đảm bảo thống nhất quyền lực nhà nớc.
- Đổi mới và tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nớc
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lợng chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội và nhà nớc. Sự lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nớc là nhân tố bảo đảm thành công của sự nhgiệp đổi mới đất nớc. Trong
điều kiện hiện nay, Nói đến sự tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nớc phải gắn liền với đổi
mới, chỉnh đốn tổ chức Đảng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong điều kện mới. Trong điều
kiện xây dựng nhà nớc pháp quyền ở nớc ta, điều vô cùng quan trọng là phải phân định rõ giữa sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nớc. Kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện tợng" hành
chính đơn thuần phi chính trị", xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nớc và ngợc lại, sự bao biện, làm thay các công việc nhà nớc từ phía các tổ chức Đảng.

- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nớc
Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Báo Nhân dân, ngày 19-42006.
4


Tập trung dân chủ là nguyên tắc nền tảng của nhà nứơc và hệ thống chính trị ở nớc ta, nếu
xa rời thì sẽ làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý xã hội của nhà nớc nhất là trong điều kiện cơ chế
kinh tế thị trờng, hội nhập và mở rộng dân chủ nh hiện nay. Tập trung dân chủ là nguyên tắc quản lý
nhà nớc đợc thể hiện trong sự kết hợp giữa lãnh đạo điều hành tập trung thống nnhất của Trung ơng
với phát huy tính năng động, tính chủ động của địa phơng, khắc phục cả hai khuynh hớng phân tán
cục bộ và tập trung quan liêu. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải yêu cầu thực hiện sự phân cấp
mạnh mẽ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nớc, xác định rõ ràng cơ chế trách nhiệm theo
quy định pháp luật. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà n ớc, ở chế độ tập thể lãnh đạo hay chế độ thủ trởng. Nguyên tắc tập trung dân chủ có những biểu hiện
đặc thù ở mỗi loại cơ quan nhà nớc trong bộ máy nhà nớc.
- Tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng
thời giáo dục nâng cao đạo đức
Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc, là nguyên tắc hiến định,
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay, tăng cờng pháp
chế lại càng trở thành một nhu cầu cấp thiết. Bên cạnh việc thực hiện nguyên tắc tính pháp chế
thống nhất, còn phải thực hiện nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa tính pháp chế thống nhất và
tính hợp lý, công bằng. Trong khi cha có sự thay đổi của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền, mọi chủ
thể đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật trong nhà nớc pháp quyền chỉ có thể phát huy đợc hiệu
lực, hiệu quả thực tế khi có sự phối hợp với đạo đức. Đây là vấn đề có tính quy luật đã đợc minh
chứng trong lịch sử.
Cho dù hoàn thiện đến đâu pháp luật cũng không bao giờ dự liệu hết đợc tính chất đa dạng,
phong phú của cuộc sống. Để bổ sung cho pháp luật, để cho pháp luật có thể thực hiện, xã hội còn
cần tới những quy tắc điều chỉnh xã hội khác nh các quy phạm đạo đức, tập quán, phong tụcTrong
quản lý xã hội muốn cho pháp luật đợc mọi ngời dân tôn trọng, tự giác thực hiện thì pháp luật phải
đợc bảo vệ, phải thể hiện đợc những giá trị đạo đức, đợc nhân dân chấp nhận, ủng hộ, đồng tình. Do

vậy, lấy đạo đức để quản lý xã hội cũng là một điều tất yếu khách quan, xuất phát từ chính thực tế
đòi hỏi của cuộc sống. Nhà nớc pháp quyền thợng tôn pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật nhng
không loại trừ đạo đức, bởi pháp luật trong nhà nớc pháp quyền là hớng tới những giá trị nhân đạo,
công bằng, chân-thiện-mỹ-ích, tất cả vì mục đích phục vụ con ngời.
Những phơng hớng cơ bản để xây dựng nhà nớc pháp quyền việt nam xã
hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân
1. Khái quát chung về phơng hớng cơ bản xây dựng nhà nớc pháp quyền Việt Nam
Xây dựng nhà nớc pháp quyền là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn, phức tạp.
Những nhiệm vụ và phơng hớng cơ bản về xây dựng nhà nớc pháp quyền liên quan đến nhiều lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, nhà nớc và pháp luật. Nghĩa là không chỉ quan tâm đến cải
cách bộ máy nhà nớc hay sửa sang, hoàn thiện pháp luậtmà phải tiến hành đồng bộ nhiều phơng hớng hoạt động để tạo tiền đề vững chắc cho hiện thực nhà nớc pháp quyền ở nớc ta. Về tổng thể, có
thể nêu ra những phơng hớng, nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hoàn thiện nhà nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam;
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật;
- Xây dựng ý thức, lối sống tuân thủ pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý;
- Thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội của đất nớc;
- Bảo đảm và bảo vệ các quyền con ngời;
- Đôỉ mới hệ thống chính trị;
- Phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN;
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Phát huy nội lực, chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội.
Từ góc độ pháp lý, những phơng hớng, nhiệm vụ cơ bản về xây dựng nhà nớc pháp quyền
tập trung nhất vào nhà nớc, pháp luật, dân chủ, quyền con ngời, hệ thống chính trị. Dới đây là một
số nét khái quát.
2.Hoàn thiện nhà nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam, tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách
bộ máy nhà nớc
Công cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nớc thời gian qua đã đạt đợc một số thành tựu to lớn
theo định hớng xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN. Tuy vậy, trớc yêu cầu của sự nghiệp phát triển
đất nớc và tình hình quốc tế hiện nay, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc còn nhiều yếu kém,

bất cập. Do vậy, tiếp tục công cuộc cải cách nhà nớc là một trong những nhiệm vụ chiến lợc chủ yếu
để xây dựng nhà nớc pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN.
- Đổi mới hoạt động của Quốc hội
Thời gian qua hoạt động của Quốc hội đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt trong lĩnh
vực xây dạng pháp luật. Chất lợng của các luật, pháp lệnh đã đợc nâng cao, đã góp phần to lớn vào
sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá; ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy, so với
yêu cầu nhà nớc pháp quyền, cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lợng và hiệu quả hoạt động
của Quốc hội trên một số lĩnh vực quan trọng nh sau:
- Đôỉ mới về tổ chức bộ máy ( về đại biểu Quốc hội, về các cơ quan chuyên môn của Quốc
hội, các đoàn đại biểu Quốc hội).
- Đôỉ mới nâng cao chất lợng hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Nâng cao chất lợng
công tác xây dựng và thực hiện chơng trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh. Nâng cao chất lợng công
tác soạn thảo, thẩm tra, thảo luận các dự án luật, pháp lệnh. Thực hiện dân chủ hoá rộng rãi trong


hoạt động lập pháp, đổi mới cơ chế lấy ý kiến của nhân dân về dự án luật, pháp lệnh. Hoàn thiện quy
trình lập pháp của Quốc hội nhằm bảo đảm tính khách quan, phổ thông, dễ hiểu, dễ vận của các văn
bản quy phạm pháp luật. Gỉam dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung muốn
thực hiện đợc phải có văn bản hớng dẫn thi hành.
- Cải tiến chất lợng kỳ họp của Quốc hội, tăng cờng năng lực hoạt động của đại biểu Quốc
hội, tăng cờng số lợng đại biểu chuyên trách.
- Nâng cao chất lợng hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Để thực hiện đợc
nhiệm vụ này, cần xác định rõ ràng, về nội dung giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động
của Chủ tịch nớc, Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tớng Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời đổi mới phơng thức giám sát, xác định hậu quả pháp
lý của giám sát tối cao.
- Thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia
Cải cách nền hành chính quốc gia là khâu trọng tâm của toàn bộ công cuộc cải cách bộ máy
nhà nớc đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nớc pháp quyền. Trong đó, cải cách thủ tục hành chính đợc
xác định là khâu đột phá. Mục tiêu đặt ra cho cải cách hành chính xét về tổng thể là nhằm chuyển từ

một nền hành chính trì trệ, nhiều tầng, nhiều nấc, thủ tục hành chính phức tạp, không thuận tiện cho
ngời dân sang một nền hành chính gọn nhẹ, trong sạch, hiệu quả, phục vụ những nhu cầu của ng ời
dân và xã hội một cách tốt nhất.
Thực hiện cải cách hành chính trên cả ba mặt: cải cách thể chế hành chính với trọng tâm là
cải cách thủ tục hành chính, cải cách cơ cấu, tổ chức và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính;
hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công chức nhà nớc. Tiếp tục cải cách mạnh mẽ thủ tục hành
chính, thực hiện có hiệu qủa cơ chế " một cửa", tin học hoá các hoạt động quản lý hành chính.
Để có một nền hành chính năng động, hiệu qủa, tinh gọn, cần phải tiếp tục đổi mới tổ chức
và hoạt động của Chính phủ, sắp xếp , thu gọn các đầu mối của Chính phủ. Đổi mới hoạt động của
Chính phủ theo hớng Chính phủ tập trung vào việc xây dựng chính sách, các thể chế, hoạch định
chiến lợc phát triển kinh tế- xã hội, chỉ đạo và điều hành phối hợp các ngành, các cấp thực thi chính
sách, pháp luật.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền điạ phơng, đẩy mạnh phân công, phân cấp,
nâng cao tính chủ động, chịu trách nhiệm của chính quyền địa phơng đối với mọi mặt đời sống xã
hội tại địa phơng. Tăng cờng chế độ kiểm tra, giám sát, đánh giá các hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân. Tổ chức hợp lý HĐND, tăng cờng vai trò của HĐND tại địa phơng. Kiện
toàn các cơ quan chuyên môn của UBND và bộ máy chính quyền cấp xã.
Trong nền hành chính, yếu tố con ngời là khâu then chốt. Cần xây dựng quy chế hoạt động
công vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ. Thực hiện thờng xuyên công tác đào
tạo, bồi dỡng nâng cao trình độ và kỹ năng thực hành chuyên môn của đôị ngũ cán bộ. Xây dựng
cho đội ngũ cán bộ nhà nớc thói quen tuân thủ pháp luật, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ,
công tâm trong việc giải quyết công việc đối với ngời dân, chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết
định và hành vi của mình.
- Thực hiện cải cách t pháp
Trong nhà nớc pháp quyền và một xã hội công dân phát triển lành mạnh, vai trò của bộ máy
t pháp đặc biệt quan trọng. Ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TW về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác t pháp trong thời gian tới. Cải cách t pháp cần đợc tiến hành
trong tổng thể cải cách của bộ máy nhà nớc, cải cách hành chính. Nôị dung và các nguyên tắc cơ
bản của cải cách t pháp ở nớc ta tập trung vào những lĩnh vực hoạt động sau:
- Xây dựng các cơ quan t pháp vững mạnh, trong sạch, từng bớc hiện đại hoá. Hệ thống các

cơ quan t pháp bao gồm: các Toà án nhân dân, các Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra; tổ
chức luật s, công chứng, giám định t pháp và các chức danh t pháp nh thẩm phán, luật s, công chứng
viên, giám định viên
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ t pháp trong công tác điều tra, gíam định, truy
tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động t pháp khác.
Tổ chức lại cơ quan điều tra, thi hành án theo nguyên tắc thu gọn đầu mối, thành lập cảnh
sát t pháp.
- Đảm bảo nguyên tắc độc lập khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội thẩm
nhân dân và một số hoạt động t pháp khác nh điều tra
, truy tố. Để nâng cao tính độc lập của hoạt động t pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng cần
phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ nh kiện toàn cơ cấu, tổ chức, cơ chế kiểm tra, giám sát, xử
lý vi phạm, hoàn thiện các quy định pháp luật; đào tạo bồi dỡng nghiệp vụ và nâng cao đạo đức nghề
nghiệp
- Các hoạt động t pháp phải đảm bảo tính dân chủ, giản tiện, minh bạch và hiệu quả. Hoạt
động t pháp phải thực sự baỏ vệ đợc các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, công bằng, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật,
giảm đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai, tồn đọng các vụ việc.
3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tiêu chí nhà nớc pháp quyền là vấn đề rộng lớn, liên
quan đến các lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật,
xây dựng ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý.
Trong xây dựng pháp luật cần chú ý đảm bảo cả về số lợng vầ chất lợng các văn bản pháp
luật, cả pháp luật về nội dung và pháp luật về thủ tục. Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hớng bảo
đảm tính công bằng, minh bạch, tính khả thi của các quy định, tính đồng bộ và thống nhất của các


văn bản, tính phù hợp giữa luật với các hình thức điều chỉnh khác. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa pháp luật quốc gia với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Xây dựng chiến lợc phát triển khung pháp luật nhằm tạo môi trờng pháp lý thuận lợi, an toàn
cho các hoạt động đầu t, kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng hợp tác phát triển,

cạnh tranh lành mạnh.
Xây dựng khung pháp luật phục vụ chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo
sự ghi nhận về nội dung và cơ chế thực thi các quyền, lợi ích chính đáng của công dân.
Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lợng hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của
các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền, xây dựng môi trờng xã hội- pháp lý thuận lợi cho những hành
vi hợp pháp.
Đảm bảo thực hiện tính tối cao của luật. Trong hệ thống pháp luật, các đạo luật phải chiếm u
thế, điều đó phản ánh tính tối cao của quyền lực nhân dân bởi các đạo luật đ ợc cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân ban hành, quy định những vấn đề quan trọng, cơ bản của xã hội.
Đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật, nhà nớc phải đáp ứng nhu cầu thông tin
về pháp luật, về các hoạt động thực tiễn pháp lý cho cá nhân và tổ chức. Cần triển khai chiến l ợc xây
dựng ý thức pháp luật và thực thi pháp luật của các tầng lớp nhân dân.
4. Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá mọi mắt đời sống xã hội
Công cuộc cải cách bộ máy nhà nớc ta trong giai đoạn hiện nay phải đợc tiến hành song
song, đồng bộ với việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị theo hớng xây dựng nhà nớc pháp
quyền Việt Nam XHCN.
-Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lợng lãnh đạo nhà nớc và xã hội. Xây dựng nhà nớc pháp
quyền không thể tách rời với việc đổi mới hệ thống chính trị. Trớc hết phải đổi mới tổ chức và hoạt
động của Đảng, nâng cao via trò, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đổi mới ph ơng thức lãnh
đạo của Đảng đói với nhà nớc và xã hội.
-Tổ chức chính trị-xã hội là nơi triển khai thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nớc. Vì vậy, các tổ chức chính trị- xã hội phải có bớc đổi mới về cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động
để góp phần vào việc xây dựng thành công nhà nớc pháp quyền.
-Dân chủ vừa là yếu tố cấu thành của nhà nớc pháp quyền, vừa là mục tiêu vừa là động lực
của nhà nớc pháp quyền. Dân chủ còn là điều kiện cho sự tồn tại của nhà nớc pháp quyền. Do đó, để
thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng nhà nớc pháp quyền, cần thực hiện dân chủ hoá sâu sắc
mọi mặt của đời sống nhà nớc, pháp luật, xã hội. Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở, xây dựng sự đồng thuận xã hội.
Kết luận
Xây dựng nhà nớc pháp quyền là một quá trình lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp. Chúng

ta vừa tiếp thu có chọn lọc lý luận và thực tiễn của thế giới về xây dựng nhà nớc pháp quyền, vừa
phải đảm bảo phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, kiên định trên con đờng XHCN vì mục tiêu dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
THAM KHO CHNG TRèNH CHUYấN VIấN CHNH
Cõu hi: iu 2 Hin phỏp nm 1992 (ó c sa i b sung nm 2001) quy nh:" Nh
nc Cng ho xó hi ch ngha Vit Nam l Nh nục phỏp quyn XHCN ca nhõn dõn, do
nhõn dõn, vỡ nhõn dõn" anh,ch hóy lý gii:
- Nh nc phỏp quyn l gỡ? so sỏnh cỏc c trng ca nh nc phỏp quyn núi
chung v nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha Vit Nam noớ riờng.
- Ti sao nc ta phi xõy dng nh nc phỏp quyn XHCN? Phng hng hon
thin b mỏy nh nc ta theo hng phỏp quyn.
Tr li:
- Khỏi nim v nh nc phỏp quyn
1. Khỏi nim nh nc phỏp quyn
Hin nay, trong lý lun cú nhiu quan im, cỏch tip cn khỏc nhau v khỏi nim v cỏc
yu t c bn ca nh nc phỏp quyn. C th cỏc quan in thng nhn mnh n mt trong
nhng yu t c bn sau õy ca nh nc phỏp quyn: tớnh ti cao ca phỏp lut, ngha v tuõn th
phỏp lut ca chớnh nh nc; c ch phõn chia quyn lc, kỡm ch v i trng gia nhng nhỏnh
quyn lc: lp phỏp, hnh phỏp v t phỏp; dõn ch, xó hi cụng dõn; quyn con ngi
L mt khỏi nim cú ni hm khỏi nim rng ln, nh nc phỏp quyn bao gm nhiu
thnh t cu thnh trong mi quan h bin chng: nh nc v phỏp lut, nh nc v xó hi cụng
dõn, dõn ch. Nh nc phỏp quyn l mt hỡnh thc t chc nh nc.
Trờn cỏch hiu ph quỏt nht, nh nc phỏp quyn c th hin nhng c im c
bn sau:
Th nht, t chc nh nc c thit k, hot ng trờn c s phỏp lut, bn thõn nh
nc cng phi t mỡnh trong khuụn kh phỏp lut. Hỡnh thc t chc nh nc c xõy


dựng trên cơ sở của sự phân công lao động hợp lý giữa các loại cơ quan trong bộ máy nhà nư ớc: lập pháp, hành pháp và tư pháp .
Một hình thức tổ chức nhà nước mà nền tư pháp được tổ chức khoa học, có hiệu quả và độc

lập chỉ tuân theo pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền phải hiện hữu một nền hành chính trong
sạch, hiệu quả, phục vụ tốt nhất những nhu cầu đa dạng, chính đáng của các cá nhân, tổ chức.
Thứ hai, một hình thức tổ chức nhà nước mà pháp luật có vị trí, vai trò xã hội to lớn, là
phương tiện điều chỉnh quan trọng hàng đầu đối với các quan hệ xã hội, là công cụ của nhà
nứơc và toàn xã hội.
Nhấn mạnh đến vị trí vai trò của pháp luật, song nhà nước pháp quyền không loại trừ đạo
đức. Đường lối của Đảng, Nhà nước ta cũng đã xác định: quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với
giáo dục, nâng cao đạo đức và mọi hành vi dân sự đều không được trái pháp luật và trái đạo đức xã
hội.
Thứ ba, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải thực sự vì con người-giá trị cao quý
nhất. Theo đấy pháp luật là công cụ ghi nhận các quyền con người, quy định cơ chế bảo đảm và
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ của nhà n ước, cá nhân và tổ chức, không có ngoại lệ nào.
Từ phương diện xã hội, nhà nước pháp quyền chính là sự thể hiện một xã hội được tổ chức
thành nhà nước, có sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự, nơi nhà nước thực sự là một tổ chức
công quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ bình đẳng pháp lý và đồng trách
nhiệm. Các đặc điểm, tiêu chí trên của nhà nước pháp quyền lại có những mức độ thể hiện khác
nhau ở các quốc gia cả trên bình diện lý luận, nền văn hoá và tổ chức nhà nước, hệ thống pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là hiện tượng chính trị -pháp lý phức tạp rộng lớn được thể hiện trên
nhiều phương diện khác nhau. Do vậy có thể đưa ra một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm
nhà nước pháp quyền.
Hiện nay, trong luật học đã có sự thừa nhận chung về khái niệm nhà nước pháp quyền, tức
là một khái niệm cho phép thể hiện được những đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản nhất, tiêu biểu nhất
của nhà nước pháp quyền.
Định nghĩa nhà nước pháp quyền:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công lao động
khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực,
nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con
người.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một tất yếu khách quan ở nước ta. Đường lối xây dựng

nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: " Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân".
Thể chế hoá tinh thần, nội dung trên của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Điều 2 Hiến
pháp năm 1992 ( đã được sửa đỏi, bổ sung năm 2001) quy định: " Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩâ Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…"
- So sánh đặc điểm Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và Nhà nước pháp quyền nói
chung
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền, có thể nêu những đặc điểm cơ
bản nhất về nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng
bộ, thống nhất để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo
đức tiến bộ cuả nhân loại.
- Xác lập và có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính tối cao của luật trong hệ thống các văn bản
pháp luật.


- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải mang tính nhân đạo phù hợp đạo đức xã hội, tất
cả vì lợi ích chính đáng của con người.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa nhà nước và công dân bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi
cá nhân, tổ chức kể cả nhà nước, nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật
chất, tinh thần cho cá nhân về các quyết định và hành vi sai trái của mình.
- Nhà nước pháp quyền là nà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng
của con người được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm
pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức khoa học, các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp đợc phân định rõ ràng, hợp lý cho ba hệ thống cơ quan nhà nước tương

ứng trong mối quan hệ cân bằng, kiểm soát lẫn nhau tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự
thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền tồn tại trên cơ sở một xã hội công dân phát triển lành mạnh, đảm
bảo tự do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước sống hoà đồng với cộng đồng thế giới, thực hiện các
cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết hay công nhận.
Nhận diện từ góc độ tổng thể, nhà nước pháp quyền là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao
và tính pháp quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Mục đích cao cả, nhiệm vụ th ường trực
của nhà nước pháp quyền không gì khác hơn là vì con người.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN
Căn cứ vào những đặc điểm chung của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào tình hình cụ thể ở
nước ta có thể nêu những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN như sau:
1). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
- Cái gốc của chế độ Nhà nước pháp quyền là xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và bảo
đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhà nước phải là sản phẩm của ý chí nhân
dân. Dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của Nhà nước pháp quyền là tính hợp pháp, hợp hiến của
Nhà nước.
Ở nước ta, chính quyền và Nhà nước ngay từ đầu đã thể hiện tính chất nhân dân và
cách mạng sâu sắc, bởi vì nó chính là thành quả trực tiếp của Cách mạng thánh Tám do nhân
dân thực hiện thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà nước ta là
con đẻ của khối đại đoàn kết toàn dân, “ không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”1. Có thể nói, Nhà nước ta được thai nghén từ trong khói lửa cách mạng trong căn
cứ địa đạo Cao – Bắc- Lạng, từ Đại hội quốc dân Tân Trào và Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt
Nam được thành lập ngày 16 - 8 – 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngay từ đầu, chính
quyền, Nhà nước của ta là chính quyền, Nhà nước của nhân dân ta, do nhân dân giành được.
Còn về mặt pháp lý thì đó là những thiết chế quyền lực do nhân dân ta tự giác bầu ra trên cơ sở
sử dụng quyền bầu cử của những công dân hoàn toàn tự do của một đất nước hoàn toàn độc
lập. Trong Tuyên ngôn độc lập do độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân đồng
bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình đã chỉ rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực

dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân
chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hoà”.
Vì vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Tôi đề
nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu. Tất cả công dân trai, gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân
biệt giàu nghèo, tôn giáo, giòng giống”.
Tính pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở chỗ đó. Chính vì tầm
quan trọng của việc khẳng định chủ quyền chính trị của nhân dân mà ngày nay vấn đề bầu cử,
các hình thức dân chủ trực tiếp vẫn tiếp tục là những vấn đề cần được đặt trong sự chú ý của
quá trình cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Bầu cử như thế
nào, quyền bầu cử phải được sử dụng như thế nào để nhân dân tìm cho được “những người
xứng đáng thay mặt cho mình gánh vác việc nước” là nội dung cơ bản của việc đổi mới cơ chế
bầu cử ở nước ta hiện nay.


- Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản
được ghi nhận trong hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập các cơ chế bảo đảm thực
hiện quyền lực thực sự của nhân dân.
+ Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình,
trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các
hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá
trình hoạch định chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như vào các hoạt động
thuộc phạm vi của Nhà nước – hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý – điều hành, công tác xét
xử và các hoạt động bảo vệ pháp luật. Đó chẳng những là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
mà còn là một trong những quyền cơ bản của công dân nước ta. Điều 53 của Hiến pháp ghi:
“Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội…”.
+ Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên là những tổ chức để qua đó nhân dân ta “tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân (…), giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước (Điều 9 Hiến pháp).

Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng
với cơ quan nhà nước (…) chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những
người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước…” (Điều 10 Hiến pháp). Thay mặt cho các tổ chức của mình, Chủ tịch uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu
các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên
quan (Điều 111 Hiến pháp). Đến lượt mình, Chính phủ có trách nhiệm hiến định là phối hợp với các
tổ chức đó trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt
động có hiệu quả (Điều 112 Hiến pháp).
+ Cá nhân công dân, song song với việc tham gia vào các hoạt động của Nhà nước với tư
cách là thành viên của các tổ chức chính trị – xã hội, còn tham gia công việc của Nhà nước và
xã hội ở cơ sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công
cộng (Điều 11 Hiến pháp). Trong các phạm vi khác nhau của hoạt động Nhà nước, pháp luật
cũng đã tạo ra những điều kiện về mặt pháp lý để thu hút sự tham gia rộng rãi và sự đóng góp
tích cực của công dân. Đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hiện thực.
Chẳng hạn, theo Hiến pháp ở nước ta, ngoài hệ thống các Toà án có thể thành lập các
tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vụ vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ
trong nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân, của Toà án quân sự có hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Một trong những mục
đích của các chế định như “phòng vệ chính đáng”, “tình thế cấp thiết”, “án treo” v.v… là nhằm
động viên sự tham gia của công dân vào việc thực hiện một chức năng quan trọng của Nhà
nước là duy trì và bảo vệ trật tự pháp luật, phòng chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm
tội.
+ Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước.
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hoá
khả năng đó. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện
ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác, khuyến khích phát triển
các hình thức hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân

nói tiếng nói của mình góp vào quá trình hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng chính sách
và pháp luật của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử
dụng một cách có hiệu quả các quyền quan trọng như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
quyền được thông tin (Điều 69, quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào (Điều 74 Hiến pháp). Việc khiếu nại, tố
cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Chính
phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về
những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm


của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi
mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến
nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương
(Điều 125 Hiến pháp).
+ Giáo dục ý thức chính trị và năng lực chính trị cho nhân dân là bảo đảm hết sức quan
trọng để duy trì bản chất dân chủ của Nhà nước ta và chế độ chính trị của chúng ta. Nhưng đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý thức và năng lực đó của nhân dân phải là sản phẩm của hoạt động
quản lý, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân. Người nói : Nhà nước ta
“phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, làm cho mọi người công
dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước” (người trích nhấn mạnh).
+ Hiệu quả của chính quyền, của cả hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay là đẩy tới
sự nghiệp đổi mới, làm cho đất nước ta không ngừng phát triển, mà trước hết là lấy kết quả phát
triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
làm mục tiêu tổ chức và hoạt động.
- Trong tư tưởng và phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, tính
hiệu quả và thiết thực vì dân là một phương châm tổ chức và hoạt động hết sức được coi
trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi ; nếu dân rét, Đảng
và Chính phủ có lỗi ; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi”. Khi Bác nói như vậy là Bác

muốn nói đến hiệu quả thực tế nhiệm vụ cụ thể trong việc hoạch định chính sách và pháp luật
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.
Từ đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước là khả năng phục
vụ nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, sử dụng tốt và có
hiệu quả các quyền, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
Chúng ta cần nhớ câu nói rất đơn giản, nhưng rất rõ ràng của Bác là: “Việc gì có lợi
cho dân thì ta phải làm, việc gì hại cho dân thì ta phải tránh”. Chính quyền là của dân, nên nó
phải tiện lợi cho dân, gắn với dân, tôn vinh nhân dân.
- Đối với chúng ta vấn đề về tính pháp quyền của quyền lực nhà nước được xem xét ở
bình diện khẳng định và bảo đảm quyền lực đó là của nhân dân, giữ cho nó luôn luôn nằm
trong quỹ đạo phục vụ nhân dân.
Ở bình diện thứ hai, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để nhân dân uỷ nhiệm cho Nhà
nước thực hiện quyền lực của mình mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền, sử dụng
quyền lực để đi ngược lại với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
Do đó, một trong những vấn đề bức xúc hiện nay đối với Đảng và Nhà nước ta, với cả hệ
thống chính trị nước ta là vấn đề đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Quan liêu, tham
nhũng là những hiện tượng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Điểm
chung giữa chúng là đều dẫn tới chỗ làm cho quyền lực của nhân dân đi chệch khỏi bản chất,
mục tiêu của Nhà nước ta.
- Để thực hiện được sự giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, Hiến
pháp và pháp luật đã quy định một hệ thống các bảo đảm mà trước hết là quy định về các quyền
của công dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin. Đó là những quyền
rất quan trọng để nhân dân có thể được tự do thể hiện ý kiến, làm tăng tính công khai, minh
bạch của các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Thông tin chính, đầy đủ, đa chiều, có chất
lượng, sự thảo luận, bàn bạc thấu đáo các vấn đề quốc kế dân sinh, thu hút đông đảo người dân
tham gia, nghiêm túc tiếp thu các ý kiến và sự phản biện có tính chất xây dựng- đó là thước đo
của một xã hội dân chủ, cởi mở.
2). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp,
ra sức tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một

cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi
là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng
nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.


Như vậy, chủ nghĩa lập hiến là điều kiện để bảo đảm sự chính đáng về mặt pháp lí (tính
pháp quyền) của các thiết chế quyền lực nhà nước cũng như của các hành vi có tính quốc gia. Điều
đó giải thích vì sao chủ nghĩa lập hiến và sự hiện diện của chế độ bảo hiến, lại là một dấu hiệu quan
trọng của Nhà nước pháp quyền.
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương hướng quan trọng để
thực hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt
đời sống kinh tế-xã hội.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam, từ rất sớm,
đã có yếu tố của lập hiến tiến bộ. Trong bài diễn ca nói về 8 yêu sách gửi các nước đồng minh họp
Hội nghị Vessailles đầu năm 1919, Nguyễn ái Quốc viết:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”5
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 39-1945, Hồ Chủ tịch đã nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ” 6
Như vậy, ngay từ đầu, ở nước ta, sự hiện diện của Hiến pháp đã được gắn liền với nền dân
chủ, với quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhà nước ta được tính chất và hoạt động trên nền tảng
Hiến pháp và trong khuôn khổ của Hiến pháp.
Kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm
1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ những nguyên tắc và quan điểm
lớn của Đảng ta và điều chỉnh những chế định lớn như:
10)
Chủ quyền quốc gia sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;

11)
Đại đoàn kết toàn dân;
12)
Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân: quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân và là quyền lực thống nhất;
13)
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội;
14)
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
15)
Thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của
công dân và nghĩa vụ của công dân; thực hiện vai trò xã hội của Nhà nước, đề cao chủ nghĩa nhân
đạo XHCN, và tính nhân văn trong đời sống xã hội;
16)
Bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
17)
Quản lí xã hội bằng pháp luật, đề cao đạo đức XHCN, bảo đảm và không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN;
18)
Tập trung dân chủ trên cơ sở có sự phân công và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; bảo đảm sự độc lập
của Toà án;
10). Tổ chức quyền lực theo đơn vị hành chính-lãnh thổ, đảm bảo sự hài hoà giữa quyền lực
tập trung thống nhất với sự chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản trên đây của Hiến pháp là cơ sở pháp lí quan
trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có
tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như
các quyết sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho
nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về

những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trên những nét đại thể, cơ chế đó phải là một cơ chế lấy những quy định của Hiến pháp để
làm căn cứ cho các đánh giá và phán quyết của mình, phải thực sự khách quan, toàn diện, trung
thực, lấy lợi ích quốc gia, các quyền và tự do và các lợi ích chính đáng của nhân dân làm thước đo
duy nhất.

5
6

Trích theo Báo Nhân dân ngày 3.2.1977.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.4, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.6.


Vì thế, chính các quy định của Hiến pháp phải thực sự ổn định, có tính pháp lí cô đọng và
đầy đủ và có đầy đủ khả năng tạo ra sự an toàn pháp lí cao nhất cho công dân và có khả năng phát
huy hiệu lực trực tiếp.
Tôn trọng Hiến pháp là tôn trọng ý chí phổ biến nhất và đầy đủ nhất của nhân dân. Chính vì
vậy, chủ nghĩa lập hiến đồng nghĩa với sự thừa nhận tính tối cao của chủ quyền nhân dân. Bảo vệ
Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí của nhân dân.
3). Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lí xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối
thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật XHCN của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục khoa học, đối nội,
đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách
quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính
pháp luật khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp
luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân
dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của

Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng – những tố
chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỉ luật. Pháp luật thể chế
hóa các nhu cầu quản lí xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết
chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành
mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân
đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp đã ghi rõ những yêu cầu đó như sau:
a) Về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam
(…) là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4).
b) Về Nhà nước: - “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật… Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật” (Điều 12).
- “Nhà nước thống nhất quản lí toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật” (Điều 18);
“Nhà nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách” (Điều 26)
c) Về công dân: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định”
(Điều 51); “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57); “Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 70); “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” (Điều 71); “Việc bắt giữ và
giam giữ người phải đúng pháp luật” (Điều 71); “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72); “Việc khám xét chỗ ở, việc bóc,
mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo
quy định của pháp luật” (Điều 73); “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực
pháp luật phải được…nghiêm chỉnh chấp hành” (Điều 136).
Nội dung pháp luật của Nhà nước ta chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng, do vậy
trong nội dung pháp luật đã hàm chứa đầy đủ đường lối của Đảng (đường lối của Đảng là cái hồn

của pháp luật), chấp hành pháp luật chính là thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật là
những quy tắc xử sự chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ
chức duy nhất có vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội ta, nhưng Đảng, các tổ chức ủy đảng và đảng
viên đều phải chấp hành pháp luật. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật không loại trừ bất cứ
một ai. Mặc dù Điều 4 Hiến pháp 1992 xác định: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
thì cũng tại Điều 4 Hiến pháp 1992 khẳng định: mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.


Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã từng
bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát
triển nền kinh tế thị trường XHCN và đổi mới hệ thống chính trị. Pháp luật đã bước đầu trở thành
công cụ chủ yếu để quản lí Nhà nước, quản lí xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được đề
cao và phát huy hiệu quả trên thực tế.
Pháp luật là cơ sở để duy trì bản chất của Nhà nước. Bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ
chức của giai cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai. Tính chất đó của Nhà
nước tất yếu chỉ có thể được biểu hiện bằng những đại lượng có khả năng thể hiện sự phổ biến và
công khai. Đó là pháp luật. Nhà nước chỉ có thể thể hiện ý chí phổ biến và uy quyền công khai của
mình qua một loại đại lượng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung.
Cần phải khẳng định rằng, tính chất thực sự nhân dân và nguyên tắc pháp lý trong tổ chức
quyền lực là tiền đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có được bản chất pháp lý của nó, tức
là tính bình đẳng, phổ biến, công bằng. Sự hiện diện của một hệ thống như vậy, một hệ thống pháp
luật làm tiêu chí cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực, làm giá trị cho việc xác định các
mục tiêu của quyền lực mục tiêu vì con người - đó chính là những đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền, trong đó, pháp luật là cơ sở cho hoạt động của các thiết chế quyền lực, còn các thiết
chế quyền lực phải thực sự trở thành bảo đảm cho pháp luật có được những thuộc tính công bằng
và dân chủ.
Nhà nước là người làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt mình trong sự
ràng buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của
pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính

sách của Đảng.
Tuy nhiên nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến bản chất dân chủ và giá
trị công bằng, bình đẳng của nó. Không thể tuỳ tiện đưa ra luật! Tình trạng “phi mã’ của các văn
bản dưới luật, các “giấy phép con” của các Bộ, ngành, các địa phương; tình trạng thay đổi quá
nhanh và thiếu tính khả thi của các quy định pháp luật đã phần nào làm suy giảm lòng tin vào những
giá trị công bằng và khả năng điều chỉnh của pháp luật hiện nay. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng
đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, đặt công việc đó trên một nền tảng khoa học.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp
luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân
dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một
nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng
pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều
kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện
tốt các nghĩa vụ của họ, khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ; phải đi liền với việc hoàn thiện
các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp
luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, giáo dục ý
thức pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và
tham nhũng trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
4). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các
quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ giữa Nhà nước và công dân, giữa
Nhà nước và xã hội
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước chân chính cách
mạng, Nhà nước XHCN. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ, hy sinh của dân tộc Việt
Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng, suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân,
từng con người mà Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam
tuyên bố với toàn thế giới trong ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 2/9/1945 đã chỉ
rõ:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có

thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”.


Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước v.v, luôn được Đảng ta
dành sự quan tâm đặc biệt.
Do đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền theo hướng bảo đảm tôn trọng quyền con người,
quyền công dân là một nhiệm vụ cấp bách.
Quyền của công dân khác với thẩm quyền của cá nhân thuộc các chức sắc của bộ máy nhà
nước. Quyền của công dân - đó là những khả năng được bảo đảm trong việc thụ hưởng các điều
kiện và nhu cầu khác nhau và do đó công dân có thể sử dụng hay không sử dụng các quyền đó và
sử dụng như thế nào đó theo ý riêng của mình. Trong khi đó, thẩm quyền của các chức sắc Nhà
nước, các cơ quan nhà nước là cái mà các chức sắc và cơ quan đó có trách nhiệm phải thực hiện.
Công dân có thể làm tất cả những gì luật không cấm. Các chức sắc Nhà nước và các cơ quan
nhà nước chỉ được làm những gì luật quy định.
Công dân phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm pháp luật. Các chức
sắc Nhà nước có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý không chỉ vì hành vi vi phạm pháp luật mà cả
bởi những việc làm có thể không do lỗi của mình mà do những bất cập, những khuyết điểm, những
biểu hiện thiếu trình độ và năng lực cần thiết.
Chức năng và hoạt động của Nhà nước cần được cải cách theo hướng tạo ra các điều kiện
thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư đều có cơ hội tiếp cận một cách công
bằng đối với các “đầu vào”, “gia nhập thị trường” bao gồm đất đai, tín dụng, kỹ thuật, môi trường
kinh doanh, thông tin kinh tế. Xóa bỏ tận gốc cơ chế xin-cho của cơ chế bao cấp, lấy hiệu quả kinh
tế làm tiêu chuẩn đánh giá hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như các thành phần kinh tế và các
chủ thể kinh doanh. Xóa bỏ ưu đãi có tính chất độc quyền trong sản xuất, kinh doanh.
Nhà nước cần làm tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất,
kinh doanh.
Nhà nước cần thực hiện chính sách điều tiết thu nhập giữa những người tham gia vào quá

trình sản xuất kinh doanh sao cho người lao động không bị giới chủ bóc lột quá mức và có thu nhập
tương xứng, xứng đáng với giá trị sức lao động của họ. Đó là công bằng xã hội của thời kỳ quá độ.
Đồng thời, Nhà nước cũng ra sức khuyến khích làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện cho người
lao động không ngừng nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp.
Ngòai việc phân phối cho những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh
doanh, Nhà nước cần thực hiện việc phân phối lại thông qua các sắc thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất, nhập khẩu v.v...) để tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và lấy từ
nguồn này chi đầu tư phát triển và tiêu dùng.
Nhà nước còn có vai trò xây dựng và thực thi vào quy hoạch phát triển, thực hiện kế hoạch
cân đối hợp lý vào đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Có hai loại khu vực và địa bàn: các khu
vực và địa bàn trọng điểm, đầu tàu; các khu vực và địa bàn khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ. Sự quan tâm đặc biệt này có
hai mục đích. Mức đầu tư cần thiết cho các vùng và địa bàn trọng điểm, đầu tầu sẽ kéo theo sự phát
triển của cả nước. Còn sự chú ý thích đáng đến các vùng và địa bàn khác là nhằm khắc phục sự “bất
công tự nhiên” hoặc do lịch sử để lại, giữ vững ổn định chính trị, xã hội bảo đảm sự phát triển bền
vững của xã hội.
5. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà
nước
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) cùng với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối
hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nước mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp
thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hòan cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân
loại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa VII), (1995), quan niệm của Đảng về sự
tồn tại của ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành



pháp, tư pháp. Có nói rằng, quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối
hợp chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo
trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Ở nước ta xuất phát từ bản chất của Quốc hội với tính cách là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội cần nắm giữ những quyền hạn mà
việc thực thi chúng có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ hoạt động Nhà nước.
Quyền quyết định các vấn đề quan trọng, trong đó cần chú trọng đến quyền quyết định
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách
Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước... Vấn đề ngân sách Nhà nước luôn có ý nghĩa
quyết định đối với tòan bộ hoạt động Nhà nước. Do vậy quyền quyết định ngân sách Nhà nước
được khẳng định thuộc về Quốc hội và chỉ thuộc về Quốc hội mà thôi.
Quốc hội là một cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Do vậy quyền làm luật là thẩm quyền cơ
bản nhất của Quốc hội.
- Cải cách nền hành chính quốc gia là một trong những khâu đột phá của cải cách bộ máy
hành chính Nhà nước. Do vậy sự chuyển đổi tính chất, nội dung và phương pháp thực thi của nền
hành chính quốc gia phải được bắt đầu từ cải cách Chính phủ.
Để có được các giải pháp cải cách Chính phủ phù hợp với nhu cầu của một nền hành chính
mới, cần thiết phải đổi mới nhận thức về vai trò, bản chất của Chính phủ trong điều kiện hiện nay.
Trước hết phải nhận thức rằng tính chất của quá trình chuyển đổi nền hành chính quốc gia
đang ngày càng làm tăng vai trò của Chính phủ, trong mọi quan hệ hành chính.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chính phủ đóng vai trò vừa là người mở đường,
khai thông các quan hệ kinh tế đối với các quốc gia khác, vừa là người cung cấp các dịch vụ và bảo
đảm cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào thị trường thế giới. Điều đặc biệt quan trọng là
trong quá trình hội nhập quốc tế, Chính phủ không chỉ phải chịu trách nhiệm chính trị về hội nhập
quốc tế mà còn phải chịu trách nhiệm bảo vệ lợi ích quốc gia, của các doanh nghiệp trong các quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đòi hỏi phải thay đổi tính
chất, nội dung, chức năng kinh tế và chức năng xã hội của Nhà nước mà người đại diện thực hiện
các chức năng này là Chính phủ.
Với vị trí là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, lãnh đạo thông suốt toàn bộ hệ thống

hành chính Nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính có hiệu lực
từ Trung ương đến địa phương, Chính phủ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với công cuộc cải cách
hành chính.
Tăng cường quản lý tập trung thống nhất của Chính phủ trên các vấn đề quản lý vĩ mô,
không can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện đúng và tốt
hơn chức năng quản lý Nhà nước đích thực trong kinh tế thị trường; phát huy mạnh mẽ tính
năng động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Chính phủ phải tập trung vào
nhiệm vụ đổi mới và hoàn thiện thể chế hành chính trong quản lý kinh tế, nâng cao chất lượng
quy hoạch, kế hoạch định hướng cho sự phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước; chăm lo
các vấn đề văn hoá xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự, an ninh và kỷ cương pháp luật;
củng cố an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Bảo đảm tính thống nhất, tập trung của hệ thống hành chính, phát huy tính năng động, sáng
tạo của địa phương. Điều chỉnh cơ cấu tổ chức, tinh giản bộ máy hành chính các ngành, các cấp
hành chính trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi tổ chức
và mối quan hệ công tác giữa các tổ chức ấy. Nói chung, Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp
cần được sắp xếp tinh gọn, giảm đầu mối, tập trung làm tốt công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh
vực. Khắc phục tình trạng bộ máy cồng kềnh, trùng lặp và tính cục bộ trong hệ thống hành chính ở
cả Trung ương và địa phương.
Chính phủ có trách nhiệm quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ công
chức Nhà nước. Thực tiễn điều hành công việc của Chính phủ trong thời gian vừa qua cho thấy giải
pháp xây dựng một đội ngũ những người làm hành chính chuyên nghiệp được tuyển chọn và đào
tạo theo tiêu chuẩn chức danh là khâu có ý nghĩa quyết định. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây
dựng và hoàn thiện chế độ công vụ bao gồm những vấn đề về trách nhiệm và kỷ luật đối với công


chức, về đạo đức của người công chức trong khi thi hành nhiệm vụ. Từng bước chính quy hoá các
công sở, nâng cao kỷ luật và phong cách làm việc; ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý
hành chính; tăng cường các phương tiện thông tin liên lạc cho các cơ quan để nâng cao hiệu suất
công tác và hiệu lực quản lý.

- Các cơ quan tư pháp.
+Trong Hiến pháp 1992, vấn đề tổ chức và hoạt động của Toà án được quy định tại các điều
từ Điều 127 đến Điều 136. Các Toà án nhân dân ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp
giữa thẩm quyền xét xử với tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. Ở mỗi
đơn vị cấp huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) có một Toà án, ở mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có một Toà án cấp tỉnh và ở Trung ương có Toà án nhân dân tối cao.
+Hệ thống Viện Kiểm sát - vai trò, địa vị pháp lý của hệ thống các Viện kiểm sát được quy
định trong Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002.
Viện Kiểm sát nhân dân có hai chức nănng chính:
*Chức năng thực hành quyền công tố (chức năng công tố) là chức năng chính yếu của Viện
kiểm sát.
* Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Trong quan niệm về phân quyền hiện đại, ngoài sự phân biệt ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp, còn có sự phân quyền giữa Trung ương và địa phương. Trên thế giới, tùy thuộc vào tính
chất của chế độ Nhà nước mà sự “phân quyền theo chiều dọc” này là rất đa dạng và có nhiều mức
độ. Nhưng cũng phải thấy một điều rất rõ nét hiện nay là phân quyền, phân cấp từ Trung ương cho
địa phương đang là một xu thế trong các cuộc cải cách Nhà nước hiện nay trên thế giới.
Ở nước ta khái niệm chính quyền địa phương được dùng thông dụng kể từ sau khi thành lập
chính quyền nhân dân. Trong khái niệm này thường bao hàm hai cơ quan là Hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân (ủy ban hành chính trước Hiến pháp 1980).
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đều có cùng chức năng chấp hành pháp luật tại địa
phương, quản lý địa phương theo quy định của pháp luật. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, UBND là cơ quan
chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
6). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo
Trong hệ thống chính trị nước ta Đảng cộng sản Việt nam là một bộ phận hợp thành, vừa là
tổ chức lãnh đạo hệ thống ấy. Lịch sử của Đảng ta là lịch sử của một Đảng cách mạng gắn bó máu
thịt với nhân dân. Đảng ở trong lòng dân, từ nhân dân mà ra và hoạt động không vì mục đích nào
khác ngoài việc phục vụ lợi ích của nhân dân. Đảng hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của

mình nhờ sự ủng hộ của nhân dân, đi đúng đường lối phục vụ nhân dân.
Bài học đó là bài học xuyên suốt lịch sử Đảng ta. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành với
những kỳ tích được thế giới thừa nhận cũng nhờ Đảng đã nắm bắt được sáng kiến to lớn của
nhân dân, hiểu được nguyện vọng của nhân dân và phát huy được động lực to lớn của nhân
dân thực hiện sự nghiệp đổi mới đó.
Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ vô cùng khó khăn,
phức tạp. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc, Đảng phải thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Qua tổng kết thực tiễn thế giới
và Việt nam, Đảng ta đã nêu rõ nguy cơ lớn nhất của Đảng cầm quyền là quan liêu, xa dân, thoái
hóa, biến chất, đi đến mất phương hướng về chính trị. Trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu
hóa, càng cần cảnh giác và có giải pháp khắc phục nguy cơ nói trên.
Mối quan hệ Đảng – nhân dân ở đây được Đảng ta nhìn nhận từ những bình diện sau đây:
Thứ nhất, Đảng tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân là để lấy các ý kiến đó làm cở sở
cho việc hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn của mình.
Xa rời nhân dân, thiếu hiểu biết về ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân, quan liêu,
bao biện là những căn bệnh hết sức nguy hiểm đối với một đảng cầm quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn phải dựa vào điều
kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương. Phải luôn luôn
do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không”.


Thứ hai, khi đã có đường lối, chủ trương, chính sách tốt thì Đảng chỉ có thể đưa đường lối,
chủ trương, chính sách đó vào cuộc sống nếu được sự tiếp nhận và tự giác thực hiện từ phía nhân
dân, từ đó mới có thể huy động được đông đảo nhân dân tham gia thực hiện bằng nhân tài, vật lực
của chính nhân dân – nguồn lực nội sinh của sức mạnh kiểm tra, sự sáng tạo của nhân dân.
Quá trình lãnh đạo cách mạng mấy chục năm qua của Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng
định tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Khi nào đường lối của Đảng được
xây dựng từ cở sở thực tiễn Việt nam, tranh thủ được những ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân
thì được nhân dân tiếp nhận, nhanh chóng đưa vào cuộc sống. Ngược lại, lức nào đường lối, chính
sách của Đảng xa rời thực tiễn, không hợp lòng dân thì khó được nhân dân chấp nhận.

Thứ ba, sự liên hệ mật thiết với nhân dân giúp cho Đảng có thể dựa vào dân để tự chỉnh
đốn, xây dựng Đảng ta và đội ngũ đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vạch rõ rằng, đại đa số đảng viên vào đảng với mong muốn
phấn đấu, hy sinh cho dân, cho nước. Song không ít đảng viên vào đảng vì họ tưởng rằng “vào đảng
thì dễ tìm công ăn việc làm, mong làm chức này chức nọ”. Những người như vậy dễ sinh ra những
bệnh rất nguy hiểm như “bệnh tham lam”, “bệnh lười biếng”, “bệnh kiêu ngạo”, “bệnh hiếu danh”,
“thiếu kỷ luật”, “óc hẹp hòi”.
Có thể nói rằng một đảng duy nhất cầm quyền, cơ chế quyền lực nhà nước tập quyền xã hội
chủ nghĩa không tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” – những đặc điểm đó của hệ thống
chính trị nước ta đã đặt sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động của Nhà nước nói riêng và nền dân chủ
XHCN của chúng ta nói chung vào trạng thái phát triển không có đối trọng. Trong bối cảnh đó
không thể không nói đến nguy cơ chủ quan, lạm quyền và quan liêu trong bộ máy Đảng và Nhà
nước.
Tuy nhiên, giống như một bài toán của lịch sử, yếu tố “kiềm chế” thay cho cơ chế “đối
trọng” trong hệ thống chính trị nước ta đã được xác lập. Đó là Mặt trận Tổ quốc Việt nam và hệ
thống các tổ chức, đoàn thể xã hội với vai trò kiểm tra, giám sát của các tổ chức đó đối với hoạt
động của bộ máy Đảng và Nhà nước ta.
Ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các tổ chức quần chúng
trong cách mạng nước ta. Người nói: “nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích
của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội
nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc.v..v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho
dân, bênh vực quyền của dân, lien lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”.
Trên cơ sở kinh nghiêm khẳng định vai trò quan trọng ấy của Mặt trận và các đoàn thể, Hiến
pháp nước ta (Điều 9) đã ghi nhận:” Mặt trận Tổ quốc Việt nam (…) động viên nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thực hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước”. Với tính cách là một tổ chức
chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, Tổng liên đoàn lao động
Việt nam cũng được Hiến pháp xác định chức năng “ tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham
gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế” (Điều 10).
Như vậy sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của họ đã được

đặt lên tầm Hiến định, do đó nó có khả năng hiện thực để áp dụng và mang tính bắt buộc về mặt
pháp lý. Đó chính là một cơ chế kiểm tra, giám sát của xã hội đối với hoạt động lãnh đạo và của bộ
máy công quyền. Cơ chế đó là bảo đảm quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý
của Nhà nước đạt được mục đích và hiệu quả mong muốn tránh được những sai phạm và rủi ro
không đáng có.
Đối với vấn đề Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN, có một khía
cạnh quan trọng là phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước. Nhiều
vấn đề cụ thể xung quanh vấn đề lớn này được đặt ra như: mối tương quan giữa cấu trúc tổ chức các
cơ quan Đảng với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp từ Trung ương đến địa phương; các
tiêu chí phân định sự lãnh đạo chính trị của các cấp ủy đảng và quyền tự chủ, độc lập của các cơ
quan nhà nước; cơ sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong các
hoạt động lãnh đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp; vai trò,
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng theo cấu trúc lãnh thổ như tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy xã
và của các cấp ủy trong bản thân các cơ quan nhà nước cần phải được xác định như thế nào: các vị


trí, chức vụ trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước, cán bộ đảng và công chức nhà nước… cần
được xác định về mặt pháp lý.
- Tại sao nước ta phải xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN? Phương hướng hoàn
thiện bộ máy nhà nước ta theo hướng pháp quyền.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cơ bản chính là yêu cầu, đòi hỏi đối với việc hoàn
thiện phương thức tổ chức quyền lực nhà nước để đáp ứng các tiêu chí của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta coi là nhiệm vụ
quan trọng và đã được Hiến pháp ghi nhận. Nhiệm vụ đó được Đảng đặt trong định hướng chung
của việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. 7 Đảng ta coi xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là

nhu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyền
của công dân, quyền của con người; phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận tổ quốc cùng các đoàn
thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp, làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị ngày càng vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ
đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới8.
Như vậy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta xuất phát từ những
yêu cầu, đòi hỏi chủ yếu sau đây:
1. Nhu cầu về việc phát huy bản chất XHCN duy trì và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà
nước XHCN và hệ thống chính trị XHCN, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của tất cả
các khâu trong hệ thống chính trị; đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, làm
trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước;
2. Thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
3. Tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của con người, bảo vệ có hiệu quả các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
Các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, hội nhập và toàn cầu hoá đang đặt ra
cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức. Những cung cách quản lý, điều hành xã hội của cơ chế
hành chính, tập trung hoá, bao cấp trước đây không còn phù hợp. Để đủ sức quản lý xã hội trong
bối cảnh mới, phải cải cách sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, nhà nước và pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền để củng cố, phát huy bản chất nhân dân của nhà nước ta,
thiết lập những mối quan hệ đúng đắn giữa nhà nước và nhân dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền
sẽ cho phép giải quyết một cách tốt nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là vấn đề còn rất mới mẻ đối với chúng ta cả về lý luận và
thực tiễn, do vậy phải được tiến hành một cách đồng bộ. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền, cần phải vừa tiếp thu có chọn lọc lý luận và thực tiễn nước ngoài, vừa phát huy nội lực, đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc dân tộc, kế thừa kinh nghiệm dựng nước và giữ

nước cuả cha ông.
2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Quan niệm này thể hiện bản chất nhà nước ta và đã được xác định
Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Báo Nhân dân, ngày 19-42006.
7

Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Báo Nhân dân, ngày 19-42006.
8


×