Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đặc trưng vùng văn hóa nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 20 trang )

Đề tài thuyết trình số 15:

ĐẶC TRƯNG VÙNG VĂN HÓA
NAM BỘ
I, Giới thiệu chung:
1, Khái niệm vùng văn hóa:
Vùng văn hóa để chỉ một không gian có những tương đồng về hoàn cảnh
tự nhiên, dân cư sinh sống,… ở đó có những mối quan hệ về nguồn gốc và lịch sử, có
những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa các cộng đồng cùng địa
phương đã diễn ra những mối giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã
hình thành những đặc trưng chung, thể hiện những văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần của cư dân, có thể phân biệt với những vùng văn hóa khác.
Theo giáo trình Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam (Trần Quốc Vượng chủ biên –
nxb Giáo Dục), văn hóa Việt Nam nên chia thành 6 vùng văn hóa: vùng văn hóa Tây
Bắc, vùng văn hóa Việt Bắc, vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, vùng văn hóa Trung Bộ,
vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên và vùng văn hóa Nam Bộ. Trong từng vùng
văn hóa có thể chia thành nhiều tiểu vùng văn hóa.
2, Một số đặc điểm chung về lãnh thổ, điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của
vùng Nam Bộ
Nam Bộ là vùng đất nằm ở cuối cùng đất nước về phía Nam, hiện nay là
địa bàn thuộc lãnh thổ của các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà
Rịa – Vũng Tàu (thuộc Đông Nam Bộ), Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau (thuộc
Tây Nam Bộ) và Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng diện tích lãnh thổ khoảng 66000km 2,
nằm trọn vẹn trong phần hạ lưu của hai dòng sông là sông Đồng Nai và sông Cửu
Long. Nam Bộ tiếp giáp với Biển Đông, nên còn được gọi là vùng đất cửa sông giáp
biển. Khí hậu Nam Bộ là khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, một năm chỉ có hai mùa là mùa
khô và mùa mưa, nhưng không quá khô nóng và xảy ra mưa bão lớn như miền Bắc và
miền Trung. Nam Bộ có “mùa nước nổi”, nước lên rất hiền hòa, bồi đắp phù sa cho
ruộng đồng, vậy nên ở Nam Bộ không có đê điều. Một điểm nổi bật nữa về tự nhiên
của Nam Bộ đó là hệ thống kênh rạch chằng chịt, với khoảng 5700km đường kênh


rạch. Nam Bôô là nơi gặp gỡ của các tuyến giao thông đường biển quốc tế: Việt Nam
với Đông Nam Á; Việt Nam với thế giới phương Tây; ngã ba đường Thái Bình Dương Ấn Độ Dương. Những đặc điểm về vị thế địa – văn hóa này đã tạo cho Nam Bộ có
những đặc điểm văn hóa riêng, khác biệt hẳn với Bắc Bộ hay Trung Bộ.

Mùa nước nổi


Tiến trình lịch sử của vùng đất Nam Bộ không phát triển liên tục như
những vùng đất khác mà trải qua sự đứt gãy. Sau sự biến mất của nền văn hóa Óc Eo
vào cuối thế kỷ VI, Nam Bộ rơi vào tình trạng hoang vu hiểm trở, đến thế kỷ XIII mới có
một bộ phận người Khmer tới sinh sống rải rác. Người Việt đến khai phá vùng đất này
vào khoảng thế kỷ XVI, tiếp theo đó là người Chăm, người Hoa,… Năn 1698, Chúa
Nguyến cử Nguyễn Hữu Cảnh vào thành lập phủ Gia Định, năm 1757 Nam Bộ hình
thành chính thức đến mũi Cà Mau - xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Có thể thấy Nam Bộ là một vùng đất với đa dân tộc, nhưng tộc người chủ
thể chiếm số đông nhất (khoảng 90% dân số) và có vai trò quyết định sự phát triển của
vùng đất là người Việt. Họ chủ yếu là những lớp cư dân từ miền Bắc, miền Trung,
nguồn gốc xã hội cũng khác nhau: một số là tù nhân, tội đồ bị nhà nước phong kiến
đưa vào khai hoang tại các đồn điền, một số là những người giang hồ, dân nghèo đi tha
hương biệt xứ, một số là quan lại được đưa vào Nam khai phá vùng đất mới rồi ở lại.
Họ đem đến đây không phải chỉ có vật dụng, tư liệu sản xuất, gia đình,… mà còn là vốn
văn hóa ẩn trong tiềm thức. Vốn văn hóa này của vùng châu thổ Bắc Bộ, được làm giàu
ở “khu năm dằng dặc khúc ruột miền Trung” và được đem vào vùng châu thổ sông Cửu
Long.
II, Các đặc trưng vùng văn hóa Nam Bộ (chủ yếu nói về người Việt Kinh)
Nói đến nền văn hóa Nam Bộ là nói đến văn hóa của các tộc người ở đây. Họ
vốn không phải người dân bản địa, văn hóa của họ là văn hóa ở vùng đất mới, có sự
kết hợp giữa truyền thống văn hóa trong tiềm thức và điều kiện tự nhiên, lịch sử của
vùng đất mới. Quá trình giao lưu văn hóa cũng diễn ra với tốc độ mau lẹ, chỉ trong
khoảng 300 năm, văn hóa Nam Bộ đã định hình rõ những đặc trưng riêng của vùng

mình.
1, Đặc trưng tính cách của người Việt ở Nam Bộ (hằng số văn hóa)
a/ Tính năng động
Tính năng động của người Việt Nam Bộ là một đặc tính rất đặc
biệt, là sự sản phẩm của nhiều yếu tố kết hợp. Thứ nhất, người Việt Nam có sẵn bản
tính linh hoạt, lanh lợi, giỏi biến báo, và nếu không có tính linh hoạt từ trong máu thịt ấy
thì sẽ khó có thể hình thành tính năng động của Nam Bộ hôm nay. Có thể nói, tính năng
động chính là bước phát triển mới của tính linh hoạt truyền thống. Thứ hai đó là tính
tổng hợp văn hóa truyền thống của các dân tộc không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế
giới. Như đã nói ở trên, Nam Bôô là cửa ngõ của Viêôt Nam tiếp xúc với các luồng giao
thông đường biển từ phương Tây tới. Về thời gian, thời điểm hình thành văn hoá Nam
Bôô trùng với thời điểm văn hoá phương Tây thâm nhâôp vào Viêôt Nam, mà nơi đầu tiên
thâm nhâôp vào chính là Nam Bôô. Trong quá trình hình thành, văn hóa Nam Bộ đã gặp
tính mở - thoáng của các nước phương Tây, người Việt Nam Bộ đã tích cực tiếp thu và
dần biến thành nét năng động đặc trưng trong tính cách của mình.
Biểu hiện của sự năng động rất đa dạng, nhưng nhìn chung là sự
dễ thay đổi cách sống, chỗ ở và nghề nghiệp. Những người Việt xa quê đến khai phá
vùng đất mới, họ đã chấp nhận cuộc sống nhiều biến động, họ từ bỏ cách sống biệt lập,
khép kín trong lũy tre làng như ở đồng bằng Bắc Bộ, lựa chọn cư trú trong những
những làng Nam Bộ mở, nhà cửa tản ra theo tuyến, theo kiểu tỏa tia, dọc hai bên bờ
kênh rạch, trục lộ giao thông để thuận tiện cho cuộc sống làm ăn.


Chợ nổi Cà Mau
Người Việt vào Nam lập làng, cùng nhau ổn định cuộc sống, nhưng nếu cuộc
sống ở đó chưa làm họ hài lòng, họ sẵn sàng chuyển đi nơi khác, bởi vì đã trải qua
chặng đường di cư dài từ Bắc vào Nam thì có di chuyển thêm chút nữa cũng không ăn
nhằm gì. Nếu như ở miền Bắc coi rẻ dân ngụ cư thì miền Nam lại đánh giá cao những
người bản lĩnh, dám di chuyển: “Làm trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân đã trải, Đồng Nai
đã từng.” Họ cũng rất linh hoạt trong việc lựa chọn nghề nghiệp kiếm sống: “Ra đi gặp

vịt cũng lùa/ Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.” Họ rất dễ tiếp nhận cái mới và biết
sáng tạo để biến đổi chúng cho phù hợp với bản thân. Điều này sẽ được nói chi tiết
trong những đặc trưng về trang phục, ẩm thực,… của người Việt Nam Bộ. Sự năng
động, bản lĩnh, dám thay đổi dẫn đến khả năng dám làm ăn lớn. Nam Bộ rất khuyến
khích việc mở cửa giao lưu, buôn bán: “Đạo nào vui bằng bán buôn/ Xuống biển lên
nguồn, gạo chợ nước sông.” Nhờ vậy mà tạo nên nền kinh tế hàng hóa sớm nhất cả
nước. Và hiện nay, phần lớn những chủ trương lớn trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đều bắt đầu từ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành thuộc Nam Bộ.
b/ Tính trọng nghĩa
Nam Bộ là đất của dân tứ xứ, con người không quen biết nhau, nhưng
cũng có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, do vâôy cơ sở của quan hệ giữa họ ở đây
không phải tình mà là nghĩa. Hơn thế nữa, Nam Bộ còn là đất của những lưu dân bần
cùng, bởi vâôy mà người Nam Bôô liều lĩnh, đầy nghĩa khí, bởi vâôy mới hình thành nên
tính trọng nghĩa khinh tài. Người Nam Bôô coi nhẹ tiền tài, của cải vật chất: “Theo nhau
cho trọn đạo trời/ Dẫu không có chiếu trải tơi mà nằm”. Trong tình yêu người Nam Bô ô
rất quyết liệt và ngang tàng: “Dao phay kề cổ, máu đổ không màng/ Chết tôi tôi chịu,
buông nàng không buông”; “Đôi lứa ta thương nhau/ Thương dại thương dột/ Thương
lột da óc/ Thương tróc da đầu/ Ngủ đi thì chớ/ Thức dậy lại thương”. Người con trai
Nam Bôô khá liều lĩnh: “Gió đưa buồn ngủ lên bờ/ Mùng cô em có rộng, cho ngủ nhờ
một đêm”; “Rượu ngon cái cặn cũng ngon/ Thương em bất luận chồng con mấy


đời”. Người con gái cũng bạt mạng không kém: “ Anh có tiền dư cho em một đồng/ Em
về mua gan công, mật cóc thuốc chồng rồi em theo anh.”
Tính trọng nghĩa dẫn đến tính hào hiệp, sống hết mình, sẵn sàng đùm
bọc, sẻ chia, kiểuhôm nay có tiền thì dốc túi đãi nhau, ngày mai thiếu thì tính sau. Vậy
nên sáng kiến tổ chức các chương trình xây nhà tình nghĩa hay đấu giá ủng hộ người
nghèo, những người phát động và tham gia nhiệt tình thường là doanh nhân miền
Nam.
Đặc biệt, tinh thần hiếu khách là một nét đặc trưng của người Nam Bộ. Do

trọng nghĩa, hào hiệp, lại được thiên nhiên ưu đãi, đất rô ông người thưa nên bất cứ
người Việt nào đến đây cũng đều là bạn: "Ở Gia Định có khách đến nhà, đầu tiên gia
chủ dâng trầu cau, sau dâng cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân sơ
quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều khoan nạp khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần
đem tiền gạo theo" [Trịnh Hoài Đức 1820/1998].
Một đặc tính nữa của người Việt Nam Bộ là tính thẳng thắn, bộc trực.
Người Nam Bôô “ăn mặn nói ngay” nghĩ sao nói vậy, không quá giữ kẽ, quanh co úp mở,
vòng vo như người Bắc Bôô. Người Nam Bôô có tác phong rõ ràng, dứt khoát: nói như
rựa chém xuống đất; làm ra làm, chơi ra chơi; làm thì làm tới chết bỏ, còn ăn chơi thì
phải xả láng mới đáng mặt.
c/ Tính thiết thực
Tính thiết thực của người Việt Nam Bôô có sự kết hợp từ tính thiết thực
của truyền thống văn hóa dân tộc kết hợp với tính thực dụng của truyền thống văn hoá
phương Tây. Tính thiết thực Nam Bôô biểu hiêôn ở viêôc trọng nội dung hơn hình thức,
trọng cụ thể hơn trừu tượng. Họ có tinh thần trọng võ, trọng làm ăn buôn bán hơn văn
chương. Cuộc sống đầy bất trắc (cọp beo, giặc cướp) nên phải có sức khỏe: Lục Vân
Tiên tuy là học trò nhưng giỏi võ. Tính từ Gia Long đến giữa thời Tự Đức, sách Đại nam
nhất thống chí liệt kê được 26 nhân vật Gia Định, trong đó có 13 võ tướng và 12 quan
văn (ở Bắc Bôô do truyền thống trọng văn mà trong suốt lịch sử, quan văn luôn nhiều
hơn quan võ môôt cách áp đảo). Lưu dân vào Nam Bôô phần đông là dân nghèo, không
phải để học hành mà là để làm ăn: Nhân chi sơ tay rờ cơm nguội, Tính bản thiện cái
miệng đòi ăn. Người Nam Bộ trọng hài hước nhẹ nhàng hơn triết lý sâu xa. Và mọi việc
của họ chỉ cần đạt đến “vừa phải”: làm vừa phải “Cầu sung vừa đủ xài”, nhu cầu vừa
phải “Chỉ cần chai rượu với vài quả ổi xanh cũng có thể nhậu với nhau cả buổi được
rồi”, ngay cả tiêu chuẩn chọn chồng cũng vừa phải “Củi khô dễ nấu, chồng xấu dễ xài”,
ngay chuyện học hành vươn lên vừa phải, đủ dùng thì thôi, ít người ham học cao. Tính
vừa phải cùng môi trường sống thuâôn tiêôn dẫn đến tâm lý tạm bợ, đến đâu hay đến đó,
sống bữa nay không cần tính ngày mai. Một người đạp xích lô kiếm từng đồng, nhưng
được đồng nào vẫn tiêu hết đồng ấy, không cần dành dụm, ăn hết rồi kiếm tiếp sau.
2, Đặc trưng đời sống văn hóa của người Việt ở Nam Bộ (biến số văn hóa):

Những đặc trưng trong tính cách và những đặc điểm tự nhiên, lịch sử nói trên có ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa của người Việt Nam Bộ, biểu hiện cụ thể như sau:
a/ Trang phục


Trang phục truyền thống của người Việt Kinh ở Nam Bộ là khăn rằn quấn
cổ và áo nâu sòng, quần đen thanh thoát. Đặc biệt là chiếc áo bà ba là nét đặc trưng
của người kinh ở Sài Gòn xưa và Đồng bằng sông Cửu Long. Nó tạo thành nét đẹp
duyên dáng đậm đà của người dân Nam Bộ xưa và nét đẹp đó còn tồn tại đến tận ngày
nay. Chiếc áo bà ba mộc mạc, giản dị hiện hữu, đồng hành với người phụ nữ Nam Bộ
như một thứ y phục đặc trưng cho tính cách thuần hậu, dịu dàng của họ. Khăn rằn –
nón lá – áo bà ba đã đi vào trong thơ ca nhạc họa, trở thành nét đặc trưng cho con
người Nam Bộ.

Trang phục truyền thống của người nông dân Nam Bộ
b/ Ẩm thực


Nói đến vùng đất Nam Bộ , người ta hay nói đến sự trù phú của vùng đất
này về các nguồn lợi tự nhiên , vùng đất “làm chơi ăn thiệt”. Vì đây là nơi được thiên
nhiên ưu đãi cho con người, con người không phải làm lụng nhiều mà vẫn có cái ăn,
cái mặc nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, không phải vùng đất này lúc nào
cũng ưu ái cho con người nhiều nguồn lợi tự nhiên . Mà trái lại, ngay từ buổi đầu khai
phá, những lưu dân phải chiến đấu với thiên nhiên một cách gian khổ để khắc phục rất
nhiều khó khăn do tự nhiên gây ra. Vì vậy để sinh tồn, ở phương diện ăn uống họ
không thể nào ăn các món ăn truyền thống ở quê nhà, bởi nguyên vật liệu các nguồn
lương thực họ chưa hề quen biết nên lúc đầu gặp gì ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ ,
con cá dưới sông, con chim trên trời, cho đến các loài sinh vật khác. Tính hoang dã
trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã được định hình từ đây. Điều dễ nhận thấy
nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều rau, đây là loại thức ăn có sẵn

ở vùng sông nước, ao hồ, ruộng vườn rất dễ tìm không cần nhiều thời gian chế biến, có
loại chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được. Người ta có thể ăn các loại rau từ rau đắng,
rau dền, rau răm, cải xanh, tía tô, hành, hẹ, ngò gai, … đến các loại hoa như : hoa điên
điển, hoa thiên lí,… Vì là vùng nhiều sông ngòi kênh rạch nên các loại thuỷ hải sản
trong bữa ăn là không thể thiếu, ngoài các loại cá, tôm bắt ở ao người ta còn ăn các
loài mang tính hoang dã như: con còng, con cua, ba khía, chuột, cóc, nhái, ếch, dơi,…
và thậm chí người ta còn ăn một số côn trùng như cào cào, dế,…

Con ba khía

Bông điên điển


Người Nam Bộ thường có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại chỗ nên tính
hoang dã ở đây thể hiện ở việc các món ăn gắn với không gian của một khoảng vườn,
mảnh ruộng, bờ ao, nên mới chuyện sau buổi tát đìa, người ta chọn mấy con cá lóc to,
mọi thứ như bạc hà, cà chua, ớt …đều có sẵn gần đó không phải ra chợ mua. Khi chín
chỉ chặt lá chuối tươi để lót nồi và làm dĩa đựng cá, thêm một chén muối ớt để chấm cá
là đã có được một món canh chua cá lóc của một gia đình Nam Bộ giữa một đồng
ruộng mênh mông. Món cào cào rang cũng đặc biệt, bởi vùng này nhiều cào cào đến
độ chỉ cần cầm túi ra bắt một tí là được một buổi ăn của gia đình, bắt cào cào đem về
lặt chân, móc ruột cho vào chảo rang vơi xã ớt, ít gia vị là xong một món khoái khẩu.

Món cá lóc nướng


Sự tiếp biến trong văn hóa ẩm thực của các dân tộc ở đây đã làmcho các
món ăn nơi vùng đất này không ngừng phong phú qua việc tiếp thu rồi chế biến lại , tạo
ra hương vị khác. Ví dụ như món bún nước lèo của người Khmer làm từ tôm, cá nấu
nhừ, rồi rỉa bỏ hết xương, nêm vào nước lèo sả, ớt, củ ngải bún được giã nhuyễn, sau

đó nêm mắm bò hóc, ăn kèm với các loại rau húng nhủi, húng quế, hẹ, bắp chuối... Khi
qua tay những thợ nấu người Việt thì các nguyên liệu của nó không được giữ nguyên
như cũ, người Việt lại cho thêm tép bóc vỏ, thịt heo quay và một số loại rau khác, mà
những loại rau này đôi khi nó khác hẳn nguyên gốc. Khi ăn cháo trắng của người Hoa,
người Việt không chỉ ăn với hột vịt muối mà còn có dưa mắm và cá cơm, cá lòng tong
kho khô... Hay món heo quay của người Hoa thường được ăn kèm với bánh hỏi thì
người Việt dùng heo quay đem kho lại, nêm thêm gia vị vào... Hoặc món vịt tiềm của
người Hoa thường được nấu với chanh muối nhưng lại được người Việt đem tiềm với
cam.
Nói đến món ăn Nam Bộ không thể không đề cập đến các món mắm .
Món mắm là một sáng tạo độc đáo của người Nam Bộ , mắm chủ yếu được chế biến từ
cá , ngoài ra còn có mắm rươi, mắm tôm, ba khía,...
Nam Bộ còn là vùng đất của những loại trái cây miệt vườn, có rất nhiều
loại trái cây bắt nguồn từ miền Nam, và chỉ miền Nam mới có như: măng cụt, mãng
cầu, thanh long, sầu riêng,…Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt ở Nam Bộ thì dừa và
món ăn từ dừa chiếm vị trí quan trọng, vì dừa có tác dụng giải nhiệt. Các loại nước giải
khát như nước dừa, nước quả rất được ưa thích, người Nam Bộ coi là trà là nước giải
khát chứ không dùng để thưởng thức như ở Bắc Bộ.

c/ Ngôn ngữ và văn học


Vốn từ ngữ của người Việt Nam Bộ có sự vay mượn vốn từ của người
Hoa, Khmer,… Trong câu hát bình dân “Trời mưa dít am hoang tùa, a hê phê chuối,
xuốt gùa thăm em” (Trời mưa trời tối gió to, anh chèo ghe đến đặng mà thăm em) có sự
pha trộn giữa tiếng Việt và tiếng Hoa Triều Châu trong gian đoạn từ 1858 đến 1945. Sự
giao lưu giữa văn hóa Việt và văn hóa Pháp dù có là cưỡng bức nhưng nó vẫn xảy ra,
chữ Quốc ngữ được ươm mầm và phát triển ở Nam Bộ. Báo chí bằng chữ Quốc ngữ
cũng xuất bản đầu tiên ở Nam Bộ, và người Việt ở đây rất nhanh chóng tiếp thu yếu tó
văn hóa này.

Phương ngữ Nam Bộ khá đặc biệt, những cách nói tưởng chừng như
không có nghĩa, vô nghĩa, nếu chiết tự từng chữ rồi kết hợp lại với nhau, nhiều lúc thấy
phi lý, nhưng người Nam bộ vẫn hiểu được. Hiện tượng ngôn ngữ này dùng lâu ngày
giống như một quy ước và bất kỳ người Nam bộ nào cũng hiểu được nhau khi giao
tiếp. Chẳng hạn, từ “khổ qua” người Nam bộ đọc là “hủ qua” mà vẫn hiểu đó là một loại
trái ăn có vị đắng dùng để dồn thịt hầm hoặc nấu canh. Cũng với cách nói trại từ ngữ
như thế này, người Nam bộ còn sử dụng ngay cả trong khi dùng các thành ngữ để giao
tiếp. Như thành ngữ sau: “ Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm”, người Nam bộ lại nói: “Vắng
chủ nhà gà mọc đuôi tôm”, hay một thành ngữ khác thuộc từ Hán Việt cũng được nói
trại đó là “Bất quá tam” được nói trại thành “Nhứt bá tam, nhì ba cái”, tuy vậy ý nghĩa
cũng không thay đổi. Do đặc điểm của người dân Nam bộ là “ăn ngay nói thẳng” nên
những từ ngữ, hình ảnh của họ dùng mang tính hình tượng rất cao để dễ diễn đạt ý
muốn nói. Những nét đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ. Đặc trưng của ngôn ngữ Nam
Bộ là giàu tính hình tượng cụ thể, giàu hình ảnh và giàu chất hài. Tính giàu hình tượng
cụ thể, có thể là một đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ. Chẳng hạn: Bánh phồng là bánh
nướng phồng lên. Bánh kẹp là bánh dùng kẹp mà nướng. Bánh lá dừa là bánh gói
bằng lá dừa. Bánh tét là bánh phải dùng dây mà tét. Bánh xèo là bánh khi đổ nghe xèo
xèo. Bánh ít có thể là nói trại từ bánh ếch, vì giống hình con ếch. Ngoài bắc từ tiếng
Svont của người Pháp mà gọi là xà phòng, còn trong Nam thì gọi là xà bông, vì khi chà
xát thấy nổi bông trắng lốp. Ngoài Bắc gọi mì chính, trong Nam gọi bột ngọt, bởi nó là
bột mà ngọt. Miền Bắc gọi dầu hỏa, trong Nam gọi dầu hôi, vì nó hôi. Cứ như vậy mà
liệt kê, ta thấy ngôn ngữ Nam Bộ có vẻ như khác hẳn với ngôn ngữ vùng văn hóa phía
Bắc. Có người nói, có thể do có sự đối kháng từ thời Nam Bắc triều, đàng ngoài đàng
trong. Ví dụ: heo với lợn, Huỳnh với Hoàng, cá chuối với cá lóc,… Trong giao tiếp,
người Nam Bôô thích diễn đạt môôt cách ngắn gọn, cụ thể và sinh động, hài hước: kéo
cái rẹc, tát cái bốp, quá cỡ thợ mộc, quá trời quá đất, hết chỗ chê, hết biết luôn, bự
trảng thấy sợ, trúng ngay phóc,... và giàu hình ảnh: bồ nhí (nhân tình nhỏ tuổi),mánh
mung (thủ đoạn), hết sẩy (nhất hạng), xả láng (hết cỡ), mệt nghỉ (đã đời), hết xí
quách (kiệt sức), đớp hít (ăn hút), ba trợn ba trạo, hết trơn hết trọi...
Nói đến văn học Nam Bộ không thể không nhắc đến Nguyễn Đình Chiểu

và truyện thơ Lục Vân Tiên. Tác phẩm “Lục Vân Tiên” trong nền văn học Việt Nam tuy
không được đánh giá cao về mặt câu từ, nghệ thuật nhưng lại được người Nam Bộ rất
yêu thích và thuộc lòng vì nội dung của nó. Nhân vật Lục Vân Tiên mang rất nhiều nét
tính cách điển hình của người Nam Bộ: trọng nghĩa, “kiến nghĩa bất vi”, trượng võ, hào
hiệp, ngay thẳng, bộc trực, chân thành… Như đã đề cập, người Nam Bộ thích sự hài
hước, gần gũi hơn là những triết lý sâu xa, họ thích nói xạo, nói dóc, nói trạng đơn giản
nhẹ nhàng, nên những mẩu chuyện dân gian truyền miệng của họ thường là những


chuyêôn ông Ó ở Bến Tre, chuyện ông Ba Phi ở Minh Hải, chứ không thâm thuý như
chuyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn Bắc Bôô.

d/ Kiến trúc
Vùng đất Nam bộ là vùng đất trũng có hơn phân nửa diện tích ven biển là
vùng đất lợ, điều kiện môi trường rất thích hợp cho các loài cây sú, vẹt, đước, bần,
tràm, dừa nước, …sinh sống. Người dân ở đây đã tận dụng các sản vật tự nhiên này
làm vật liệu xây dựng cho ngôi nhà của mình. Nam Bộ có ít bão tố, nhiều kênh rạch,
con người phải dồn sự chăm chút cho ghe xuồng và vườn tược nên nhà cửa khá tạm
bợ. Một ít cây làm cột , làm kèo, một ít lá dừa nước vừa lợp mái, vừa thưng vách là đã
có một ngôi nhà ấm cúng.


Trong kiến trúc đình chùa, buổi đầu định cư họ thường dùng bộ khung
sườn gỗ thuần gỗ. Dân làng tận dụng gỗ tại chỗ trong quá trình khai hoang, giá thành
không đáng kể, kkhung sườn gỗ dùng trong kiến trúc đình chùa ở đây do vậy cũng
thanh mảnh hơn so với Bắc Bộ. Đình Nam Bộ là một quần thể kiến trúc nghệ thuật gồm
nhiều nhà vuông có 4 cột cái rất to (tứ cột), nóc ngắn so với chiều dài diềm mái và có 4
mái trải rộng ra 4 phía. Một ngôi đình Nam Bộ khi bước qua cổng thì có một bệ gạch
được xây ở giữa sân đình gọi là đàn xã tắc. Các kiến trúc như chánh tẩm, võ ca,hội sở
lại có nhiều nếp nhà nối liền nhau mà người dân Nam bộ thường gọi là xếp đọi. Chánh

điện gồm hai nếp nhà hội sở gồm ba nếp nhà, võ ca gồm 7 nếp nhà. Kiến trúc đình
chùa buổi đầu và kể cả ngày nay tai vùng nông thôn, trong các công trình phụ như:
bếp, kho, nhà khách…loại vật liệu thô sơ cũng được người ta tận dụng đẻ kiến tạo. Đặc
biệt, cây tràm đến ngày nay vẫn là loại cây tiện dụng nhất tại Nam bộ. Nam Bộ là vùng
đất thịt và cao lanh, nhờ vậy gạch ngói, gốm sứ xuất hiện, dùng rất sớm nhưng giá
thành đắt hơn lá dừa nước nên người ta chỉ sử dụng nó cho các công trình quan trọng.
Khí hậu Nam Bộ khá nóng ẩm nên các công trình phải thành nhiều phần nhỏ được
ngăn cách bởi các khoảng sân trống giữ nhiệm vụi thông gió ( chùa Vĩnh Tràng ( Mỹ
Tho) và chùa Giác Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh)). Mái đình chùa thường rất cao, đầu
tường xung quanh thường được chừa thoáng. Để ứng phó với gió mưa, người Nam Bộ
đã cho ra đời kiểu cấu trúc góc mái thẳng và dùng ngói máng xối làm vật liệu lơp. Để
chống mục chân cột, chông mối mọt phá hoại, các loại tán đá đã được dùng. Đặc biệt
các hàng cột hiên tán có chân đế rất cao.
Trong điêu khắc trang trí có khuynh hướng dùng những động vật, hoa lá gần gũi
với cuộc sống hàng ngày như con cua, con cá... thay cho những con vật trong bô ô tứ
linh kinh điển.

Chùa Giác Lâm
e/ Âm nhạc
Nam Bộ có một số loại hình âm nhạc diễn xướng điển hình như hát bội,
đờn ca tài tử, vọng cổ, cải lương, hay dân ca như lý, hò,…


Đờn ca tài tử: được hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19. Đờn ca tài
tử là nghệ thuật của đờn (đàn) và ca, do những người bình dân Nam bộ sáng tác để
hát chơi sau những giờ lao động. Chữ “tài tử” có nghĩa là người chơi nhạc có biệt tài,
giỏi về cổ nhạc. Lúc đầu chỉ có đờn, sau xuất hiện thêm hình thức ca nên gọi là đờn ca.
các bài bản của Đờn ca tài tử được sáng tạo dựa trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình,
nhạc dân gian miền Trung và Nam. Nhạc tài tử Nam Bộ dựa theo học thuyết âm dương ngũ hành với ngũ cung: Giốc: Hò (Mộc), Chủy: Xự (Hỏa), Cung: Xang (Thổ),
dựa trên nền tảng lễ nghĩa, đạo đức phương Đông mang trong mình cái gốc luân lý,

mục tiêu đào tạo cung cách làm người. Nó vừa mang nét trang trọng cung kính của
nhạc lễ vừa dịu êm ngọt ngào dễ hòa vào tâm hồn những con người vừa định cư ở
vùng đất mới mà lòng không nguôi thương nhớ quê cũ làng xưa. Nó phù hợp vì rất đa
dạng đáp ứng được mọi khía cạnh tình cảm con người, hoàn cảnh cuộc đời. Các bài
bản này được cải biên liên tục từ 72 bài nhạc cổ và đặc biệt là từ 20 bài gốc (bài Tổ)
cho 4 điệu (hơi), gồm: 06 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), 07 bài Hạ (dùng
trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 03 bài Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và 04
bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia ly). Người đờn Tài tử không dùng nhạc Tài tử làm
kế sinh nhai. Khi nào thích đờn thì họp nhau tại nhà một người trong làng rồi cùng nhau
đờn chơi, ai biết đờn ca cũng có thể tham gia được. Dầu vậy mà trình độ nghệ thuật
của đờn Tài tử không thấp. Ngược lại, họ thường tập luyện rất công phu, phải theo thầy
học từ chữ nhấn, chữ chuyền, rao sao cho mùi, sắp chữ sao cho đẹp. Mục đích của
đờn ca tài tử là phục vụ vô tư cho các lễ hội, đình ám, đám cưới, đám giỗ, buổi tiễn đưa
tân binh, đơn vị bộ đội lên đường đánh giặc... không vụ lợi, không cần thù lao, gọi là
"giúp vui", mang tính cộng đồng sâu sắc, bình đẳng giữa mọi người. Thú chơi đờn ca
tài tử còn vì phong cảnh hữu tình, gợi cảm, gần với thiên nhiên. Ngoài số cuộc chơi ở
các lễ hội đình đám ngồi bộ ván trải chiều bông nghiêm trang, phần nhiều các ban ca
nhạc tài tử thích chơi giữa cảnh trời trăng mây nước.

Biểu diễn đờn ca tài tử


Cải lương: Cải lương theo nghĩa chữ là thay đổi dần dần cho tốt hơn lên,
ở đây có một số điển cố: cải lương lấy hai chữ trong câu “Cải tục duy tân, lương tri tâm
điền”, do Trương Duy Thản trong phong trào Duy tân ở Mỹ Tho đầu thế kỉ này, chủ
trương dùng nghệ thuật (sân khấu cải lương) để cải cách xã hội theo hướng tiến bộ.
Nghệ thuật cải lương sinh ra trong phong trào ca nhạc tài tử Nam bộ. Từ những hình
thức đàn ca thính phòng, tiến tới cách diễn xướng, vừa hát vừa minh hoạ bằng điệu bộ,
gọi là “ca ra bộ”. “Ca ra bộ” là cái cầu nối giữa đàn hát thính phòng và sân khấu kịch hát
cải lương. Cũng như các hình thức kịch hát dân tộc khác, cải lương cũng bao gồm:

múa, hát, âm nhạc và kịch bản tích trò. Một số đặc điểm của cải lương như: Bố cục
thường theo bố cục của kịch nói; nội dung khai thác các cốt truyện Nôm của ta như Kim
Vân Kiều, Lục Vân Tiên hoặc các câu truyện trong khung cảnh xã hội Việt Nam, ngoài
ra còn có một số vở soạn theo các tích truyện của Trung Quốc để phù hợp với thị hiếu;
Ca nhạc cải lương bắt nguồn từ các điệu dân ca Nam bộ nhưng sau này được bổ sung
thêm một số bài bản mới, hoặc một số điệu ca vốn là nhạc Trung Quốc nhưng đã được
phổ biến từ lâu trong nhân dân Việt Nam, đã Việt Nam hóa; diễn xuất của diễn viên
uyển chuyển, mềm mại nhưng không cường điệu hóa, cũng có múa và diễn võ nhưng
nhìn chung là những động tác sinh hoạt để hãi hòa với lời ca, diễn viên ăn mặc như
ngoài đời thật.

Một cảnh trên sân khấu cải lương
Lý Nam Bộ: không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung
cũng như đặc tính âm nhạc. Lý Nam Bộ đề cập đến các sinh hoạt, các công việc và tâm
trạng, tâm hồn của người dân. Lý còn đề cập đến các loài vật, các loại cây, các thứ hoa
trái, nói về tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Có những bài ca nói lên những ước
mơ của người dân bình thường, hoặc phê phán châm biếm những cảnh chướng tai gai


mắt. Lý Nam bộ thực sự là một thể loại phản ánh cuộc sống, cách suy nghĩ và tính cách
của người Việt ở Nam Bộ Mặc dầu ở Lý Nam Bộ có đủ mọi sắc thái nhưng có lẽ những
nét buồn là sâu đậm hơn, đồng thời lại hồn nhiên mộc mạc và hóm hỉnh ngộ nghĩnh.
Hò: một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ. Hò được gắn liền với sông
nước, với khung cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng phóng khoáng, tự do,
mang ít nhiều nhân tố "tự sự", "vịnh thán", hò thường được dùng để ngợi ca hay đề cao
một đạo lý tốt đẹp nào đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin yêu chặt dạ bền
lòng... Âm điệu của các thể loại hò ở từng địa phương thường không giống nhau về chi
tiết luyến láy, về cách xử lý các "âm điệu" giữa câu, hay có đôi khi cũng khác nhau về
kết cấu toàn bộ. Thí dụ như: hò Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc "át âm", nhưng trong
lúc đây, tuy cùng một điêu thức "xon", nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh,

thì lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn. Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong
cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể hiện được tính cách riêng biệt, màu sắc
độc đáo, chứ không phải là không có dụng ý. Thông thường do ý nghĩa của nội dung lời
hò giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò này được tiến hành theo đường nét bình
ổn, "lên dần" hoặc "xuống dần", cố tránh những bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra
một phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu "ngân nga, tự sự", nặng đi vào chiều sâu
lắng hơn là ầm ĩ, huyên náo. Hoàn cảnh xã hội ngày càng thay đổi, nên nội dung và
hình thức hò cũng được cải biên và bổ sung cho thích hợp. Ví dụ như, khi Mặt trận
Bình dân bên Pháp chiếm được nhiều thắng lợi trên địa hạt chính trị, thì ở Nam Bộ, kế
bên những loại hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò truyện... lại xuất hiện thêm một
loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những vấn đề chính trị cổ vũ
và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng. Nội dung lớn của hò phần lớn dựa
trên cơ sở của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có thể giữ nguyên, hoặc có khi lại mở
rộng dài hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế việc sáng tác ra những câu hò
được đông đảo quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm
mộ của quần chúng.
f/ Tôn giáo, tín ngưỡng
Những vị thần được thờ phượng phổ biến ở lưu vực sông Hồng, như Đức
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), vv… gần như vắng
mặt trong hệ thống miền Nam. Tuy nhiên, thỉnh thoảng các vị này có thể được nhắc
nhở đến trong các bài văn tế khi lễ hội. Ở miền Nam ta thấy thiếu vắng hẳn những
“Phúc Thần”. Thay vào đó, các vị thần của các văn hoá bản địa Chiêm Thành và Chân
Lạp đã được chấp nhận và đưa vào hệ thống thần linh của miền Nam. Trong số này
đặc biệt nhất là Thánh Mẫu Pô Nagar của người Chiêm Thành đã được “Các vua triều
Nguyển ban sắc phong là: Hoàng huệ, phổ tế, linh cảm, diệu thông, mặc tướng, trang
huy, Dực bảo, trung hưng, Thiên-Y-A-Na Diễn Ngọc Phi thượng đẳng thần”. Vị nữ thần
nầy được người Việt gọi dưới nhiều tên khác nhau như Thiên Y A Na, Diễn Ngọc Phi,
Vân Hương Thánh Mẫu, Chúa Ngọc, Chúa Tiên. Đền thờ của vị Thánh Mẫu nầy tập
trung nhiều nhứt trong tỉnh Khánh Hòa, phần lớn được giữ gìn bởi cả người Chàm lẩn



người Việt. Sự thờ phụng vị Thánh Mẫu này vào tận đơn vị gia đình, với bài vị và bàn
thờ đơn giản trong nhà và gọi là Bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên.
Sắc thái riêng biệt của tín ngưỡng dân gian Miền Nam là thờ Thần Ngũ
Hành (trong đó Thổ Thần - mà người Miền Nam thường gọi là Thổ Địa hay nôm na
hơn nữa là Ông Địa - chiếm địa vị quan trọng nhất), Thần Hổ và Thần Cá Voi. Vùng
Nam Bộ là một vùng trồng lúa nên Thổ Thần được đặc biệt tôn vinh. Tuy nhiên, do tâm
thức mới, người nông dân Miền Nam đã vượt qua cái khuôn khổ cứng ngắc của tập
tục thờ phụng ở Đàng Ngoài, và tiếp cận với Thổ Thần một cách “thân tình” hơn rất
nhiều. Họ mạnh dạn gọi Thổ Thần là Ông Địa, và đưa vào thờ trong nhà (tuy cũng có
làng vẫn còn có Miếu Thổ Địa hoặc riêng rẽ hoặc là một phần của Đình làng). Họ
không còn nghĩ rằng Thổ Thần là một vị Thần chịu trách nhiệm cho cả địa phương
nữa, mà xem như là một gia thần, chỉ lo bảo vệ cho nhà cửa của mình mà thôi. Bàn
thờ Ông Địa thật khiêm tốn, để ngay dưới đất và gần cửa ra vào. Tuy nhiên sự tôn
kính và tin tưởng đối với Ông Địa thì vẫn tuyệt đối. Hàng ngày người ta đều có lễ vật
dâng cúng Ông Địa, khi thì nải chuối, khi thì phong bánh. Hể mất mát tài vật gì trong
nhà thì người dân đều “vái Ông Địa” để Ông Địa chỉ cho tìm ra vật bị mất đó. Ở một vài
nơi người dân còn nhờ Ông Địa trong việc cầu mưa. Thần Hổ cũng là một nhiên thần
được thờ phượng tại rất nhiều địa phương ở Nam Bộ. Khi khai phá vùng đất mênh
mông nhưng hoang vu của vùng Đồng Nai cũng như những đầm lầy vô tận của vùng
cực Nam, người lưu dân Đàng Trong không những phải đương đầu với những khó
khăn với cuộc đất mà còn phải đối phó với nhiều loại thú dữ mà cọp là mối đe dọa
thường xuyên nhứt. Tâm lý sợ cọp (mà cũng quyết tâm đánh thắng nó) đã đưa đến
việc thờ Thần Hổ trong phần lớn đình làng ở Miền Nam. Ngày nay chúng ta vẫn còn có
thể gặp rất nhiều ngôi đình ở Miền Nam có tấm bình phong trước cổng có đấp hình
cọp, mà dân chúng thường gọi là bia Ông Hổ. Ở Nam Bộ, Thần Cá Voi thường được
sắc phong là “Nam Hải đại tướng quân, mà ngư dân rất sung bái ”. Lý do người Miền
Nam thờ phượng Thần Cá Voi là hoàn toàn ngược lại với lý do thờ Thần Hổ. Nông dân
thờ Cọp vì sợ nó, nhưng ngư dân thờ Cá Voi vì tin rằng Cá Voi cứu mạng họ khi lâm
nguy người biển. Hài cốt cá voi được bảo quản rất kỷ lưởng tại các đình. Người Nam

Bộ cũng coi các nhân vật lịch sử có công lao trong việc khai phá vùng đất là những vị
thần. Tiêu biểu là Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Chưởng Cơ Thoại
Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại. Bên cạnh nhóm nhân vật có công lớn trong việc khai
phá Miền Nam là nhóm các vị khai quốc công thần của triều Nguyễn, như Đức Tả
Quân Lê Văn Duyệt , Đức Tiền Quân Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Di Nguy,… Kế tiếp là các
anh hùng chống Pháp như Trương Định, Nguyễn Trung Trực,…


Đền thờ thần Cá Voi
Hiện tượng các ông đạo như: đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo đi Chậm, đạo
Câm, đạo Dừa,... có thể coi như một hình tương riêng biệt của tôn giáo tín ngưỡng
Nam bộ. Các ông đạo có thể giàu nghèo khác nhau, biểu hiện “đạo” không giống nhau
có ông chỉ ngồi, có ông chỉ nằm, có ông toàn nói những câu khó hiểu,... nhưng các ông
đều có sự thống nhất. Đó là từ cuộc sống bình thường của người nông dân, họ chuyển
qua cuộc sống của các ông đạo với những biểu hiện không bình thường nhưng những
người có khả năng đặc biệt mang màu sắc thần bí, như khả năng chữa bệnh, khả năng
tập hợp quần chúng, khả năng huyền linh, dẫn dắt mọi người theo một chủ thuyết nào
đó. Các nhà nghiên cứu đã lý giải rằng : Cái phía sau các ông Đạo đó là sự giải tỏa
những khát vọng, những ẩn ức trước thời cuộc mà họ cho là bế tắc. Hơn một thế kỷ
khai hoang vùng đất Nam bộ, đã gặt hái ít nhiều kết quả, làng xóm, mùa vụ, sự yên
bình, nhưng những người nông dân Nam bộ lại đối diện với sự nghèo đói bất công, sự
phân hóa xã hội. Hơn hết, là ách áp bức thống trị của thực dân Pháp, là sự gia tăng
công cuộc khai thác thuộc địa, mà bắt đầu từ vùng đất Nam bộ. Ông Đạo, là sự kết
hợp giữa những tín ngưỡng dân gian, pha trộn chút ít sắc màu của Phật giáo, và sự
sùng bái các thế lực siêu nhiên đang ngự trị trên vùng đất Nam bộ. Người nông dân
Nam bộ đã tìm kiếm ở ông Đạo một chỗ dựa, một niềm tin mang tính tâm linh, một thế
giới siêu nhiên. Với ông Đạo, người nông dân Nam bộ có sự lựa chọn vừa tầm, phù
hợp nếp sống, nếp nghĩ của mình, không quá cao siêu như các lý thuyết tôn giáo, hoặc
các chính sách tuyên truyền lý tưởng đương thời. Vậy nên ông Đạo được xem là đặc
trưng của phong trào “tôn giáo cứu thế”.

Một số lễ hội của người Việt Kinh ở Nam Bộ:


Lễ Hội Kỳ Yên: còn gọi là lễ hội cúng đình hay hội làng truyền thống. Tùy
hoàn cảnh của từng địaphương mà quyếtđịnh thời gian tổ chức lễ hội, nhưng thông
thường từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba âm lịch. Nghĩa là lễ hội chỉ diễn ra trong
mùaxuân, mùa màng đã thu hoạch xong, thời tiết khô ráo, quang cảnh tươi đẹp, việc đi
lại thuận tiện để toàn thể dân làng đều có thể tham dự. Có một số nơi tổ chức vào
ngày rằm tháng 2 hay tháng 3, nhưng cũng có địa phương tổ chứcthành hai lễ hội : Lễ
Xuân Tế (Hạ điền) và Lễ Thu Tế ( Thượng điền). Lễ hội diễn ra ở nơi tiêu biểu nhất là
đình làng. Qui mô tổ chức to hay nhỏ tùy thuộc vào khả năng kinh tế của mỗi làng,
đông dân hay ít dân, gặp năm trúng mùa hay thất mùa, nhưng thông thường diễn ra
suốt 3 ngày 2 đêm, đáp ứng với nhu cầu vui chơi củadân làng sau một năm làm lụng
vất vả, có thể xem như ngày Tết tập thể của cư dân nông nghiệp mang tính chất cổ
truyền Đông phương. Ngày đầu là lễ Túc Yết và lễ Tiền Vãng, tức là cúng tế các vị
Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai cơ,những người có công với đất nước như Lê Văn
Duyệt, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Trung Trực, Thoại Ngọc Hầu, Châu Văn Tiếp,...
Chủ lễ là vị Chánh Bái có phụ tế và bồi lễ phụ giúp. Toàn bộ nghi lễ đều tiến hành theo
lịnh của người thủ xướng đứng hai bên hương án kế vị chủ tế. Tất cả lễ nhạc, động
tác dâng hương, dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế, vái lạy đều phải đúng theo lời của
người thủ xướng, do đó người thủ xướng là người hay chữ nhất trong làng, vì mới có
thể thuộc lòng các điển lễ, tế tự theo các truyền thống lễ hội từ xưa. Trong buổi
lễ,người thủ xướng được dân làng trọng vọng nhất. Đội học trò lễ (lễ sinh) mặc áo, đội
mũ, mang hia theo kiểu các học sinh Tú tài ngày xưa. Trước đó họ đã được huấn
luyện thuần thục cách đi đứng, biểu diễn, dâng lễ vật theo nhịp phách của dàn nhạc
diễn tấu để cầu nguyện cho mưa thuận gí hòa, mùa màng tốt tươi. Trong lễ Túc Yết
còn có 4 cô đào hát mừng thần trong lúc dâng rượu. Nếu đình làng có vị thần được
vua sắc phong thì còn có lễ « mở sắc thần » được tổ chức vào giữa đêm thứ nhứt để
nhớ công lao khai cơ lập nghiệp của các bậc tiền nhân. Lễ Chính Tế được tiến hành
vào giữa đêm thứ hai. Bài văn tế đọc trong buổi lễ nầy đã được soạn trước với nội

dung ca ngợi Trời Đất và các thần linh. Người được cử đứng ra đọc văn tế để mở
đầu buổi lễ chánh tế phải là một chức sắc trong làng (thường là Hương Văn). Vị nầu
ăn mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề, quỳ trước bàn hương án, hai tay nâng bản văn tế
đưa lên dưới ánh nến soi rõ do hai phụ tế đứng hai bên cầm, rồi chậm rãi đọc với một
giọng kính cẩn trang nghiêm trong nhạc đệm của dàn nhạc lễ. Việc hòa hợp chăt chẽ
từng âm thanh trầm bỗng của nhạc lễ với giọng xướng trang nghiêm của người đọc
văn tế là cái hồn văn hóa dân gian, trong đó chuyên chở cả một đức tin thiêng liêng
của những người dân biết ơn tiền nhân, của các vị thần. Sau hai ngày chính lễ, bước
sang ngày thứ ba là ngày hội. Ngày hội là ngày sôi động tươi vui nhất của ba ngày
LHKD. Trong ngày hội, ai ai cũng đua nhau ăn mặc đẹp, trang điểm lịch sự, đi lại vui
chơi, giao tiếp thân tình sau những ngày sáng đi tối về vì phải tay làm hàm nhai. Đây
cũng là dịp trai đi tìm vợ, gái đến tuổi kén chồng có cơ hội gặp nhau để kết tình trao
duyên. Đêm thứ ba, đêm của ngày hội là đêm mở đầu cho lễ « Xây-Chầu-Đại-Bội »,
tức lễ đánh trống cầu trời ban cho mưa thuận gió hòa (Xây chầu) và hát múa cầu cho


bốn mùa an vui tươi tốt (Đại bội). Thông thường ở phần Đại bội, đoàn hát chọn năm
diễn viên xuất sắc bao gồm nam nữ có giọng ca hay, múa giỏi để trình diễn, sau đó là
một tuồng hát bội do cácbô lão trong làng chọn lựa, thường hát trong 3 đêm, có làng
dồi dào tài chánh thì hát 5, 7 đêm.

Lễ Hội Bà Chúa Xứ: còn gọi là Lễ Vía Bà, tuy không phải là một lễ hội
truyền thống phổ quát như Lễ hội Kỳ Yên, nhưng lại là một lễ hội lớn nhất ở Nam Bộ
mang sắc thái thiêng liêng và ngày càng ăn sâu vào niềm tín ngưỡng không những của
người dân Nam Bộ mà cho cả nước. Lễ hội diễn ra hàng năm từ ngày 23 đến 27 tháng
tư âm lịch, trong đó ngày chính vía là ngày 25. Buổi lễ đầu tiên được cử hành vào lúc 0
giờ đêm 24 rạng 25 được gọi là lễ Mộc Dục (tức lễ Tắm Bà). Trước hết, 2 ngọn nến lớn
ở trước tượng Bà Chúa Xứ được thắp sáng lên, rồi ông Chính Bái trong áo dài khăn
đóng chỉnh tề nghiêm trang bước đến chánh điện cùng các vị bô lão thắp nhang, dâng
rượu, dâng trà và mời « Bà Chúa đi tắm ». Sau đó bức màn vải viền ren có thêu bông

hoa sặc sỡ được kéo ngang qua bàn thờ để che kín tượng Bà. Một nhóm 4 cô gái
đồng trinh đã được tuyển chọn bước vào trong màn, chuẩn bị tắm cho Bà Chúa. Họ lần
lượt tháo mão, cởi áo đai để lộ toàn thân pho tượng vị nữ thần. Nước dùng để tắm cho
Bà là nước thơm ngâm hoa lài, quế và pha thêm nước hoa, đựng trong một cái chaâu
to bằng đồng. Các cô gái đồng trinh lần lượt « tắm Bà » bằng cách nhúng những chiếc
khăn mới vào chậu nước thơm lau đi lau lại trên toàn thân bức tượng cho đến thật
sạch, không còn một hột bụi mới thôi. Khi tắm Bà xong, trước khi mặc áo, chít đai, đội
mũ cho Bà Chúa, họ còn phun một loại nước hoa loại hảo hạng lên khắp mình Bà
Chúa. Mũ, áo đai cũ phải vứt đi và chỉ dùng mũ, áo đai mới thay vào. Thường lễ “Tắm
Bà Chúa” kéo dài chừng một giờ, và trong thời gian nầy, trong chánh điện chỉ có những


phụ nữ, tay cầm hoa huệ trắng, quỳ hướng về Bà Chúa đang tắm, niệm kinh khấn vái.
Sau khi tượng Bà Chúa đặt trở lại vị trí, sắp xếp lại các vật dụng trên bàn thờ, bức rèm
hoa mới được mở ra, khách thập phương mới được vào chánh điện chiêm bái, dâng
hương xin “Lộc Bà” Lễ thứ hai là “Chánh Tế”(còn gọi là lễ Túc Yết) được tổ chức vào
nửa đêm 25 rạng 26, nhưng trước khi vào Chánh Tế phải tổ chức lễ “Thỉnh Sắc” ở lăng
Thoại Ngọc Hầu. Từ chiều 24, một đoàn Thỉnh Sắc gồm các bô lão và Ban Quản Trị
chỉnh tề trong lễ phục đi từ đền Bà Chúa Xứ đến lăng Thoại Ngọc Hầu, dẫn đầu có đội
múa lân, tiếp sau là toán học trò lễ tay cầm cờ phiến đi hầu trước và sau chiềc kiệu
Long Đỉnh sơn son thếp vàng để rước sắcphong Thoại Ngọc Hầu do 4 người khiêng.
Lễ Chính Bái diễn ra theo trình tự từ nghi thức cúng lễ đến xây chầu. Khi vào phần
cúng lễ, lễ vật gồm một con heo trắng (đã mỗ, cạo lông sạch sẽ, để thịt sống), một đĩa
tiết lợn có kèm theo một túm lông lợn, một mâm trái cây, một mâm trầu cau và một đĩa
gạo, muối. Sau khi dâng lễ vật cúng ngài Thoại Ngọc Hầu, ông chính bái kính cẩn niệm
hương, dâng rượu, đọc văn tế ca ngợi công đức của Ngài rồi khẩn cầu thỉnh sắc và bài
vị của Ngài sang chính điện của đền thờ Bà Chúa Xứ. Lễ Thỉnh Sắc phải hoàn tất trước
khi trời tối. Sắc của vua phong cho Thoại Ngọc Hầu làm Thần và bài vị của Ngài được
thỉnh lên kiệu Long Đỉnh và đoàn Thỉnh Sắc quay về đền Bà Chúa Xứ. Tiếp sau đó là
lễ “Xây Chầu” tại nhà Võ ca(nhà ngoài trước khi vào chính điện). Sau khi làm lễ cầu

nguyện Trời Đất thì 3 hồi trống lệnh nổi lên báo hiệu phần hát bội, trình diễn suốt đêm
26. Chiều ngày 27 là kết thúc bằng lễ “Hồi Sắc” tức là đưa sắc và bài vị của Thoại
Ngọc Hầu trở về lăng theo nghi lễ giống như khi Thỉnh Sắc.
Lễ Hội Đền Bà Đen: còn được gọi là lễ hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu,
được xây trên lưng chừng núi cao độ 380m. Đến nay, đền được trùng tu nhiều lần, và
từ chân núi đi lên đã làm một con đường bậc thang cho người đi bộ.LHBĐ được tổ
chức vào đầu mùa xuân , sau Tết nguyên đán, từ ngày 10 đến rằm tháng giêng. Xét vể
hình thức hành lễ , lễ hội Bà Đen đơn giản hơn lễ hội Bà Chúa Xứ, không có lễ Xây
Chầu và hát bội, nhưng có phần trang nghiêm đượm màu sắc cổ truyền, gần gũi với
việc thờ phụng các vị thần linh trong dân gian.

Lễ hội Nghinh Ông: Lễ hội cúng Cá Ông (tức cá Voi) là tín ngưỡng dân
gian có truyền thống lâu đời của ngư dân miền duyên hải, và của những người đi biển
bằng ghe bầu. Tín ngưỡng cá Ông là một niềm tin thiêng liêng tuyệt đối của dân niền
biển. Ngày lễ Nghinh Ông được tổ chức không thống nhất về thời gian giữa các địa


phương có thờ cá Ông, vì lễ hội tùy thuộc vào ngày lụy của cá Ông mà địa phưoơg
phát hiện được. Thí dụ ở Bình Đại (Bến Tre), lễ hội cử hành vào ngày 16 tháng 6 âm
lịch, ở Cần Thạnh và Vàm Láng vào ngày 15 tháng 8, còn ở Thắng Tam thì 16 tháng 8,
nhưng nói chung là những tháng có gió bão lớn, nên cá Ông lụy nhiều. Lễ nghinh ông
được tổ chức lớn nhỏ tùy thuộc tài chính của địa phương, nhưng về nghi thức thì giống
nhau. Lễ Nghinh Ông thường bắt đầu từ rạng sáng. Một đoàn thuyền đã chuẩn bị sẵn
để đến đúng giờ là xuất phát ra khơi. Dẫn đầu là một chiếc thuyền lớn, trọng tải từ 20
đến 30 tấn, kết hoa, treo cờ và có bàn hương án, bài vị của “Nam Hải Đại Tướng Quân”
(gọi tắt là thủy tướng) có dàn nhạc ngũ âm và một số người biết hát múa, ăn mặc chỉnh
tề đi trên đoàn thuyền thường vài mươi chiếc ra khơi để nghinh ông. Dân làng tụ tập
đông đảo trên bờ, đánh trống khua chiêng một cách giòn giã. Đoàn thuyền nghinh ông
ra khơi đến chỗ qui định thì ngừng lại làm lễ Nghinh Ông. Vị chủ tế thường là chức sắc
cao nhất trong làng mặc áo dài đen, chít khăn đóng, chân mang hài ra lệnh gióng ba hồi

trống, rồi làm lễ dâng hương,dâng rượu, đọc văn tế kể công đức của Thủy Tướng và
khẩn cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, biển có nhiều tôm cá… Sau đó,
đoàn thuyền quần đảo nhiều vòng để nghinh ông về chứng giám lòng thành của dân
miền biển, cho đến khi thấy hiện tượng nước biển xao động và “lên vọi”, tức là lúc Ông
đã về thì đoàn thuyền mới quay về bến, và thỉnh bài vị của Ông đem về Lăng. Tiếp
theo sau lễ Nghinh Ông là lễ cúng Tiền Hiền, Hậu Hiền, nghi lễ nầy cũng giống như
các buổi lễ cúng Tiền Hiền, Hậu Hiền của các buổi lễ khác nghĩa là người chủ tế đọc
văn tế, học trò lễ dâng hương, trà, rượu. Điều đặc biệt là trong vật phẩm cúng trong lể
Nghinh Ông không được có hải sản và điều khác biệt với lễ Nghinh Ông ở miền Trung
thì có hát Bả Trạo (cuộc múa hát diễn ra trên một con thuyền tượng trưng bằng khung
tre, lợp vải, không đáy, kể công ơn của Ông và niềm thương nhớ của dân đối với Ông
lụ) còn ở trong Nam thì hát bội.



×