Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TƯ TƯỞNG của c mác về cơ sở hạ TẦNG KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG TRONG TP “góp PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH tế CHÍNH TRỊ” ý NGHĨA CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.15 KB, 21 trang )

TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VỀ QUY LUẬT CƠ SỞ HẠ TẦNG
QUYẾT ĐỊNH KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG TRONG “LỜI TỰA”
TÁC PHẨM “GÓP PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ”.
Ý NGHĨA VẬN DỤNG ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA

T

ác phẩm nổi tiếng của C.Mác “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” được viết từ tháng 8/1858 đến tháng 2/1859 mới hoàn
chỉnh, xuất bản và phát hành tháng 6/1859. Tác phẩm ra đời đánh

dấu mốc quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển học thuyết kinh tế
chính trị Mácxít mà còn thể hiện sự phát triển triết học Mácxít, đặc biệt là học
thuyết về hình thái kinh tế-xã hội, trong đó có quy luật cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng. Tác phẩm này được trình bày trong C.Mác và
Ph.Ăngghen toàn tập, nhà xuất bản CTQG, Hà Nội năm 1995, tập 13.
Trước lúc viết tác phẩm này, C.Mác đã có một quá trình nghiên cứu khoa
học toàn diện trong vòng 15 năm, trong quá trình đó Mác đã nghiên cứu một
khối lượng to lớn các tác phẩm kinh tế-xã hội và soạn thảo những nguyên lý cơ
bản học thuyết kinh tế của mình. Tác phẩm này ra đời thể hiện một quá trình
lao động nghiên cứu khoa học nghiêm túc của Mác.
Nội dung “Lời tựa” tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
C.Mác đã tóm tắt, khái quát quá trình nghiên cứu khoa kinh tế chính trị và tổng
kết thực tiễn từ 1842- 1843, khi làm biên tập tờ “Rheinsche Zeitung” đến tháng
2 năm 1859. C.Mác nói: “Lần đầu tiên tôi phải nêu ý kiến của mình về cái gọi là
lợi ích vật chất và điều đó đã làm cho tôi lúng túng”1. Sau đó là những cuộc thảo
luận, tranh luận về vấn đề ăn trộm gỗ và phân nhỏ tài sản ruộng đất; về tình
cảnh nông dân vùng Mô đen; cuối cùng là những cuộc tranh luận về tự do buôn
bán và thuế quan bảo hộ. C.Mác nói: “Lần đầu tiên thúc đẩy tôi nghiên cứu
những vấn đề kinh tế”2. Sự thúc đẩy đó được bắt đầu từ khi C.Mác viết tác phẩm
11 . 2. C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 13. 14



1

1


thứ nhất là tác phẩm “phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”(1843). C.Mác
viết “Tác phẩm thứ nhất mà tôi đã viết để giải quyết những điều băn khoăn đã
ám ảnh tôi, là một sự phân tích phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” 3.
Kết quả của nó được C.Mác khái quát là “Không thể lấy bản thân những quan
hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát
triển chung của tinh thần con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó,
mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những
điều kiện sinh hoạt vật chất”4. Tiếp tục sự thôi thúc và dựa trên kết quả nghiên
cứu tác phẩm thứ nhất, C.Mác dày công nghiên cứu khoa kinh tế chính trị và
đến năm 1859 cho ra đời tác phẩm trên. Nghiên cứu lời tựa cho thấy từ tác phẩm
thứ nhất “phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen đến “Lời tựa” này có sự
gián đoạn trong nghiên cứu kinh tế chính trị, những tiến trình như một dòng
chảy liên tục quá trình đó xuyên qua các tác phẩm như: “Sự khốn cùng của triết
học” (1847); “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848); “Diễn văn về tự do buôn
bán”.
Lời tựa này của tác phẩm do Mác viết tuy sơ qua một số điều, nhưng nó
thể hiện những tư tưởng triết học cơ bản, quan trọng về học thuyết hình thái
kinh tế xã hội, về quan hệ xã hội và tồn tại xã hội và về nguyên nhân cuộc cách
mạng. Với lời tựa, C.Mác đã thể hiện sự chính muồi về thế giới quan, phương
pháp luận khoa học (CNDVLS) cho mọi sự nghiên cứu tiếp theo, mà trước hết
là nội dung của tác phẩm này, tiếp ngay sau đó là “Bộ tư bản” đồ sộ. Có thể nói
rằng, các tác phẩm về sau tiếp tục phát triển và vận dụng một cách nhuần
nhuyễn thế giới quan, phương pháp luận ở lời tựa vào giải quyết những vấn đề
xã hội.

1. Tư tưởng của C.Mác về quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng trong “lời tựa” tác phẩm “góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”
33.4 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 14

2

2


Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội không những C.Mác coi các
quan hệ (trong hệ tư tưởng Đức ông gọi là “hình thức giao tiếp”) là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, mà còn vạch ra
mối quan hệ có tính chất cơ bản để xác định diện mạo của các hình thái kinh tế
xã hội đó là mối quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Con người và xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển được trước hết
là nhờ sản xuất vật chất. Lịch sử của xã hội, cũng là lịch sử phát triển của sản
xuất vật chất, C.Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của
họ-tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ” 5. Hiểu theo
cách nói của C.Mác mỗi xã hội trong lịch sử, có một kiểu những quan hệ vật
chất cơ bản nhất định ứng với những lực lượng sản xuất nhất định, đó là những
quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất mầm mống. Toàn bộ những quan hệ sản xuất xã hội hiện thực
đó, mà trước hết và chủ yếu là những quan hệ sản xuất thống trị, tức là những
quan hệ sản xuất đặc trưng cho mỗi phương thức sản xuất và tất cả những quan
hệ sản xuất khác tồn tại hiện thực trong mỗi phương thức sản xuất hợp thành
cơ cấu của xã hội. Như vậy, lần đầu tiên khái niệm cơ sở hạ tầng theo nghĩa
triết học trong lời tựa của tác phẩm này đã được C.Mác chỉ ra: “Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội”. Mặc dù ở đây C.Mác

không sử dụng thuật ngữ cơ sở hạ tầng, mà ông sử dụng thuật ngữ “cơ cấu
kinh tế xã hội”, “cái cơ sở hiện thực”. Như vậy cơ sở hạ tầng là toàn bộ những
quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.

55 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 14-15

3

3


Lịch sử nhân loại đã chứng minh: kể từ hình thái kinh tế xã hội chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, thì bên cạnh những quan hệ sản xuất
thống trị thường vẫn còn tàn dư của quan hệ sản xuất cũ và xuất hiện những
quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.
Cho nên cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi kiểu
quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy; nó giữ vai trò chi phối, chủ
đạo và quyết định xu hướng vận động của cơ sở hạ tầng xã hội đó chính là kiểu
quan hệ sản xuất thống trị. Tuy nhiên, trong hệ thống cơ cấu kinh tế đó, thì
những quan hệ sản xuất quá độ (tàn dư của những quan hệ sản xuất cũ, mầm
mống của những quan hệ sản xuất mới và những kiểu quan hệ kinh tế khác)
cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, quan hệ sản xuất, xét trong nội bộ phương thức sản xuất, là hình
thức của lực lượng sản xuất; mặt khác, xét trong tổng thể các quan hệ xã hội
thì các quan hệ sản xuất “hợp thành “cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực, trên đó người ta dựng lên kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở
thực tại đó. Do đó toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thiết chế xã hội tương ứng của
chúng như: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội là cái được hình

thành, được xây dựng trên nền tảng của cơ sở hạ tầng nhất định, hợp thành
kiến trúc thượng tầng xã hội. Cũng chính trong “lời tựa” của tác phẩm “góp
phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác đã chỉ ra cấu trúc của kiến trúc
thượng tầng xã hội gồm: “kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị”, “và
những hình thái ý thức xã hội” nhất định. Cấu trúc đó phải phù hợp với kiểu
quan hệ sản xuất nhất định, chứ không phải chung chung trừu tượng. Khi
nghiên cứu vấn đề này chúng ta thấy ràng C.Mác đã trừu tượng hóa, đã phân
quan hệ xã hội ra làm hai loại: loại quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất, loại
quan hệ chính trị, tinh thần tư tưởng. Quan hệ chính trị tinh thần tư tưởng được
4

4


hình thành trên các quan hệ kinh tế. Chính từ trên nền tảng của quá trình sản
xuất vật chất phát triển đến một trình độ nhất định “từ đó người ta phát triển
các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật”.
Trong “lời tựa”; C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa cơ ở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, trong mối quan hệ đó thì vai trò của chúng
không ngang bằng nhau, cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc
thượng tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định sự ra đời, cơ cấu tính chất, sự vận động
biến đổi của kiến trúc thượng tầng.
C.Mác viết “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng
với cơ sở hiện thực đó”6. Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của cơ sở hạ
tầng có nguồn gốc từ cơ sở hạ tầng. Lịch sử xã hội đã chứng minh điều đó:
trong xã hội cộng sản nguyên thủy do cơ sở hạ tầng không có đối kháng về lợi
ích kinh tế nên kiến trúc thượng tầng của xã hội đó chưa có nhà nước, pháp
luật; trong các chế độ xã hội mà cơ sở hạ tầng có sự đối kháng về lợi ích kinh

tế của các giai cấp, tất yếu kiến trúc thượng tầng phải có nhà nước, pháp luật…
bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Tính chất, cơ cấu của kiến trúc thượng tầng của xã hội không phải là sản
phẩm ý muốn chủ quan của con người, mà chính là do cơ sở hạ tầng quy định.
Quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế là những quan hệ xã hội cơ bản quyết định
mọi quan hệ về chính trị, pháp quyền và tư tưởng. Giai cấp nào chiếm địa vị
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của
xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn
trong lĩnh vực tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư
tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế. Vì vậy, trong
66 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 15

5

5


một xã hội khi cơ sở hạ tầng có mâu thuẫn đối kháng thì cuộc đấu tranh trên
kiến trúc thượng tầng là tất yếu khách quanvà diễn ra hết sức phức tạp gay gắt,
nó được xuất phát từ chính đời sống xã hội. C.Mác đã khẳng đinh: “Không thể
lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước,
hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải
thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy ràng những quan hệ
và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất” 7. Ông còn chỉ
rõ “Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người
đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như
thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực
lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội” 8. Cơ sở hạ tầng như
thế nào thì cơ cấu, bề mặt của kiến trúc thượng tầng của nó như thế ấy. Bộ mặt

kiến trúc thượng tầng trong đời sống xã hội luôn được biểu hiện ra một cách
phong phú, phức tạp, ngay cả những hiện tượng lạ lùng nhất của kiến trúc
thượng tầng cũng đều có nguyên nhân sâu xa nằm ở các cơ cấu kinh tế xã hội.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn
được C.Mác chỉ ra: khi “Cơ sở kinh tế thay đổi, thì toàn bộ cái kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” 9. Do vậy, nếu cơ sở
hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng
sẽ diễn ra. Quá trình đó thực hiện không chỉ trong giai đoạn có tính chất cách
mạng-xã hội này sang xã hội khác, mà còn được thực hiện ngay trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế xã hội. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi
của kiến trúc thượng tầng là cả một quá trình diễn ra hết sức phức tạp. Nguyên
nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi
77.8 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 14
99 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 15

6

6


cơ sở hạ tầng, còn chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, đến lượt nó mới làm
cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản. Sự biến đổi trong kiến
trúc thượng tầng phản ánh sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Lịch sử
nhân loại đã chứng minh rằng trong xã hội có giai cấp đối kháng sự thay đổi
kiến trúc thượng tầng không phải là một hành động tự phát, mà phải thông qua
cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, phức tạp, đỉnh cao là cách mạng xã hội. Bởi vì,
giai cấp thống trị tìm mọi cách để củng cố bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó, còn
giai cấp cách mạng ra sức đấu tranh phá bỏ kiến trúc thượng tầng lỗi thời phản
động để khẳng định và phát triển cơ sở hạ tầng mới.

Như vậy, sự biến đổi kiến trúc thượng tầng xuất phát từ nguyên nhân vật
chất, sự đảo lộn của các thể chế chính trị, sự ra đời của các nhà nước khác
nhau là từ quan hệ vật chất, quan hệ kinh tế. Chứ không có nhà nước chung
chung cho mọi giai cấp, mọi chế độ xã hội khác nhau.
Xác định cơ sở hạ tầng có vai trò to lớn quyết định đối với sự ra đời của
kiến trúc thượng tầng như thế, song C.Mác không tuyệt đối hóa nó. Bởi vì, khi
xây dựng nên lý luận hình thái kinh tế-xã hội của mình, ông đều chỉ rõ vị trí
vai trò của từng yếu tố trong sự thống nhất biện chứng chứ không tuyệt đối hóa
hay tách rời giữa các yếu tố đó. Do vậy, khi nghiên cứu “lời tựa” của tác phẩm
“góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” chúng ta cũng tuân theo nguyên tắc
phương pháp luận đó. Mặc dù trong “lời tựa” của tác phẩm này C.Mác không
đưa ra thuật ngữ “tính độc lập trương đối của kiến trúc thượng tầng”, song tư
tưởng trong “lời tựa” vẫn toát lên vấn đề đó. C.Mác viết: “Trong những điều
kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thức pháp lý, chính trị, tôn giáo,
nghệ thuật hay triết học, tóm lại với những hình thái tư tưởng trong đó con
người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết cuộc xung đột
ấy”10. Điều đó cho thấy C.Mác gián tiếp chỉ ra vai trò của kiến trúc thượng
1010 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 15

7

7


tầng tác động đến cơ sở hạ tầng phải thông qua con người, thông qua tổ chức
thiết chế xã hội, với hoạt động tự giác, nhận thức đúng và các tổ chức thiết chế
đó phải hoạt động theo đúng quy luật khách quan, chứ không thể áp đặt chủ
quan tùy tiện, phải xuất phát từ tiền đề, điều kiện vật chất của xã hội. Mặt khác
trong thực tiễn đời sống xã hội, không phải chỉ nhà nước, pháp luật mới có sự
tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến trúc thượng

tầng đều có khả năng gây ra những biến động không nhỏ tới cơ sở hạ tầng.
Những bộ phận đó tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tất nhiên, trong mỗi chế độ xã hội, sự vận động của các bộ phận của kiến trúc
thượng tầng không phải bao giờ cũng đi theo cùng một xu hướng, đôi khi,
trong kiến trúc thượng tầng cũng nảy sinh tình trạng không đồng bộ giữa các
bộ phận của nó. Lịch sử các xã hội có giai cấp đã chứng minh ràng xã hội cơ
bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở
hạ tầng hiện tồn, chống lại nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại sự tồn tại của
chế độ kinh tế xã hội đang tồn tại. Trong việc thực hiện chức năng đó, nhà
nước có vai trò đặc biệt quan trọng; nó chi phối và trong nhiều trường hợp
quyết định khả năng tác động của các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng
đến toàn bộ đời sống xã hội nói chung và đến hạ tầng cơ sở nói riêng.
Khi nghiên cứu “lời tựa” của tác phẩm “góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” chúng ta phải hết sức lưu ý C.Mác không trực tiếp viết về vai trò của
lĩnh vực tư tưởng đối với lịch sử là có lý do của nó. Bởi vì, ông đã nói trong lời
tựa đó là “công việc nghiên cứu kinh tế của tôi” 11. Ông tìm hiểu “cơ sở hiện
thực của xã hội” cái mà quyết định mọi quan hệ xã hội khác nhau. Tuy vậy,
nếu cho ràng C.Mác quá tuyệt đối hóa nhân tố kinh tế thì đó là quan điểm duy
vật tầm thường về điều này như Ph.Ăngghen đã viết: “Có cái quan điểm lạ
lùng của các nhà tư tưởng cho rằng: vì chúng tôi không thừa nhận là các lĩnh
1111 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 17

8

8


vực tư tưởng khác nhau đóng một vai trò trong lịch sử, đều có một sự phát
triển độc lập, nên chúng tôi phủ nhận luôn cả tác động của chúng đối với lịch
sử. Nói như thế là xuất phát từ quan điểm tầm thường, không biện chứng về

nguyên nhân kết quả… những người đó thường hầu như có ý quên ràng một
nhân tố lịch sử một khi được những nhân tố khác, xét tới cùng là nguyên nhân
kinh tế, làm nảy sinh ra nhân tố lịch sử đó cũng có thể tác động trở lại đến môi
trường của nó, và thậm chí đến những nguyên nhân đã tạo ra nó” 12.
Ph.Ăngghen cũng đã chỉ rõ lý do các ông cần phải nhấn mạnh quan điểm duy
vật biện chứng về mối quan hệ giữa kinh tế với lĩnh vực chính trị tư tưởng, ông
viết: “Mác và tôi phần nào có lỗi trong việc là giới trẻ đôi khi coi trọng mặt
kinh tế nhiều hơn mức cần thiết. Trong khi phản bác những người chống chúng
tôi, chúng tôi đã phải nhấn mạnh nguyên lý chủ yếu mà họ bác bỏ, và không
phải lúc nào cũng tìm được thời gian, địa điểm và khả năng đánh giá đúng
những nhân tố còn lại tham gia vào sự tác động qua lại”13.
Như vậy, nghiên cứu tư tưởng của C.Mác về quy luật cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng trong “lời tựa” tác phẩm “góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị” có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng. Có có giá trị lịch sử và ý
trong thực tiễn cho giai cấp vô sản các nước đi lên chủ nghĩa xã hội xem xét
vận dụng vào thực tiễn của nước mình một cách sáng tạo, đồng thời bảo vệ và
phát triển lý luận hình thái kinh tế trong triết học Mác nói riêng trong lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin nó chung.
2.Ý nghĩa vận dụng đối với công cuộc đổi mới ở Nước ta
Lời tựa tác phẩm ra đời đã thể hiện kế thừa, phát triển tư tưởng nhân loại
đến đỉnh cao và tạo ra bwocs ngặt cách mạng trong quan niệm về xã hội. đây
là thế giới quan, phương pháp khoa học có giá trị định hướng cơ bản cho
1212 C.Mác và Ph.Ăngghen, tuyển tập, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1984, tập VI, tr778
1313 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 37, Tr 641

9

9



C.Mác nghiên cứu lịch sử, C.Mác đánh giá: “Kết quả chung mà tôi đã đạt và
trở thành kim chỉ nam cho mọi nghiên cứu sau này của tôi”14
Biện chứng “lời tựa” tác phẩm trên có ý nghĩa to lớn cho các Đảng cộng
sản vận dụng vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam đã
vận dụng tốt tư tưởng cơ bản của lời tựa về vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
“Lời tựa” của tác phẩm này là thế giới quan, phương pháp luận cho
C.Mác nghiên cứu các công trình khoa học về sau này của ông; nó đặt nền
tảng cho C.Mác nghiên cứu và cho ra đời bộ “tư bản”. Lời tựa thể hiện hoàn
thiện nội dung nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó là cơ sở vũ khi sắc
bén để giai cấp vô sản đấu tranh phê phán các quan điểm duy tâm, siêu hình
chống lại chủ nghĩa Mác lúc bấy giờ, đặc biệt là các quan điểm của các học
giả tư sản phản động.
Cho đến nay tư tưởng của “lời tựa” vẫn còn nguyên giá trị, nó là cơ sở
phương pháp luận cho mọi nghiên cứu của xã hội hiện tại. Đó là một mẫu hình
nghiên cứu xã hội mà chúng ta tiếp tục vận dụng để nghiên cứu xã hội tư bản
hiện đại. Lời tựa là cơ sở để tiếp cận xác định mô hình nôi dung, con đường,
biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt nghiên cứu mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng có ý nghĩa to lớn trong
nhận thực và chỉ đạo hành động thực tiễn để giải quyết mối quan hệ kinh tế và
chính trị trong công cuộc đổi mới đất nước ta theo định hướng xã hội chủ
nghĩa .
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì kinh tế giữ vai trò
quyết định đối với chính trị, là nguồn gốc, thước đo hợp lý của chính trị. Cơ sở
kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng như thế ấy. Sự biến
đổi, phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến đổi xã hội và đảo
1414 C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 1995, tập 13, Tr 15

10


10


lộn về chính trị. Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ; ngược lại, kinh tế
khủng hoảng là dấu hiệu cho thấy sự bất cập của chính trị và nó đòi hỏi phải có
sự điều chỉnh về chính trị. Ở mức độ nào đó, sự phát triển kinh tế thể hiện sự
phát triển, tính ưu việt và sự phù hợp của chính trị đối với kinh tế. Do vậy, nếu
không giải quyết đúng đắn các quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế, không thúc đẩy
kinh tế phát triển thì sự vận động của chính trị sẽ khó khăn, thậm chí thất bại
bế tắc. Như vậy, chính trị được coi là tiến bộ, hợp lý khi nó hướng vào sự phát
triển kinh tế phục vụ kinh tế. Theo V.I. Lênin chính trị “là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế”15, song chính trị có tính độc lập tương đối, tác động trở lại
đối với kinh tế. Xét về tổng thể, sự vận động của kinh tế bị chi phối bởi chính
các quy luật kinh tế. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động trở lại của chính trị,
của quyền lực nhà nước, V.I. Lênin nhấn mạnh: “chính trị không thể không giữ
địa vị hành đầu so với kinh tế”16. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có
thể theo những hướng khác nhau: thúc đẩy hay kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy
mặt này, vừa kìm hãm mặt kia, có thể còn làm thay đổi cơ sở kinh tế ở chừng
mực nhất định. Điều đó cho thấy, để phát triển kinh tế cần phải quan tâm đến
chính trị , đặc biệt là định hướng chính trị của đảng cầm quyền và bộ máy nhà
nước. Trên thực tế, không có đường lối chính trị đúng thì không một giai cấp
thống trị nào có thể giữ vững được sự thống nhất chính trị và do đó cũng
không có khả năng lãnh đạo kinh tế. Chính trị đóng vai trò lãnh đạo, định
hướng và tạo môi trường hành lang làm cho xã hội ổn định, đáp ứng những
điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Thực chất sự tác động của chính
trị đối với kinh tế là tạo môi trường xã hội ổn định, giải phóng sức sản xuất,
tạo động lực để phát triển kinh tế quốc dân. Muốn phát triển xã hội, đòi hỏi
phải ưu tiên ổn định, hoàn thiện, từng bước đổi mới chính trị, dân chủ hóa
chính trị. Làm được điều đó, quay trở lại chính trị tạo điều kiện cho kinh tế
phát triển. Quan hệ chính trị với kinh tế là quan hệ cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt

1515.16. V.I. Lênin : Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mácxcơva, 1981, t.42, tr 349

11

11


quan trọng, chi phối các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, đòi hỏi trong xử lý những
vấn đề cụ thể phải chủ động, sáng tạo, tránh tuyệt đối hóa hoặc đồng nhất
chính trị với kinh tế.
Tuyệt đối hóa kinh tế dẫn đến tình trạng phát triển kinh tế tự phát, vô
chính phủ, tập trung tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, hy sinh các mặt khác.
Ngược lại tuyệt đối hóa chính trị trong phát triển kinh tế sẽ làm cho nền kinh tế
bị can thiệp, áp đặt một cách duy ý chí, không theo quy luật khách quan. Đồng
nhất chính trị với kinh tế sẽ làm cho chính trị trở nên cứng nhắc giáo điều. Mắc
phải một trong những khuynh hướng trên đều ảnh hưởng đến tiêu cực, kìm
hãm sự phát triển kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung.
Chính vì vậy, việc nhận thức và xử lý mối quan hệ đó trong thực tiễn
đúng hay sai có ý nghĩa quyết định đối với sự hưng thịnh hay diệt vong của
nền kinh tế về chế độ chính trị-xã hội. Thực tế sự sụp đỗ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông âu đều có nhiều nguyên nhân, có nguyên
nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp, có nguyên nhân chủ quan và nguyên
nhân khách quan của nó, nhưng xét về thực chất và sâu xa thì việc giải quyết
mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế chưa được tốt trong quá trình xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề này ở Nước ta
có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn rất lớn đối với sự phát triển của một đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi chúng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm
sau 2 cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc, đi lên từ một nước nông
nghiệp nghèo nàn lạc hậu, trình độ văn hóa kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ
thuật thì chưa đáp ứng cho một xã hội mới. Một trong những nguyên nhân và

bài học kinh nghiệm đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, toàn diện của
đất nước qua hơn 20 năm đổi mới chính là do Đảng ta đã nhận thức và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế, giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Chính là
12

12


vận dụng tốt lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề giải quyết biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
Xét về tổng thể, công cuộc đổi mới ở nước ta bắt đầu từ đổi mới tư duy
chính trị của Đảng trong nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó tìm kiếm, xác định mô hình phát triển
đất nước phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta và xu hướng phát triển của
thời đại mới. Nếu không thực hiện sự đổi mới này thì không thể vượt qua
được những hạn chế trong nhận thức và quan niệm cũ về chủ nghĩa xã hội,
về thời kỳ quá độ, không thể chủ động, sáng tạo, mạnh dạn thực hiện đổi
mới khác, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Nhờ đổi mới tư duy lý luận,
chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
quan chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trí của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, những tiếp thu
kinh nghiệm, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại; xác lập nước ta tất yếu phải
trải qua một thời kỳ quá độ gián tiếp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ. Chúng ta đã nhận thức
được ràng, chủ nghĩa xã hội không loại trừ, không đối lập với kinh tế thị
trường, trái lại cần phát triển kinh tế thị trường, tận dụng những ưu thế của
nó để phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện

lời dạy của V.I. Lênin, trong một nước tiểu nông, chung ta phải bắc những
chiếc cầu nhỏ, vững chắc đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến dần
tới chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều lĩnh vực “cần phải lùi về chủ nghĩa tư bản
nhà nước, từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu cuộc bao vây lâu
dài”17. Có thể nói, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt là Hội nghi Trung
1717 V.I. Lênin : Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mácxcơva, 1973, t.44, tr 255

13

13


ương 6 (khóa VI) Đảng ta đã có bước phát triển quan trọng trong nhận thức
lý luận, coi chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng tiếp tục khẳng định sự cần
thiết phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đến Đại hội IX, Đảng chủ trương đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đó là đường lối chiến lược, là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đường lối chính trị đó đã được thực tiễn sau 20 năm đổi mới
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, Đảng ta xác định rằng cần phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng điểm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị. Đây là một chủ trương đúng đắn, bảo đảm
không gây nên những đảo lộn làm mất cân bằng trong đời sống xã hội; đồng
thời giữ vững được sự ổn định chính trị, đó là một tiên đề kiên quyết cho sự
phát triển đời sống kinh tế-xã hội. Trong khi khẳng định sự cần thiết phải phát
triển kinh tế thị trường, Đảng ta cũng thấy mặt trái và những ảnh hưởng xấu,

gây mâu thuẫn của nó đối với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng chủ trương phải
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước; thực hiện tăng trưởng kinh
tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, giữ vững và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Do chính trị “đụng chạm” đến các mối quan hệ
đặc biệt phức tạp và nhảy cảm trong xã hội, nên Đảng đã chủ động chỉ đạo
“Việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và
chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự

14

14


rối loạn”18. Nếu vội vàng đẩy nhanh đổi mới chính trị khi chưa chuẩn bị đầy đủ
các tiền đề cần thiết sẽ dẫn đến sai lầm và phải trả giá rất đắt, thậm chí không
cứu vãn được. Ngược lại, nếu chậm trễ trong đổi mới chính trị và hệ thống
chính trị, nhất là trong tổ chức bộ máy công quyền, trong giải quyết mối quan
hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác thì sẽ không tạo
được môi trường thuật lợi thì không thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn lấy sự ổn định
chính trị-xã hội làm tiền đề, điều kiện tiên quyết, nhờ có sự ổn định đó mà tạo
hành lang cho nền kinh tế phát triển, đến lượt nó thành công của quá trình đổi
mới kinh tế là nền tảng vững chắc để đảm bảo ổn định chính trị, đổi mới hệ
thống chính trị có hiệu quả. Trên thực tế qúa trình đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị ở nước ta đã diễn ra với những bước đi, hình thức
thận trọng và vững chắc.
Mục tiêu căn bản của đổi mới chính trị và hệ thống chính trị cũng là mục
tiêu và động lực của công cuộc đổi mới ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Dân chủ phải đi

đôi với tập trung, với kỷ cương, pháp luật, với ý thức của công dân, chống tư
tưởng dân chủ cực đoan và những mưu toan lợi dụng “dân chủ” nhân quyền để
thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập hòng chống phá chế độ, lái
cách mạng nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Về mặt kinh tế-xã hội, thực hiện chủ trương “đổi mới kinh tế làm trọng
tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và
đời sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy nguồn nhân lực
trong và ngoài nước, thúc đẩy kinh tế phát triển, đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng nghèo khó và khủng hoảng kinh tế xã hội vốn đã tồn tại kéo dài nhiều
1818.Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1991,
tr54

15

15


năm, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục
phát triển, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức
kinh tế quốc tế. Tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài,
nâng vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, khuyến kích phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, với đa dạng các hình thức sở hữu, các hình thức
phân phối, trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
cũng như mô hình quản lý cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
xác lập và từng bước vận hành thông suốt. Trong Văn kiện Đại hội Đảng X
tiếp tục khẳng định “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân”19
Trên lĩnh vực chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và

phương thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các tổ chức đoàn thể khác thuộc hệ thống chính trị theo hướng dân
chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính mệnh
lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời chính trị với kinh tế. Đánh giá tích cực của
việc đổi mới kinh tế đối với chính trị, nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII nhận định: “Những kết quả đổi mới hệ thống chính trị, đổ mới tư duy,
chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tuy mới là
bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế-xã
hội, giữ vững quốc phòng an ninh”20
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng X đã có bước phát triển mới
trong nhận thức và vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Văn kiện đã chỉ rõ: “Đổi mới tất cả các mặt của
đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích
1919 .Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H, 2006, tr77
2020.Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCH trung ương khóa VIII, Nxb. CTQG. H 1997,Tr38.

16

16


hợp; đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh
tế là trung tâm, xây dựng Đảng là theo chốt và phát triển văn hóa nền tảng tinh
thần của xã hội”21. Như vậy, phát triển mới của Đại hội X về vấn đề này là ở
chỗ, khẳng định trong đổi mới phải đảm bảo gắn kết chặt chẽ và đồng bộ 3
nhiệm vụ thể hiện sự thống nhất phù hợp giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng tác động, thúc đẩy nhau. Trong quá trình thực hiện không phải là
dàn trải mà phải có trọng tâm, trọng điểm và bước đi thích hợp; coi trong sự
gắn kết giữa các yếu tố của kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, phát huy
vai trò của từng yếu tố đó trong sự đổi mới nhằm phát triển kinh tế-xã hội.

Quá trình đổi mới của chúng ta hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng. Tuy nhiên, nền kinh tế của đất nước phát triển chưa vững chắc,
hệ thống chính trị còn nhiều bất cập, đổi mới chính trị và hệ thống chính trị
chưa theo kịp đòi hỏi phát triển của xã hội và đổi mới kinh tế. Để khắc phục
hạn chế trên, phát huy vai trò lãnh đạo hướng dẫn của chính trị đối với kinh tế,
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho việc xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta, đưa
công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển thắng lợi, cần làm tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
thị trường. Chúng ta thực hiện nhất quán và lâu dài chủ trương phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy vấn đề đặt ra là phải tiếp
tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc. Đồng thời tạo
điều kiện thuật lợi các thành phần kinh tế khác yên tâm, đầu tư phát triển. Bên
cạnh đó xác lập, cũng cố, nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong
nền sản xuất xã hội. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại cần đảm bảo giữ vững
độc lập chủ quyền, tăng cường lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, thự hiện tốt
2121.Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H, 2006, tr70-71

17

17


“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền
tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao
vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”22.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà

nước gắn với đổi mới hệ thống chính trị.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai
trò quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, cần phân định rõ chức năng quản lý nhà
nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Trong kinh tế thị trường, sự
quản lý tác động của nhà nước vào hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua chiến
lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch mang tính hướng dẫn, thông qua hệ thống
đòn bẩy như: đảm bảo về mặt pháp luật, cơ chế chính sách tài chính, tiền tệ,
chính sách dầu tư, chính sách thu nhập, bằng các công cụ quản lý vĩ mô và sức
mạnh kinh tế nhà nước. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang môi
trường chính trị thuận lợi thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phát triển. Cần triệt để xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính tập trung
quan liêu, cơ chế bao cấp, xin cho, xóa bỏ tình trạng độc quyền, đặc quyền đặc
lợi, tình trạng nhà nước can thiệp vào những công việc sự vụ, làm thay doanh
nghiệp và công dân. Đặc biệt việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh
giảm bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ trình độ,
năng lực “vừa hồng vừa chuyên”, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội. Phát
huy các nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó phát huy nội lực là chủ yếu.
Thứ ba, đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với kinh tế. Văn kiện
Đại hội khóa VIII của Đảng chỉ rõ: “Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của
2222 .Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H, 2006, tr186

18

18


công cuộc đổi mới gắn liền với tránh nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng
ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là nhân tố quyết định những thành tựu
của công cuộc đổi mới”23.

Để đáp ứng được vai trò lãnh đạo đất nước nói chung và lãnh đạo kinh tế
nói riêng của Đảng trong tình hình mới cần tập trung đổi mới và chỉnh đốn
đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ theo chốt. Do vậy cần quan tâm và thực
hiện tốt một số yêu cầu.
Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, đưa các quan điểm, đường lối chính
sách, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, nhất là quan điểm chính sách phát
triển kinh tế-xã hội. Mỗi đảng viên, tổ chức đảng phải gương mẫu trong chấp
hành thực hiện đường lối chủ trương chính sánh đó, kịp thời phát hiện những
sai lệch, để có biện pháp sửa chữa, điều chỉnh bổ sung.
Đẩy mạnh việc đổi mới công tác cán bộ, quan tâm đào tạo bồi dưỡng,
sử dụng và quản lý cán bộ, quản lý đảng viên trong bộ máy nhà nước,
trong các tổ chức kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Kịp thời phát
hiện tài năng quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh giỏi, đồng thời ngăn
chặn có hiệu quả những thất thoát trong quản lý kinh tế, có nhiều hợp đồng
ma để rút tiền của nhà nước vào túi cá nhân, dẫn đến tham nhũng làm thoái
hóa, biến chất đội ngũ cán bộ công chức của nhà nước, làm mất lòng tin
của quần chúng nhân dân đối với Đảng, làm cho hệ thống chính trị suy yếu
trong cơ chế thị trường.
Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn để rút ra bài học kinh
nghiệm thiết thực, nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, đặc
biệt là vấn đề đổi mới chính trị và kinh tế, đồng thời nhận thức và giải quyết
trong sự thống nhất biện chứng xây dựng kinh tế và chính trị như hai chân đi
2323 .Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.CTQG, H, 1996, tr135

19

19


trên con đường đổi mới không được đề cao hoặc xem nhẹ một mặt nào đó

dẫn đến sai lầm.
Kết luận
Trong “lời tựa” tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
C.Mác đã trình bày một cách vắn tắt và đầy đủ những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các quan điểm đó đã giáng một đòn chí tử vào chủ
nghĩa duy tâm dưới mọi biểu hiện của nó, kể cả nấp dưới vỏ thần bí, hòng
phủ nhận vai trò triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Đồng thời
bác bỏ phương pháp siêu hình của các nhà xã hội học tư sản khi xây dựng quan
niệm về xã hội. Ở đây chủ nghĩa duy vật đã đáp ứng một cách triệt để vào đời
sống xã hội mà thực tiễn lúc bấy giờ đòi hỏi, đến bây giờ nó vẫn còn nguyên
giá trị. Đó là sự khái quát triết học thiên tài mà chỉ có đứng trên quan điểm của
giai cấp vô sản có cách nhìn biện chứng mới thực hiện được, nó thể hiện sự
chín muồi của chủ nghĩa duy vật lịch sử. C.Mác đã làm nổi bật riêng lĩnh vực
kinh tế bằng cách xem xét tất cả các quan hệ xã hội, đi từ quan hệ sản xuất
giữa người với người, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định
tất cả các quan hệ khác. C.Mác đã trình bày hai quy luật; cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, trong đó có quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng. Nghiên cứu quy luật này có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết mối quan
hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã
nhận thức và vận dụng quy luật này một cách tài tình để đổi mới đất nước một
cách toàn diện trong đó lấy đổi mới kinh tế và chính trị làm trọng tâm. Để thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường,
tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hóa xã hội, xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đồng thời phát huy

20

20



vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chúng ta nắm vững thế giới quan, phương pháp luận biện chứng khoa
học và cách mạng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung triết
học duy vật lịch sử nói riêng, đặc biệt vận dụng quy luật cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng là điều kiện cơ bản để chống lại các thế lực thù địch
về chính trị, tư tưởng, chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đưa công
cuộc đổi mới đi đến thắng lợi. Đến lượt nó, chính thắng lợi của thực tiễn đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta và nhân dân ta sẽ là một
đóng góp có giá trị vào việc bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong đó có triết học Mác-Lênin mãi mãi trường tồn./.

21

21



×