Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO quá trình hình thành và phát triển phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam với quân đội nhân dân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.35 KB, 130 trang )

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHƯƠNG
THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội, là
nhân tố hàng đầu quyết định bản chất cách mạng và sức mạnh chiến đấu của
quân đội ta.
Để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng với quân đội Đảng phải có phương
thức lãnh đạo phù hợp với đặc điểm, tính chất, chức năng của quân đội. Một
trong những bộ phận hợp thành quan trọng trong phương thức lãnh đạo của
Đảng là cơ chế lãnh đạo của Đảng với quân đội.
Trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang triển khai thực hiện nghị
quyết số 51/ NQ – TW về “ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng,
thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính
trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” thì việc nghiên cứu làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn của sự hình thành, phát triển phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội có ý nghĩa to lớn góp phần cung cấp những luận cứ
khoa học để làm rõ khái niệm, quá trình hình thành, phát triển cơ chế lãnh
đạo của Đảng với quân đội. Trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng những
bài giảng về Đảng lãnh đạo quân đội và công tác đảng, công tác chính trị
trong quân đội nhân dân Việt Nam.
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM
1.1.
Việt Nam

Phương

thức


lãnh

đạo

của

Đảng

đối

với

Quân

đội

nhân

dân


Để có một quan niệm khoa học về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cần nắm vững
những quan điểm định hướng sau:
Thứ nhất, Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, vì vậy phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là sự cụ thể
hoá nội dung, hình thức, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vào một lĩnh vực
hoạt động đặc biệt của xã hội - lĩnh vực quân sự; vào một đối tượng đặc biệt đó là những tổ chức và những
con người hoạt động trong các lực lượng vũ trang.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Căn cứ vào lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về phương thức

lãnh đạo của Đảng, đồng thời xuất phát từ cách tiếp cận trên, có thể đưa ra định nghĩa: Phương thức lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là tổng thể cách tổ chức, tiến hành,
thực hiện hoạt động lãnh đạo mà Đảng sử dụng để đưa nội dung lãnh đạo vào quân đội, nhằm thực hiện
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội; bảm đảm quân đội tuyệt đối trung thành
với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, vững mạnh toàn diện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm tổng thể các yếu tố cấu thành như: các nguyên tắc, các
hình thức, phương pháp, biện pháp và cơ chế lãnh đạo mà Đảng vận dụng dể thực thi sự lãnh đạo đối với
quân đội. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là sự thống nhất giữa cái chung (phương thức
Đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị) và cái đặc thù (lãnh đạo tổ chức quân sự, hoạt động đấu
tranh vũ trang). Từ đó, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản vê phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đảng trực tiếp tiến hành xác định đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước trong các hoạt động nhằm thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng về xây dựng quân đội thành hệ thống luật pháp...để thống nhất tổ chức thực hiện.
- Đảng xác định cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam
- Đảng trực tiếp lãnh đạo xây dựng các tổ chức trong quân đội .
- Đảng xác lập chế độ công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đảng trực tiếp xác định các quan điểm, nguyên tắc và trực tiếp xây dựng giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ của Đảng trong Quân đội.
- Đảng trực trực tiếp kiểm tra, kiểm soát, điều hành mọi hoạt động của quân đội.
- Đảng lãnh đạo tiến hành công tác tư tưởng trong quân đội .
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức, thông qua hệ thống các tổ chức trong quân đội.
- Đảng lãnh đạo thông qua công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội
- Đảng lãnh đạo thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quân đội phù hợp với đặc thù
của hoạt động quân sự.
- Đảng lãnh đạo bằng đề cao tính Đảng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
công tác trong quân đội.



Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là bộ phận hợp thành hoạt động lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội, có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội.
Gắn liền với sự phát triển, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội từng bước hình thành, phát triển phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng.
Trong mối quan hệ với nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là
hình thức lãnh đạo (theo nghĩa rộng) do nội dung lãnh đạo quyết định. Mặt khác phương thức lãnh đạo còn
thường xuyên vận động, phát triển phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của các điều kiện khách quan và
chủ quan. Bởi vậy, vấn đề tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng với quân đội là tất yếu khách
quan.
Tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là quá
trình bổ sung, phát triển tổng thể các yếu tố về nguyên tắc lãnh đạo, hình thức, phương pháp, biện pháp
lãnh đạo, cơ chế lãnh đạo phù hợp tối ưu với sự vận động, phát triển của nội dung lãnh đạo trong thời kỳ
mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội.
Vấn đề tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cần được nhận
thức trên cả hai phương diện:
- Phương diện thứ nhất là hoàn thiện nhận thức lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội, có được một quan niệm khoa học làm cơ sở cho hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội trong thời kỳ mới của cách mạng.
- Phương diện thứ hai là hoàn thiện cách tổ chức, thực thi, áp dụng sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội. Thực hiện tốt các nguyên tắc lãnh đạo, các hình thức, phương pháp lãnh đạo, thực hiện tốt cơ chế
lãnh đạo, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trên thực tế. Cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn nói trên thống nhất hữu cơ với nhau.
Đây là một hoạt động chủ động, tự giác tích cực, có mục đích, có chương trình kế hoạch cụ thể
của Đảng và quân đội trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.

1.2. Quá trình hình thành, phát triển phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội
1.2.1. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang

thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Trong thời kỳ này, nhiệm vụ chính trị trung tâm của Đảng là lãnh đạo
nhân dân lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và quân phiệt Nhật, xoá bỏ
chế độ quân chủ, chuyên chế phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm ở nước
ta. 15 năm lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), Đảng ta luôn


quan tâm đến việc học tập, tổng kết kinh nghiệm, xây dựng một phương
thức lãnh đạo đúng, có hiệu quả. Chính vì vậy, Đảng đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành chính quyền trong khi lực lượng
của Đảng mới xấp xỉ có 5000 đảng viên.
Ngay từ khi Đảng ra đời, trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (Chính
cương sách lược vắn tắt) đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng là
chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường để đạt mục tiêu đó, là
dùng sức mạnh của quần chúng được tổ chức lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng
đánh đổ đế quốc và phong kiến, lập nên chính quyền công nông. Do đó, phải
vũ trang cho quần chúng cách mạng. Tám tháng sau, tại Hội nghị Trung
ương lần thứ nhất (10/1930) Đảng đã khẳng định rõ hơn quan điểm về cách
mạng bạo lực giành chính quyền, bằng con đường khởi nghĩa vũ trang. Do
vậy, phải “ võ trang cho công nông” “lập quân đội công nông”, “ tổ chức
đội tự vệ của công nông”. Trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng rộng khắp, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt để
toàn dân nổi dậy khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Trong án nghị quyết của Hội nghị Trung ương (10/1930) về tình hình
hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng đã nêu rõ: “Mục đích
của Đảng là lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động. Vậy nên, ngay từ bay
giờ Đảng phải tổ chức Bộ quân sự của Đảng để:
1. Làm cho đảng viên được quân sự huấn luyện.
2. Giúp đỡ cho công nông hội tổ chức tự vệ.

3. Vận động trong quân đội của bọn địch nhân”. [6; 116]
Đây là những tư tưởng quân sự đầu tiên của Đảng, đặt nền móng cho
việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng sau này của Đảng.


Đại hội lần thứ Nhất của Đảng (3/1935), Đảng ra “ Nghị quyết về đội
tự vệ”, đã nêu rõ mục đích tổ chức đội tự vệ là:
“- ủng hộ quần chúng hàng ngày.
- ủng hộ quần chúng trong các cuộc đấu tranh.
- ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sỹ cách mạng của công nông.
- Quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng ...” [7]. Về tình hình
vũ trang, Đảng xác định bên cạnh lực lượng vũ trang rộng rãi trong quần
chúng phải tổ chức lực lượng tự vệ thường trực. Nghị quyết chỉ rõ quyền chỉ
huy thống nhất của Đảng đối với tự vệ thường trực, phải có một người đại
biểu của Đảng Cộng sản chỉ huy. Đội tự vệ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
luôn mang bản chất của giai cấp công nhân.Nghị quyết về Đội tự vệ là văn
kiện quân sự đầu tiên của Đảng, phác thảo những nguyên tắc tổ chức, xây
dựng lực lượng vũ trang của Đảng. Nghị quyết bước đầu đề cập đến cách
lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng tự vệ thường trực, mầm mống Quân đội
nhân dân Việt Nam sau này.
Thời kỳ 1939-1945, tình thế cách mạng xuất hiện, vấn đề chính quyền
trực tiếp đặt ra. Nhận thức được yêu cầu đó, Đảng tích cực chuẩn bị lực
lượng chính trị, lực lượng quân sự, chuẩn bị chọn thời cơ, chớp thời cơ để
tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Thực hiện chủ
trương đó nhiều tổ chức vũ trang tiền thân của quân đội ta ra đời:
Ngày 14/2/1941 tại khu rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, Châu Bắc Sơn
chính thức thành lập Đội Cứu quốc quân I. Nhiệm vụ của Cứu quốc quân I
là “lấy chính trị làm chính, đi sát quần chúng, giữ vững cơ sở chính trị, giữ
vững phong trào luyện tập của đội tự vệ, bảo vệ Trung ương ”[28; 29].
Trong lời tuyên thệ của đội đã nêu rõ nhiệm vụ, phương hướng hoạt động

của đội là:
- Không phản Đảng.
- Tuyệt đối trung thành với Đảng.


- Kiên quyết đấu tranh trả thù cho đồng chí bị hy sinh.
- Không hàng giặc.
- Không hại dân ” [ 2;28].
Ngày 15/9/1941 thành lập Trung đội Cứu quốc quân II tại rừng Khuôn Mánh, xã Tràng Xá,
huyện Vũ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Ngay từ đầu Đảng đã quan tâm đến công tác chính trị, tư tưởng của
Đảng để đưa đường lối của Đảng thấm sâu vào từng cán bộ, chiến sỹ, trên cơ sở đó xây dựng ý chí,
quyết tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của đội.

Ngày 12/10/1941 thành lập đội du kích Cao Bằng, Bác Hồ đã trực tiếp
tham gia sinh hoạt với đội và Người trực tiếp biên soạn các nguyên tắc, tài
liệu học tập, hoạt động của đội.
Ngày 25/2/1944 thành lập Trung đội cứu quốc quân III tại khu rừng
Khuổi Kịch, Châu Sơn Dương, Tuyên Quang.
Các đội cứu quốc quân, du kích được thành lập đều do chi bộ các địa
phương trực tiếp lãnh đạo. Hoạt động của các đội là tuyên truyền, vận động
quần chúng, xây dựng phong trào là chính. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua
thực tiễn đấu tranh các đội cứu quốc quân ngày càng phát triển, lớn mạnh
không ngừng, là lực lượng trung kiên, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ
quốc, nhân dân, bước đầu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa
giành chính quyền, ngày 22/12/1944, Đảng quyết định thành lập đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân tại chiến khu Việt Bắc với nhiệm vụ
trọng đại: “ Chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến,
Vận dụng vũ trang tuyên truyền để kêu gọi nhân dân đứng dậy, chuẩn bị cơ
sở chính trị, quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này ”... [ 47; 36-37]. Trong

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Đảng đã thành lập chi bộ đầu
tiên trực tiếp lãnh đạo và thực hiện chế độ chi bộ (chi uỷ) lãnh đạo, hai thủ
trưởng quân sự, chính trị phân công phụ trách. Đồng thời các hoạt động công
tác đảng, công tác chính trị cũng được triển khai, tiếp tục đẩy mạnh công tác


truyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, động viên cán bộ, chiến sỹ vượt qua
khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mình.
Ngày 15/5/1945 Việt Nam giải phóng quân được thành lập tại Đình
Biên Thượng (Chợ Chu, Thái Nguyên) trên cơ sở thống nhất các đội Cứu
quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đó là bộ đội chủ lực
Việt Nam đầu tiên. Lực lượng lúc đầu có tới 13 đại đội, có tôn chỉ, mục đích
hoạt động, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng ở các đơn vị
cơ sở. Từ trung đội trở lên, bên cạnh người đội trưởng có chính trị viên, ở
các đại đội có ban công tác chính trị đại đội. Theo đó, nhiệm vụ huấn luyện,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp cũng được tăng cường.
Ngày 15/8/1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ quyết định đổi tên Việt
Nam giải phóng quân thành Quân giải phóng Việt Nam và khẳng định rõ
quyền lãnh đạo trực tiếp của Đảng với Quân giải phóng, làm cho quân giải
phóng luôn trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng
Tuy chưa thật hoàn chỉnh, nhưng thời kỳ này đã hình thành lên cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đặt cơ sở hình thành cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong những năm sau. Đảng dự kiến từ
trung đội trở lên phải có một đại biểu của Đảng Cộng sản bên cạnh người
chỉ huy để lãnh đạo, sớm xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội, để
nắm chắc quân đội, xây dựng quân đội thành lực lượng vũ trang cách mạng,
tuyệt đối trung thành với Đảng,với sự nghiệp cách mạng của Đảng trong sự
nghiệp đấu tranh giành chính quyền cách mạng (1930-1945)
1.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

Đây là thời kỳ lịch sử hết sức phong phú, sôi động, có nhiều thuận lợi,
nhưng cũng không ít khó khăn đối với cách mạng Việt Nam, với Quân đội
nhân dân Việt Nam.


Cách mạng Tháng Tám thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ra đời, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước;
Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành Đảng cầm
quyền lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Ngay lập tức kẻ thù đủ loại tìm
cách chống phá muốn tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ mới được
thành lập, dập tắt phong trào cách mạng của quần chúng, trong khi đó tình
hình kinh tế-xã hội của đất nước đang gặp nhiều khó khăn. Tình thế đất nước
“như ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng chèo
lái, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh giữ vững thành quả cách mạng, chuẩn bị cho
kháng chiến lâu dài.

Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 9/1945 Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ thị chấn chỉnh, mở rộng Giải phóng quân Việt Nam và đổi tên
là Vệ quốc đoàn. Từ đây Giải phóng quân Việt Nam trở thành quân đội của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với tên gọi là Vệ quốc đoàn. Tháng
11/1945 Trung ương Đảng chỉ thị lập Quân uỷ Trung ương, lập các quân
khu, liên chi, chi bộ và điều số đông cán bộ đảng viên từ huyện uỷ trở lên
vào làm chính trị viên, chính uỷ trong quân đội. Để Đảng trực tiếp lãnh đạo
quân đội, tháng 1/1946 thành lập Trung ương Quân uỷ, là cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Đảng trong quân đội, sau đó thành lập các cấp uỷ Đảng từ
Quân khu đến chi bộ.
Tháng 5/1946 Vệ quốc quân, chính thức trở thành quân đội quốc gia
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, biên chế thống nhất theo từng trung
đoàn, tiểu đoàn, đại đội.

Thời kỳ này, Đảng xác định từ cấp trung đội trở lên, bên cạnh
người chỉ huy quân sự có chính trị viên, cấp chiến khu có chính trị uỷ
viên.


Tháng 10-1948 Thường vụ Trung ương Đảng ra nghị quyết bỏ
hệ thống cấp uỷ Đảng trong quân đội, lập chế độ Chính trị uỷ viên đại
diện của Đảng phụ trách trong quân đội, Nghị quyết xác định rõ:
Chính trị uỷ viên, “chịu trách nhiệm trước Đảng và cấp trên về mọi
mặt công tác đảng và quân sự thuộc phạm vi mình theo đường lối của
Đảng” [47; 19]. Thiết lập chế độ "chính uỷ tối hậu quyết định", mục
đích nhằm làm cho Đảng nắm chắc quân đội và quân đội tuyệt đối
trung thành với Đảng; có sức chiến đấu cao, hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao. Chế độ chính uỷ tối hậu quyết định sau một thời gian thực
hiện tỏ ra không phù hợp với sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội,
quan hệ giữa cá nhân và tập thể ở nhiều đơn vị bị hạn chế.
Tháng 5/1952 Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 07/NQ-TW bỏ
chế độ "chính uỷ tối hậu quyết định", thi hành chế độ cấp uỷ Đảng
trong toàn quân, mục đích: “Thực hiện sự lãnh đạo tập thể, thống nhất
của Đảng về mọi mặt công tác, bảo đảm vững chắc sự thi hành chủ
trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; tăng cường sự lãnh đạo
tư tưởng, giáo dục chính trị … mở rộng dân chủ nội bộ, phát huy phê
bình, tự phê bình” [ 47; 173-174]. Chế độ Đảng uỷ lãnh đạo, thủ
trưởng quân sự, chính trị phụ trách thực hiện từ đó và trong suốt cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cơ chế này đã giúp cho
Đảng nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt chẽ quân đội trong suốt cuộc
kháng chiến. Đồng thời quân đội được xây dựng, trưởng thành về mọi
mặt, luôn trung thành với Đảng và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
1.2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng với quân đội thời kỳ kháng

chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (19541975)


Để bảo đảm cho quân đội có đủ sức mạnh hoàn thành mọi nhiệm vụ
từ năm 1954 đến 1975, Đảng đã thực hiện nhất quán cơ chế Đảng uỷ lãnh
đạo, thủ trưởng quân, chính phân công tổ chức thực hiện. Cơ chế này bảo
đảm Đảng nắm chắc quân đội, tăng cường, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội, góp phần xây dựng quân đội lớn mạnh trưởng thành cùng với
toàn dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, bảo vệ, xây dựng
chủ nghĩa xã hội miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975.
1.2.4. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ 30/4/1975 đến nay
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 30/4/1975
cách mạng đã chuyển sang giai đoạn mới: đất nước thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Trong điều kiện lịch sử mới, nội dung lãnh đạo của Đảng đã phát triển
toàn diện và ngày càng sâu sắc. Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng cần
phải có sự phát triển mới nhằm đảm bảo giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với toàn xã hội.
Giai đoạn từ năm 1975 đến 12/1982: Quân đội ta vẫn giữ nguyên cơ
chế Đảng lãnh đạo quân đội như trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và chống đế quốc Mỹ (1952-1975). Đó là chế độ "tập thể cấp ủy lãnh
đạo, thủ trưởng quân chính phân công tổ chức thực hiện".
Từ năm 1982 đến 7/1985: Một vấn đề rất quan trọng trong phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là cơ chế lãnh đạo đã có sự thay
đổi lớn. Thể theo đề nghị của Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 15-121982, Bộ Chính trị (Khóa V) đã ban hành Nghị quyết số 07/NQ-TW "Về
việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân



dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy
trong quân đội". Cơ chế này xác định 4 nguyên tắc, trong đó không thiết lập
hệ thống cấp ủy đảng từ Quân ủy Trung ương đến cấp trên cơ sở, thực hiện
chế độ một người chỉ huy ở các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Ở
một số cấp có hai cơ quan lãnh đạo tập thể là Hội đồng quân sự và Hội đồng
cơ quan chính trị. Hệ thống cơ quan chính trị chỉ có ở cấp Sư đoàn và tương
đương trở lên (cấp trung đoàn không có cơ quan chính trị); bỏ chế độ chính
ủy, chính trị viên, thay vào đó là chức danh phó chỉ huy trưởng về chính trị.
Sau một thời gian ngắn thực hiện, cơ chế này đã bộc lộ những hạn
chế, khuyết điểm, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thực tiễn xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, việc bỏ hệ thống cấp ủy đảng từ
Quân ủy Trung ương đến cấp trên cơ sở, làm cho nguyên tắc tập trung dân
chủ, nguyên tắc lãnh đạo tập thể không được thực hiện nghiêm túc; tổ chức
đảng ở các cấp không còn được hoàn chỉnh và đồng bộ thành một hệ thống.
Đối với các cấp có hai cơ quan lãnh đạo tập thể (Hội đồng quân sự và Hội
đồng cơ quan chính trị) đảm nhiệm lãnh đạo hai mặt công tác (công tác quân
sự và công tác đảng) đã gây nên tình trạng phân tán sự lãnh đạo, thiếu một
cơ quan lãnh đạo tập trung, thống nhất trong từng đơn vị. Điều này làm cho
sự lãnh đạo của Đảng thiếu tập trung thống nhất, vừa không tập trung được
trí tuệ của tập thể, vừa không phát huy được đầy đủ trách nhiệm của những
cán bộ chủ chốt vào công tác xây dựng Đảng - vấn đề then chốt, có tính chất
quyết định trong xây dựng quân đội. Đồng thời và do thiếu một tổ chức có
hiệu lực mạnh mẽ (đảng ủy) để xây dựng nền nếp tự phê bình và phê bình
trong những người giữ cương vị chủ chốt (người đứng đầu) của đơn vị, nên
những khuyết điểm, sai lầm và những biểu hiện tiêu cực không được đấu
tranh khắc phục kịp thời, triệt để. Do đó, vai trò lãnh đạo của Đảng không


được tăng cường mà lại giảm sút, hiệu lực của chế độ một người chỉ huy và
hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị không được phát huy đầy đủ.

Mặt khác, việc chấp hành nguyên tắc tổ chức, nguyên tắc lãnh đạo và
sinh hoạt đảng chưa nghiêm túc, có nơi còn vi phạm nghiêm trọng, vừa thiếu
dân chủ, vừa thiếu tập trung. Trong sinh hoạt đảng thảo luận không được kỹ
càng, có khi không theo ý kiến đa số; việc chấp hành nghị quyết còn lỏng
lẻo, thậm chí có nơi còn có hiện tượng gia trưởng trong cấp ủy của cán bộ
chủ trì, làm trái với nghị quyết của tập thể. Trong khi đó, việc tổ chức kiểm
tra thực hiện nghị quyết chưa chặt chẽ; chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê
bình chất lượng thấp, tính chiến đấu không cao, còn e dè, nể nang, sợ bị trù
dập nên không dám nói thẳng, nói thật. Hiện tượng mất đoàn kết ngay trong
cán bộ chủ trì xảy ra, có nơi khá nghiêm trọng, gây không khí căng thẳng
trong đảng bộ và trong đơn vị.
Hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác tư
tưởng và công tác tổ chức của Đảng trong quân đội không được đặt đúng vị
trí, vai trò, không được chăm lo củng cố kiện toàn, số lượng và chất lượng
cán bộ chính trị bị giảm sút. Cơ cấu tổ chức cơ quan chính trị có thời gian
rút một số bộ phận quan trọng, có bộ phận chuyển sang trực thuộc người chỉ
huy, làm cho cơ cấu của cơ quan thiếu đồng bộ, không kết hợp được chặt
chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, công tác chính sách và các công
tác khác. Việc bãi bỏ chế độ chính ủy, chính trị viên ở các cấp, một số
chuyển sang làm cán bộ chỉ huy làm cho chất lượng cán bộ chủ trì công tác
đảng, công tác chính trị ở đơn vị giảm sút, hiệu lực và hiệu quả triển khai tổ
chức thực hiện công tác đảng, công tác chính trị bị hạn chế rất nhiều. Hơn
nữa, việc lựa chọn đào tạo, bổ nhiệm, tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ chính trị, nhất là các ngành nghiệp vụ của cơ quan chính


trị chưa được chú trọng, do đó phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ
chính trị chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, đã ảnh
hưởng đến kết quả xây dựng quân đội về chính trị.
Như vậy, theo cơ chế 07, mục đích của sự "đổi mới, hoàn thiện cơ

chế" vẫn được xác định là nhằm bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng
trong mọi tình huống, không ngừng nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng
và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nhưng, vì một số nội dung đặt ra trong
cơ chế không phù hợp, mà quan trọng nhất là bỏ hệ thống cấp ủy đảng từ
Quân ủy Trung ương đến cấp trên cơ sở, nên quá trình thực hiện cơ chế
không những không cho phép đạt tới mục đích đảm bảo sự lãnh đạo vững
chắc của Đảng, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân của quân
đội, làm cho quân đội trung thành vô hạn với Tổ quốc... mà còn làm cho tình
hình chung trong quân đội nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, làm suy yếu sức
mạnh chiến đấu của quân đội, có mặt rất trầm trọng và để lại một hậu quả
hết sức nặng nề. Với cơ chế đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội rõ ràng có nhiều hạn chế, thiếu những cơ sở khoa học, đưa đến tình
trạng buông lỏng, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, hạ thấp vị trí, vai trò
công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội - bộ phận rất quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Từ 7/1985 đến nay, cùng với quá trình đổi mới toàn diện và sâu sắc về
kinh tế, chính trị - xã hội và quá trình phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo đối với toàn bộ hệ
thống chính trị. Những hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng vốn là
sản phẩm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dần dần được khắc phục.
Tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay, vừa buông lỏng sự lãnh đạo đối với


cơ quan nhà nước và các đoàn thể đã khắc phục về cơ bản; đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng đã dần thích ứng với phong cách lãnh đạo của một Đảng
cầm quyền trong điều kiện mới. Trong tình hình đó, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam cũng được đổi mới, bổ sung.
Với Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 04/7/1985 của Bộ Chính trị (Khóa V)
"Về việc tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân

dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng", cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội đã được củng cố một bước quan trọng. Cơ chế này là sự "tiếp tục
kiện toàn" bằng việc sửa đổi, uốn nắn một số nội dung không phù hợp trong
Nghị quyết số 07/NQ-TW, đã khôi phục hệ thống tổ chức đảng trong quân
đội từ Đảng ủy Quân sự Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng; vai trò lãnh đạo
về mọi mặt của Đảng, nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt đảng được
xác lập lại và phát triển lên một bước mới; hệ thống cơ quan chính trị từ cấp
trung đoàn trở lên được kiện toàn, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị
được phát huy, trả về đúng bản chất "hoạt động lãnh đạo của Đảng"; mối
quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy được giải quyết tương đối tốt. Cơ chế này
cùng với phương thức lãnh đạo theo nó đã đảm bảo cho Đảng lãnh đạo chặt
chẽ quân đội hơn và quân đội từng bước được củng cố, xây dựng vững
mạnh, luôn trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội vẫn còn nhiều vấn đề chưa triệt để. Trong đó, chậm
khôi phục trở lại chế độ chính uỷ, chính trị viên đang là một vấn đề tồn tại,
làm hạn ché không ít đến việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội và nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị trong điều
kiện cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra ngày càng quyết
liệt, phức tạp. Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận, các yếu tố trong hệ


thống lãnh đạo chỉ huy còn nhiều vấn đề bất cập. Trên thực tế,cơ cấu cấp uỷ
các cấp trong Đảng bộ Quân đội (từ cơ sở đến Quân uỷ Trung ương) chưa
thật hợp lý. Đội ngũ cán bộ chính trị tham gia cấp uỷ ở các cấp chiếm tỷ lệ
thấp. Trong lúc cán bộ chính trị là người được đào tạo chuyên ngành, chuyên
sâu về công tác đảng, công tác chính trị, được xác định là người chủ trì và
“tổ chức thiết kế thi công” công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Hiện nay, cơ cấu tham gia cấp uỷ như sau: Trong Đảng uỷ Quân sự
Trung ương, cán bộ chính trị: 28,5 % trong lúc cán bộ quân sự: 71,5 %.

Trong các đảng bộ trực thuộc Đảng uỷ Quân sự Trung ương: cán bộ chính
trị: 31,1 %, cán bộ quân sự 43,3 %. Trong Đảng uỷ Quân khu, hiện nay đồng
chí Bí thư đảng uỷ không là Uỷ viên Trung ương Đảng. Trong khi đó, các
đồng chí uỷ viên Đảng uỷ Quân khu (là bí thư các tỉnh uỷ, thành uỷ trên địa
bàn) về cơ bản là uỷ viên Trung ương Đảng (cá biệt có đồng chí là Uỷ viên
Bộ Chính trị). Trong các Đảng uỷ quân sự các tỉnh, thành phố, huyện, thị xã,
các đồng chí phó chỉ huy về chính trị là phó bí thư thường trực Đảng uỷ
thường không được tham gia cấp uỷ địa phương. Thực tế đó đã dẫn đến
những hạn chế nhất định về vai trò và hiệu quả lãnh đạo của tổ chức Đảng
trong công tác quân sự và quốc phòng ở địa phương. {59}
Trong cơ chế hiện nay, việc thực hiện chức danh phó chỉ huy về chính
trị là không đúng với bản chất công tác đảng, công tác chính trị và cũng
không đúng với các quy định của Ban Bí thư về tổ chức cơ quan chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam, làm hạn chế đến nguyên tắc tập trung
dân chủ, ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của
các cấp uỷ trong Quân đội. {59}
Trong những năm đổi mới đất nước, cùng với sự đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung, phương thức lãnh


đạo của Đảng đối với quân đội nói riêng cũng được đổi mới, bổ sung, phát
triển. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc ngày càng gay gắt, phức tạp và yêu cầu xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu đánh
thắng các cuộc chiến tranh trong tương lai vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Nhất là về phẩm chất, trình độ năng lực, phương pháp tác phong công tác
của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong quân đội còn còn bộc lộ
những khiếm khuyết cần phải sửa đổi. Không ít cán bộ, đảng viên trong bộ
máy chỉ huy chỉ muốn áp đặt, sử dụng quyền lực cá nhân, coi nhẹ công tác
tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách, dẫn đến tình trạng hạ thấp

vai trò công tác đảng, công tác chính trị, hạ thấp vai trò người chủ trì tiến
hành hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, vai trò của cán bộ chính
trị.
Mặt khác, từ trước đến nay, Đảng mới chỉ đặt vấn đề đổi mới, hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, đến việc cải tiến phương
pháp lãnh đạo, phong cách của cán bộ, đảng viên mà chưa đặt vấn đề rộng
hơn về đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
một cách hệ thống, chưa tiến hành tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận rút
ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc về phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội chưa được đầu tư cơ bản, đúng mức và có hiệu quả. Chưa
xác định một cách rõ ràng, cụ thể phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội trên các lĩnh vực, các nhiệm vụ, các loại hình tổ chức và hoạt động.


Điều kiện, phương tiện kỹ thuật phục vụ lãnh đạo và tiến hành công
tác đảng, công tác chính trị còn bị lạc hậu, thiếu đồng bộ, lại chậm đổi mới,
thiếu quan tâm đúng mức đến việc đầu tư trang bị kỹ thuật mới nên ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Trên thực tế có biểu hiện chưa nhận thức đúng phương thức lãnh đạo
là một trong những nội dung cốt yếu để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới
và yêu cầu cơ bản, cấp bách của nhiệm vụ xây dựng quân đội hiện nay, đòi hỏi
phải tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
1.3. Những vấn đề có tính quy luật của quá trình hình thành, phát triển
và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện phương thức

lãnh đạo của Đảng với quân đội hơn nửa thế kỷ qua có thể đưa ra một số vấn
đề có tính quy luật sau:
1.3.1. Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện phương thức lãnh đạo
của Đảng với quân đội phụ thuộc và phải phù hợp với nội dung lãnh đạo và
sự vận động, phát triển của thực tiễn cách mạng
Cách mạng muốn thắng lợi trước hết Đảng phải có nội dung lãnh đạo
đúng. Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng phải định mọi
vấn đề cho đúng". Nội dung lãnh đạo của Đảng thể hiện trong đường lối
cách mạng. Nội dung đó bao gồm nhiều vấn đề, nhưng những vấn đề quan
trọng nhất là: xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, lực lượng,
phương pháp cách mạng v.v...
Mỗi một giai đoạn lịch sử của cách mạng Đảng có nhiệm vụ chính trị
cụ thể. Đường lối của Đảng được vạch ra nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị đó. Đường lối của Đảng được vạch ra trên cơ sở nhận thức và vận


dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích
đúng đắn, chính xác tình hình thế giới và thực tiễn Việt Nam. Do đó nó luôn
đảm bảo tính đúng đắn sáng tạo. Đảng không chỉ vạch ra đường lối mà còn
phải tổ chức, giáo dục, động viên tất cả các lực lượng cách mạng, tạo thành
sức mạnh tổng hợp, chỉ đạo các phong trào hoạt động cách mạng trong thực
tiễn để biến đường lối thành hiện thực, hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã
xác định. Như vậy, nội dung lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử
quy định tính tất yếu khách quan phải có một phương thức lãnh đạo phù hợp
để đạt mục tiêu do nội dung lãnh đạo quy định. Tuy nhiên để thực hiện nội
dung lãnh đạo đối với mỗi một tổ chức, một lĩnh vực cụ thể Đảng cần có
một phương thức lãnh đạo cụ thể cho phù hợp. Mặt khác, phương thức lãnh
đạo của Đảng cũng phải luôn vận động phát triển theo yêu cầu và thực tiễn
phát triển của cách mạng. Không có một phương thức lãnh đạo chung cho
mọi giai đoạn của cách mạng. Quân đội ta là quân đội do Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và lãnh đạo; là quân đội của nhân dân, mang
bản chất của giai cấp công nhân, có tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc, là
lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trong suốt quá trình lịch sử từ ngày thành lập đến nay, quân đội luôn
là lực lượng quán triệt sâu sắc thực hiện nghiêm túc, vô điều kiện và sáng
tạo nội dung lãnh đạo của Đảng. Nhờ đó quân đội đã hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ, lập nên những chiến công vĩ đại, xứng đáng với sự tin cậy
của Đảng và nhân dân. Từ vai trò, vị trí, nhiệm vụ, chức năng của quân đội
với sự nghiệp cách mạng Đảng ta không ngừng phát triển và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của mình đối với quân đội. Sự phát triển và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cũng tuân theo tính quy


luật nói trên. Hơn nữa quân đội hoạt động trong một lĩnh vực đặc thù - lĩnh
vực đấu tranh vũ trang với những thử thách khắc nghiệt và diễn biến hết sức
nhanh chóng, phức tạp. Sức mạnh chiến đấu và khả năng hoàn thành nhiệm
vụ của quân đội liên quan trực tiếp đến vận mệnh của Tổ quốc và chế độ. Do
đó tính quy luật này càng phải được nhận thức và hành động với yêu cầu rất
cao và rất nghiêm ngặt.
Có thể lấy cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) làm thí
dụ để minh họa cho tính quy luật này.
Để có thể đánh thắng đế quốc Mỹ, thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập
dân tộc và thống nhất Tổ quốc Đảng ta đã chủ trương tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của tên đế
quốc đầu sỏ. Đường lối chiến tranh nhân dân trong trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước là sự kết hợp và vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội với truyền
thống quân sự của dân tộc ta. Đường lối đó ngày càng được phát triển và
hoàn chỉnh trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến tranh của Đảng.
Chính vì vậy chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển lên một tầm cao

mới, trở thành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện với những hình thức biểu
hiện hết sức độc đáo, phong phú. Đường lối đó đã phát huy được tối đa khả
năng của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của tất cả các lực lượng
cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chúng ta
thắng Mỹ oanh liệt. Trong cuộc chiến tranh đó quân đội cùng với lực lượng
vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đồng thời quân đội là lực
lượng thực hiện các trận đánh quyết định để kết thúc chiến tranh. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong chiến tranh chống Mỹ cũng


không ngừng phát triển và hoàn thiện theo sự phát triển và hoàn thiện của
đường lối chiến tranh nhân dân, sự phát triển của quy mô và tính chất quyết
liệt của chiến tranh. Nhờ đó đảm bảo cho Đảng ta thực hiện hết sức chặt chẽ
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội,
chỉ đạo sát sao từng bước mọi hoạt động xây dựng và chiến đấu của quân
đội trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Phương thức lãnh đạo của Đảng đã làm
cho quân đội luôn có lòng trung thành tuyệt đối, ý chí quyết chiến, quyết
thắng, sự chủ động, sáng tạo, có sức mạnh chiến đấu cao hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ cùng với toàn dân chiến thắng vẻ vang tên đế quốc đầu sỏ,
hung hãn nhất, làm nên kỳ tích của thế kỷ XX. Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho
chúng ta những bài học quý giá về sự lãnh đạo với quân đội.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay đường lối xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta đã có những sự phát triển hết sức sáng tạo. Nhờ
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, công cuộc đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đã thu được nhiều thắng lợi, quan trọng,
thế và lực của đất nước đã từng bước lớn lên, uy tín, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Trong hệ thống quan điểm, đường
lối của Đảng, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, các lực lượng vũ trang nhân dân có những phát triển hết sức mới mẻ.

Đặc biệt với Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" tư duy về
bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta có một bước trưởng thành rất quan trọng. Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước những diễn biến hết sức phức
tạp của tình hình thế giới, sự chống phá quyết liệt, thâm độc và xảo quyệt


của các thế lực thù địch, quân đội phải luôn trở thành lực lượng chính trị
trung thành, tin cậy, chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân,
hoàn thành xuất sắc các chức năng, nhiệm vụ mà Đảng giao phó. Tình hình
mới đòi Đảng phải tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của mình với
quân đội mà tính quy luật của quá trình đó như đã trình bày: phải xuất phát
từ sự phát triển của đường lối và thực tiễn vận động, phát triển của tình hình,
nhiệm vụ cách mạng.
1.3.2. Sự hình thành, phát triển phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội phải đáp ứng và phù hợp với sự phát triển của cơ cấu tổ chức
trong quân đội với từng loại hình và hoạt động của quân đội
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, là quân đội của dân, do dân, vì dân, từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Quân đội là công cụ bạo
lực sắc bén của Nhà nước xã hội chủ nghĩa để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, trong mỗi thời kỳ, giai đoạn
cách mạng, quân đội được xây dựng tổ chức, biên chế, trang bị, nhiệm vụ và
phương thức hoạt động khác nhau, Do đó phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội luôn thay đổi cho phù hợp.
Từ các đội tự vệ ra đời trong cao trào cách mạng 1930-1931, đó là
những mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, đến
những năm cao trào kháng Nhật, cứu nước, chuẩn bị đấu tranh giành chính
quyền các đội Cứu quốc quân I, II và III lần lượt ra đời; sau đó phát triển

thành lập Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (12/1944), Việt Nam giải
phóng quân (5/1945) và Vệ quốc đoàn (9/1/945). Từ đây, giải phóng quân


Việt Nam trở thành quân đội của Nhà nước Việt Nam dân chủ công hoà,
mang tên Vệ quốc đoàn.
Từ những đội Tự vệ, tiến lên thành lập các trung đội, đại đội, tiểu
đoàn, trung đoàn, đến các đại đoàn trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lúc đầu được trang bị bằng vũ khí thô sơ, tự tạo, dần dân quân đội được
trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để đáp ứng yêu cần nhiệm vụ cả nước tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng thời kỳ (1954-1975) Đảng lãnh đạo từng bước xây dựng quân đội
tiến lên chính quy hiện đại. Trên cơ sở tổ chức hiện có dần dần quân đội được xây dựng đầy đủ các quân,
binh chủng hiện đại. Đến những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các quân đoàn chủ lực
của Quân đội nhân dân Việt Nam lần lượt ra đời. Đồng thời các loại vũ khí vũ khí , phương tiện hiện đại
trang bị cho quân đội tăng cường, quân đội đủ sức mạnh đương đầu, chiến thắng đế quốc Mỹ, tên đế quốc
đầu sỏ trong phe đế quốc.
Cùng với sự phát triển của hệ thống tổ chức quân đội từ các đội du kích, đội tuyên truyền giải
phóng quân, các sư đoàn, quân đoàn, quân khu, quân binh chủng... hệ thống tổ chức đảng trong quân đội
cũng phát triển phù hợp với tổ chức quân đội. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng phát triển phù
hợp với sự phát triển của tổ chức quân đội và các loại hình hoạt động.

Ngày nay, trong điều kiện hoà bình, xây dựng, thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, hội nhập với bên ngoài Đảng khẳng
định: Tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân theo hướng “cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của quân đội là sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu, trách nhiệm chính trị của quân đội là phải đánh thắng. Trong
những năm tới, xây dựng quân đội phải đáp ứng yêu cầu cao nhất của

phương thức đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng địch trong điều
kiện chiến tranh mà kẻ địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Trong mỗi giai đoạn cách mang cụ thể, xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, việc xây dựng, tổ chức,
biên chế, trang bị của quân đội có sự khác nhau. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng với quân đội
cũng có sự khác nhau. Trong quân đội, mỗi quân, binh, chủng, mỗi loại hình tổ chức của quân đội khác


nhau thì phương thức lãnh đạo của Đảng cũng có sự khác nhau. Có như vậy, Đảng mới luôn nắm chắc quân
đội, tăng cường, giữ vững sư lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội luôn trung thành tuyệt
đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

1.3.3. Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội thống nhất hữu cơ với quá trình phát triển, hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
Cơ chế lãnh đạo là một bộ phận cấu thành phương thức lãnh đạo của Đảng. Song nó có vai trò đặc
biệt quan trọng vì một cơ chế đúng đắn, phù hợp sẽ đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Trái lại
một cơ chế không phù hợp sẽ làm hạn chế, thậm chí làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng. Sự hình thành, phát
triển cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội là tất yếu khách quan. Cơ chế lãnh đạo bị quy định bởi nhiệm vụ chính
trị của Đảng, của quân đội, phù hợp với sự phát triển của hệ thống tổ chức quân đội. Mặt khác, cơ chế do
con người định ra, quy định các yếu tố, sắp xếp, phối hợp các hoạt động theo một trình tự nhất định nhằm
đạt mục đích chung. Cơ chế lãnh đạo không chỉ là nơi mang nội dung lãnh đạo mà còn là công cụ, phương
tiện thực hiện sự lãnh đạo, biểu hiện tập trung của phương thức lãnh đạo. Do vậy sự hình thành, phát triển
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong sự phụ thuộc, quy định lẫn nhau với quá trình phát
triển, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Cùng với lịch sử xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội hơn nửa thế kỷ qua, cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội đã trải qua khảo nghiệm với những chế độ khác nhau như đã trình bày và
phân tích ở tiết 1.2 của chương này.
Thực tiễn lịch sử xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội ta đã khẳng định cơ chế tập thể
Đảng ủy lãnh đạo, thủ trưởng quân sự, chính trị phân công phụ trách, trong đó thực hiện chế độ chính ủy,
chính trị viên là cơ chế thích hợp hơn cả. Đặc biệt qua thực tiễn của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và

chống Mỹ, chế độ chính ủy, chính trị viên đã có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với việc giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Chính ủy, chính trị viên đã một thời là niềm tự hào và danh
hiệu cao quý của người cán bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Qua hơn 20 năm thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội theo Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị
(khóa V), trong đó có việc thực hiện chức danh phó chỉ huy về chính trị, nhìn chung tình hình mọi mặt của
quân đội vẫn giữ được ổn định. Quân đội hoàn thành được các nhiệm vụ trong điều kiện thời bình chưa có
sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách nghiêm túc, khách quan thì
việc thực hiện chức danh phó chỉ huy về chính trị trong cơ chế hiện nay đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế,
không phù hợp với sự phát triển của tình hình mới và yêu cầu xây dựng quân đội. Theo tập thể các tác giả
của đề tài những hạn chế chủ yếu của việc thực hiện chức phó chỉ huy về chính trị trong cơ chế hiện nay là:
Thứ nhất: Thực hiện chức danh phó chỉ huy về chính trị là không phù hợp với quy định về tổ chức
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội đã ghi trong Điều lệ Đảng. Tại Điều 26 Mục 3 Điều lệ Đảng khẳng


định rõ: "Ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị
dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên" [6]. Các Quy định
số 37-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Quy định số 902/QĐ-CT 10/12/2001 của Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị đều khẳng định phó chỉ huy chính trị các cấp là người chủ trì công tác đảng, công tác
chính trị. Nhưng trên thực tế họ là phó của người chỉ huy nên không có đủ điều kiện và hành lang pháp lý
để thực hiện đúng tư cách là người chủ trì. Đây là một mâu thuẫn mà chế độ một người chỉ huy hiện nay
không thể giải quyết được.
Thứ hai: Thực tế việc thực hiện chức danh phó chỉ huy về chính trị là làm hạn chế việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy đảng.
Trong cơ chế hiện nay Bí thư đảng là người có chức vụ cao nhất về Đảng cũng chỉ là phó, là người
giúp việc của chỉ huy. Trong thực tế những biểu hiện đề cao quyền lực cá nhân, lộng quyền, độc đoán, gia
trưởng ở không ít cán bộ chỉ huy vẫn tồn tại mà không được đấu tranh kiên quyết, khắc phục kịp thời, làm
cho nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, chế độ sinh hoạt phê bình và tự phê bình của nhiều cấp
ủy kém hiệu quả.
Thứ ba: Thực hiện chức danh phó chỉ huy về chính trị làm giảm hiệu lực công tác đảng, công tác

chính trị so với trước đây thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng xây
dựng quân đội về chính trị.
Trước đây thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên ở mọi cấp, mỗi đơn vị đều có hai cán bộ chính
trị, trưởng và phó nên đội ngũ cán bộ chính trị có sự phân công chuyên sâu, được trải nghiệm tuần tự, tích
lũy được kinh nghiệm và có tính kế tiếp vững chắc. Theo cơ chế 27 hiện nay mỗi cấp chỉ có một phó chỉ
huy chính trị, vì vậy đội ngũ cán bộ giảm mạnh về số lượng, thiếu tính kế tiếp liên tục vững chắc. Đặc biệt,
ở cấp chiến dịch, chiến lược thì sự hụt hẫng nguồn kế tiếp. Tình hình trên đã làm giảm hiệu lực công tác
đảng, công tác chính trị trong quân đội, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xây dựng quân đội về
chính trị. Nhận thức được điều đó từ năm 2000 đến nay, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chủ trương xếp
hai cán bộ chính trị ở cấp đại đội và tiểu đoàn đủ quân. Tuy nhiên cả hai đều là cấp phó nên việc thực hiện
chức trách trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó từ cấp trung đoàn trở lên vẫn chỉ có một phó
chỉ huy về chính trị nên những hạn chế của chức danh phó chỉ huy về chính trị trong cơ chế 27 vẫn chưa
được khắc phục.
Sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong những năm đầu của thế kỷ XXI đang đặt ra
yêu cầu ngày càng cao với việc tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, trong
đó cần phải khôi phục chế độ chính ủy, chính trị viên trong cơ chế lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này chúng tôi
sẽ phân tích kỹ hơn ở chương 3.

1.3.4. Sự hình thành, phát triển phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của các tổ chức đảng, cơ
quan chính trị và sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ chính trị các cấp


Đảng lãnh đạo quân đội trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nguyên tắc,
nhưng phải được bảo đảm bằng một cơ chế tổ chức lãnh đạo cụ thể thông
qua hệ thống tổ chức đảng, tổ chức cơ quan chính trị và cán bộ chính trị
trong quân đội (từ Trung ương Quân uỷ xuống chi bộ cơ sở).
Lịch sử xây dựng và trưởng thành của quân đội đồng thời là lịch sử xây dựng, phát triển hệ
thống tổ chức đảng trong toàn quân. Từ các tổ chức đảng đầu tiên trong lực lượng vũ trang như chi bộ
Đảng trong các đội tự vệ, đội du kích, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, các khu uỷ trong các

Chiến khu đến việc hình thành các Đảng uỷ mặt trận, hình thành hệ thống tổ chức đảng trong các đơn vị
đoàn chủ lực cho đến nay là hệ thống tổ chức đảng thống nhất từ chi bộ đến Đảng uỷ Quân sự Trung
ương. Ngoài hệ thống tổ chức đảng (dọc) theo hệ thống tổ chức chỉ huy của quân đội còn có hệ thống tổ
chức đảng ở các cơ quan quân sự địa phương song trùng với hệ thống tổ chức đảng trong bộ máy hành
chính nhà nước từ xã đến quân khu. Đó chính là lịch sử hình thành phát triển hệ thống tổ chức đảng
trong quân đội. Cùng với lịch sử phát triển của tổ chức đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội cũng phát triển phù hợp với yêu cầu phát triển sự lãnh đạo của Đảng.

Thực tiễn cho thấy, sự thay đổi hệ thống tổ chức đảng, hệ thống cấp
uỷ trong tổ chức quân đội đã kéo theo sự thay đổi các mối quan hệ lãnh đạo chỉ huy, thay đổi cách thức lãnh đạo, thay đổi các hình thức và phương pháp
lãnh đạo cụ thể.
Quân đội đã hai lần không thực hiện chế độ Đảng uỷ (chi uỷ) lãnh
đạo, đó là từ (tháng 11/1948 đến tháng 4/1952 và từ tháng 12/1982 đến
tháng 7/1985). Nhưng Đảng đã sớm phát hiện điều không hợp lý của chế độ
đó và khắc phục kịp thời.
Sự lãnh đạo của Đảng thông qua hệ thống tổ chức đảng trong quân
đội, hệ thống chỉ huy, hệ thống cán bộ chính trị và cơ quan chính trị. Nhưng
trong đó đội ngũ cán bộ chính trị (chính uỷ, chính trị viên, phó chỉ huy về
chính trị) và cơ quan chính trị là hệ thống, lực lượng trực tiếp tiến hành công
tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Lịch sử xây dựng và trưởng thành của quân đội cũng là lịch sử trưởng thành phát triển cơ quan
chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị trong toàn quân. Cùng với sự phát triển của tổ chức quân đội, sự ra
đời của các đơn vị từ trung đoàn, sư đoàn đến các binh đoàn chủ lực, các quân khu, quân binh chủng, hệ


×