Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Luyện thi: Tràng Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (32.06 KB, 8 trang )

Tràng giang
Huy Cận
Nếu phải kể đến những đôi bạn thơ gắn bó keo sơn, thân thiết với nhau thì trong nền
thơ hiện đại Việt Nam, đáng nhắc đến trước tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu – Huy Cận.
Bộ đôi ấy đã hình thành nên một xóm thơ “ Huy – Xuân ” trong phong trào thơ mới.
Nhưng điều đó không hề có nghóa là hai hồn thơ đó giống nhau, mà là ngược lại. Như
sau này có người nhận xét : “ Nếu Xuân Diệu là thi só của niềm ám ảnh thời gian thì
Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. “ Chính cảm hứng về vụ trụ bao
la lớn rộng đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thû nhà thơ mới viết tập
đầu tay – “ Lửa thiêng”. Và khi tìm hiểu một trong những bài tiêu biểu nhất của tập
thơ, người ta chắc phải nói đến “Tràng giang”.
Trên ý nghóa, “Tràng giang” là một con sông dài, nhưng Huy Cận lại muốn cảm nhận
đó là một dòng sông rộng. Và như thế rõ ràng có lý, có căn cứ bởi cảm giác về dòng
sông nếu không được làm nên bởi ấn tượng của thanh âm, bởi cả hai chữ của tựa đề
-“tràng” và “giang” đều được cấu tạo bởi một nguyên âm rộng nhất trong các nguyên
âm.
Bên ấn tượng về chiều rộng được nói đến ở tựa đề bài thơ thì ấn tượng ấy còn có ở cả
câu đề từ :
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ,
trọn vẹn ba chiều của không gian. Điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy
Cận, một nhà thơ của cảm hứng không gian. Và trong không gian mênh mang ấy, nhà
thơ đã thả vào một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác mà chúng ta có thể thấy được
qua những từ “nhớ” và “bâng khuâng” mà nhà thơ đặt ngay ở đầu câu.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất thích hợp với thi đề - “sóng”. Sóng trên dải
“tràng giang “ của Huy Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay “ sóng vọt đến lưng
trời ” như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là “sóng gợn”. Một chuyển động nhẹ nhàng để gợi


ra hình ảnh của một dòng tràng giang tónh lặng. Nhà thơ tìm ra cái tónh trong cái tưởng
như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tónh. Con sóng gợn trong con mắt
đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ
đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với
phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp
điệp”. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước
con người. Như thế, “Tràng giang” rất sớm trở thành một dòng sông tâm trạng, vừa là
hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.
Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, một con thuyền
không chèo “xuôi mái”- hình ảnh tónh trên một dòng sông tónh. Mái chèo buông xuôi
dọc bên thân thuyền, để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Hai chữ này đã
hoà ứng với hai chữ “điệp điệp” ở cuối câu thứ nhất như để gợi thêm ra cảm giác về
một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều, “điệp điệp” gợi ra
không gian theo chiều rộng, còn “song song” lại làm nên cảm giác về chiều dài.
Nhưng đến câu thơ thứ ba:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
thì hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước
mà là “thuyền về, nước lại”. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về
sự chuyển động trái chiều. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng
trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra
trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”.
Nhà thơ viết “trăm ngả” dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có
chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa.
Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều
hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư :
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như
không hàm chứa một lượng thơ ca nào, chữ “củi”. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh
qua một phép đảo từ “ củi một cành khô ”. Nhưng phải là chữ “củi” và phải là phép
đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh.

Chữ ấy hay không chỉ vì nó đem lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi là “hiện thực
sống sít”, làm nên một trong những phong cách thơ mới. Hình ảnh “củi” không chỉ nói
về một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó lại là hình
ảnh khó có gì thích hợp hơn để nhà thơ biểu hiện cảm quan của mình về sự nhỏ nhoi, vô
nghóa, đơn côi của sự sống một kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô tận. Ý nghóa ấy
dường như thấm vào trong từng chữ một của dòng thơ. Chữ “một” gợi lên số ít, chữ
“cành” làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ ,
ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con
sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người,
khác hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới “.
Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt
sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những
làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng
mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc
về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa
ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả
ý nghóa của câu thơ. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc cồn trong
thơ phải là “cồn nhỏ” và phải thưa thớt, lơ thơ. Cồn phải vậy để mặt sông càng trở nên
rộng lớn. Gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tónh lặng. Và Huy Cận
cũng đã từng nói hai chữ “đìu hiu “ấy đã được mượn trong hai chữ của “Chinh phụ
ngâm” :
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy
làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu.

Câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi,
yếu ớt, cô quạnh.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ làm gợi nhớ đến một
“phiên chợ chiều” đã “vãn” của một “làng xa”. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc
thơ thông qua một giác quan mơ hồ - thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ
ấy lại được nhân lên qua chữ “đâu” ở đầu câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như
không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy
tràng giang.
Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình
ảnh của nắng và bầu trời :
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.
Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”,
trong cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống
thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc
đáo – “ sâu chót vót ”. Cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước.
Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm
xúc buồn, trầm lắng.
Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ
khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh “bến cô liêu”.
Bến ấy cũng đại diện cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến
nếu không có sinh hoạt của con người nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh “bến cô liêu” với âm
hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế,
nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra
mãi đến vô tận, vô cùng.
Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn,
mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm
giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc
ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù
sinh, cho cuộc sống không ý nghóa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói
về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm
giác vô đònh ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Nhưng
câu thơ thứ nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô đònh mà từng hàng bèo
trôi dạt ấy dường như còn để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi
người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ
cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ “không” nối tiếp nhau cứ dội lên mãi trong
câu thứ hai và thứ ba :
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Chữ “không đò” được hiệp âm với chữ “mênh mông” ở trước, chữ “không cầu” lại
được láy âm với câu trên, đặt ở ngay đầu câu, khiến cho cảm giác trơ trọi thể hiện rõ
nhất ở khổ thứ ba này. Không có con đò đậu. không có cả một chiếc cầu tónh lặng, vô
tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể mường
tượng ra qua hình ảnh con đò.Như vậy hình ảnh “đò” được đặt trước vì động hơn.
Nhưng đến chữ “chút niềm thân mật” thì hình ảnh con đò và cây cầu không chỉ là
những hình ảnh thực mà còn là cảm giác về cuộc đời vắng tình người. Cuộc đời quá
mênh mông, một chút niềm thân mật để nối hai bờ cũng không thể nào tìm ra, dù “thân
mật” đã là mức độ tình cảm thấp nhất trong những mức độ tình cảm.
Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà
thơ viết câu thơ cuối :
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho
người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối

âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×