Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

SKKN tổ chức dạy tiết ôn tập (tổng kết) phần văn học trong chương trình ngữ văn THPT ở trung tâm GDTX mường khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.21 KB, 26 trang )

Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI

SỞTHƢỜNG
GIÁO XUYÊN MƢỜNG KHƢƠNG
TRUNG TÂM GIÁO DỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương
trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung tâm Giáo
dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động của học viên.

 
Họ và tên: Nguyễn Thị Thuý
Chức vụ : Giáo viên
Tổ chuyên môn: Văn hoá
Đơn vị công tác:
Trung tâm Giáo dục thường xuyên Mường Khương

Ngày 28 tháng 4 năm 2014

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

1



Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Mục lục
NỘI DÙNG

TRANG

A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
III. Các biện pháp tổ chức ôn tập phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ
văn Trung học phổ thông ở Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng
Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên
1. Vài nét về nội dung ôn tập (tổng kết) văn học trong chƣơng trình Ngữ
văn Trung học phổ thông
2. Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hƣớng phát huy tính tích
cực chủ động của học viên.
2.1. Phƣơng pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) Văn học hiện nay
2.2. Cách thức tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hƣớng phát
huy tính tích cực, chủ động của học viên.
2.3.Cách tiến hành
2.4. Tạo không khí văn chƣơng trong tổ chức hoạt động ôn tập (tổng
kết) Văn học
2.5. Hệ thống câu hỏi
2.6. Đánh giá tổng kết
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
C. Kết luận


3
5
5
6

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

13

13
13
14
14
15
16
17
20
20
23

2


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

A. ĐẶT VẤN ĐỂ
Việc nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ Văn luôn là nỗi trăn trở của mỗi một
giáo viên tâm huyết, yêu nghề. Nỗi trăn trở đó xuất phát từ đặc thù của môn học
cũng nhƣ từ thực tiễn đối tƣợng của hoạt động dạy học là học viên đang học tại các

Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên, nhất là học viên ở vùng cao, vùng sâu vùng xa.
Ngữ Văn là môn học không những có khả năng cung cấp những tri thức khoa học
mà còn có khả năng rèn luyện sự sáng tạo, hình thành nhân cách, lối sống và cả
những kỹ năng cho học viên. Dạy Văn là dạy làm ngƣời với ý nghĩa trọn vẹn nhất.
Ngày nay nhân loại loài ngƣời đang ở trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Thế kỷ của khoa học và công nghệ, với sự bùng nổ mạnh mẽ của tất cả các ngành
khoa học. Thế kỷ đƣợc đánh giá thành công rực rỡ về cải tiến đời sống nhân loại.
Việt Nam chúng ta đang trên con đƣờng phát triển và hội nhập, đất nƣớc chúng ta
cũng đã có không ít những nhà khoa học thành công trong nhiều lĩnh vực nghiên
cứu các công trình để phục vụ cho sự phát triển của nƣớc nhà, đồng thời gây đƣợc
ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn bè quốc tế. Có đƣợc sự thành công xuất sắc ấy, các
nhà khoa học của chúng ta đã từng phải "dùi mài kinh sử" dƣới mái trƣờng phổ
thông, và chính những mái trƣờng đó đã nuôi dƣỡng ƣớc mơ, hoài bão, công trình
nghiên cứu của họ. Có thể khẳng định rằng: họ đã hoàn thiện về nhân cách cơ bản
về trí tuệ trong những chiếc nôi ấy mà lời ru chính là những bài học đầu tiên. Nhƣ
vậy ngành giáo dục nói chung, giáo dục trong nhà trƣờng phổ thông nói riêng có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng quyết định đến sự thành công đó đóng góp một phần
không nhỏ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá đƣợc vai trò đó,
Đại hội Đảng VIII đã quyết định đƣa giáo dục lên mặt trận hàng đầu trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc đòi hỏi phải có những con ngƣời, có phẩm
chất, có kiến thức khoa học để đƣa đất nƣớc tiến lên “Sánh vai với các cƣờng quốc
năm châu”. Thực hiện niềm mong mỏi tha thiết của Bác Hồ kính yêu.
Các môn khoa học nói chung, môn Ngữ văn nói riêng có vị trí quan trọng
trong sự phát triển tiến bộ của đời sống xã hội. Nó là cơ sở cho các môn khoa học
khác...Với tầm quan trọng nhƣ vậy nên nó cần phải đƣợc quan tâm về cả nội dung
hình thức và phƣơng pháp giảng dạy. Thấm nhuần đƣợc điều đó, bản thân tôi là
giáo viên trực tiếp giảng dạy luôn trăn trở làm thế nào để có phƣơng pháp dạy học
phù hợp với đối tƣợng học viên, giúp học viên nắm đƣợc kiến thức và tạo đƣợc nền
móng vững chắc cho thế hệ tƣơng lai. Vậy thiết nghĩ việc lớn phải bắt đầu từ việc
nhỏ, rất nhỏ thì mới hy vọng thành công.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

3


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Với học viên, dù sau này họ có chọn văn chƣơng làm bộ môn gắn bó của đời
mình hay không thì những hiểu biết về văn học dân tộc và văn học nhân loại (ở bất
kì thời đại nào) sẽ là hành trang đi suốt cuộc đời để làm nên cái gọi là “trình độ văn
hoá” của mỗi ngƣời. Trong dòng chảy bất tận của văn học dân tộc và nhân loại, có
lẽ mọi ngƣời không thể nào quên những đỉnh cao văn học nhƣ Bình Ngô đại cáo
của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của
Nguyễn Đình Chiểu, Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, Những ngƣời khốn khổ
của V. Huy- Gô, Lão Gô- ri- ô của Ban- Dắc… và sẽ còn rất nhiều những đỉnh cao
có khả năng tạo ra sự đối thoại . Để có thể cũng có sâu sắc hơn về vốn tri thức ấy,
việc tổ chức cho học viên ôn tập phần văn học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nhà trƣờng Trung học phổ thông có vai trò hết sức quan trọng trong việc
dạy văn học vì số lƣơng tiết dạy khá nhiều, và vì thế việc ôn tập phần văn học càng
trở nên quan trọng. Hoà nhập với việc đổi mới chƣơng trình, sách giáo khoa,
phƣơng pháp kiểm tra đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ
văn hiện nay, rút kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp và bằng thực tế giảng dạy
của mình, tôi xin giới thiệu sáng kiến kinh nghiệm: Tổ chức ôn tập (tổng kết)
phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung tâm
Giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động của học viên.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương


4


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Chúng ta biết rằng, bộ môn Ngữ văn có vai trò rất quan trọng trong chƣơng
trình THPT, bởi nó là yếu tố quyết định đối với việc hình thành phẩm chất và nhân
cách đạo đức cho học viên. Ta vẫn thƣờng nói “Văn học là nhân học”, và càng đi
sâu vào phân tích và tìm hiểu chức năng của văn học thì ta càng thấy đƣợc tính cần
thiết của bộ môn này trong đời sống của mỗi con ngƣời nói chung và học viên nói
riêng. Đó là chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giáo dục.
Điều đáng nói hơn là văn học ngày càng đóng vai trò quan trọng khi đời sống
con ngƣời càng đƣợc nâng cao, nó không chỉ giúp cho chúng ta những điều đã nói
ở trên mà còn giúp cho cuộc sống càng thêm phần ý nghĩa, nhất là tạo cho tâm hồn
con ngƣời càng trở nên tƣơi mới, không còn sự khô cứng và héo úa.
Tuy nhiên, hiện nay điều làm cho tất cả giáo chức nói riêng và toàn xã hội nói
chung đang rất quan tâm đó là việc một bộ phận không nhỏ học viên có thái độ
không quan tâm hay không còn mặn mà với bộ môn học này. Điều đó cũng đang
đặt ra một bài toán khó giải cho những nhà quản lý giáo dục và đội ngũ giáo chức
dạy học bộ môn này.
Nếu để trả lời cho câu hỏi vì sao lại có hiện tƣợng đó thì có rất nhiều lý do
khác nhau: nguyên nhân khách quan có, chủ quan có… nhƣng điều mà tôi quan tâm
ở đây là không phải đi sâu vào phân tích, tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân của nó
nhƣ một nhà xã hội học mà chỉ nhìn nhận nó ở trên góc độ là một giáo viên giảng
dạy bộ môn Ngữ Văn Trung học phổ thông với những suy tƣ, trăn trở, lo lắng và
tâm huyết với bộ môn để khắc phục phần nào tình trạng trên.
Chúng ta vẫn thƣờng quan tâm rất nhiều đến chất lƣợng các bộ môn học trong

nhà trƣờng. Đây là vấn đề đang đƣợc sự quan tâm của toàn ngành giáo dục cũng
nhƣ toàn xã hội hiện nay. Do vậy, trong nhiều năm trở lại đây việc cố gắng tìm ra
một số phƣơng pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn hữu hiệu để nhằm nâng cao chất
lƣợng giáo dục nói chung và tạo sự hứng thú cho các em học viên nói riêng là một
vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên cũng nhƣ toàn ngành giáo dục.
Đến nay có rất nhiều giải pháp hữu hiệu mà tôi cho rằng nó mang lại hiệu quả
cao nhƣ việc cải cách sách giáo khoa đến việc thay đổi phƣơng pháp giáo dục theo
hƣớng tích cực, chủ động của học viên nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục trong
xu thế mới hiện nay.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

5


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Điều đáng quan tâm nhất là chất lƣợng học viên của trƣờng tôi đang giảng dạy
rất thấp, điều đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, khách quan có, chủ quan có.
Nhƣng theo tôi, một phần không nhỏ là do chính đội ngũ giáo viên chƣa thực sự đặt
mình vào đối tƣợng học viên, chƣa thu hút và tác động đƣợc sự yêu thích học tập
cho các em. Chƣa tạo cho các em một sự hứng thú, yêu thích việc học và chƣa kịp
thời động viên khích lệ để các em có một sự tự tin nào đó trong quá trình học tập.
Cho nên có nhiều học viên mang tâm lý chán nản với việc học.
Đặc biệt đối với bộ môn Ngữ Văn cũng nằm trong hoàn cảnh tƣơng tự nhƣ
thế. Qua nhiều năm giảng dạy tại Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng
Khƣơng, tôi nhận thấy rằng, có một bộ phận không nhỏ học viên thiếu sự mặn mà
và không yêu thích bộ môn văn. Chính vì thế có nhiều lúc các em lên lớp lại tỏ ra
thái độ không quan tâm, không muốn học hoặc không chú ý nghe giảng, thậm chí

có nhiều học viên nằm ngủ hoặc nói chuyện riêng, hoặc có một số học viên chế
giễu, chọc ghẹo những bạn chăm chỉ học bộ môn này.
Do đó, làm thế nào để giáo dục các em học viên có thái độ học tập đúng đắn
và yêu thích bộ môn học này đó là vấn đề mà tôi luôn suy nghĩ, trăn trở để tìm ra
những giải pháp tối ƣu nhất nhằm phần nào khắc phục đƣợc tình trạng trên. Đặc
biệt không chỉ giúp các em đạt kết quả học tập tốt hơn mà còn giúp sự hoàn thiện
về nhân cách của một con ngƣời vừa hồng vừa chuyên.
Những vấn đề nêu trên vừa là cơ sở thực tiễn, vừa là cơ sở lí luận để mỗi
ngƣời giáo viên văn trong nhà trƣờng phổ thông phải có trách nhiệm tìm ra con
đƣờng hƣớng dẫn học viên củng cố, khắc sâu kiến thức một cách tích cực sáng tạo
theo đặc điểm tình hình xã hội cũng nhƣ phong tục tập quán địa phƣơng và trình
độ cá nhân. Đặc biệt hiện nay toàn ngành đang hƣớng đến mục tiêu Dạy thực chất,
Học thực chất, Thi thực chất thì điều đó càng có ý nghĩa. Vấn đề tƣởng chừng
đơn giản nhƣng khá phức tạp nếu ngƣời giáo viên Ngữ văn không tự hình thành
những kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học, hệ thống hoá vấn đề một cách dễ
hiểu.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Nói đến phƣơng pháp dạy học ngữ văn ở nhà trƣờng phổ thông hiện
nay không thể không nhắc tới các hiện tƣợng rất phổ biến trong các giờ học
văn hiện nay.
Dạy học đọc chép. Hiện tƣợng dạy học đọc chép trong môn văn trƣớc
đây và môn ngữ văn rất phổ biến ở các trƣờng phổ thông hiện nay. Đọc
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

6


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên


chép trong giờ chính khóa và trong các lò luyện thi. Thầy cô đọc trƣớc, học
viên chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi bảng rồi học viên chép theo.
Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn học hay khái quát về tác gia thầy
cô cũng thƣờng tóm tắt rồi đọc cho học viên chép. Đối với bài “giảng văn”
thầy cô cũng thƣờng nêu “câu hỏi thu từ”, rồi giảng, sau đó đọc chậm cho
học viên chép các kết luận, nhận định. Trong cách dạy này học viên tiếp
thu hoàn toàn thụ động, một chiều.
Dạy nhồi nhét. Dạy nhồi nhét cũng là hiện tƣợng phổ biến do thầy cô
sợ dạy không kĩ, ảnh hƣởng đến kết quả làm bài thi của học viên, cho nên
dạy từ a đến z, không lựa chọn trọng tâm, không có thì giờ nêu vấn đề cho
học viên trao đổi, sợ “cháy” giáo án. Kết quả của lối dạy này cũng là làm
cho học viên tiếp thu một cách thụ động, một chiều.
Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học. Một hiện tƣợng thƣờng
thấy là cách giảng văn trên lớp nhƣ cách nghiên cứu văn học của các học
giả, nhƣ cách học của sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm lí,
về kĩ thuật ngôn từ, về phƣơng pháp sáng tác… Trong khi đố đối với học
viên môn ngữ văn chỉ cần dạy cho học viên đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm
nhƣ một độc giả bình thƣờng là đủ, nghĩa là chỉ cần nắm bắt đúng ý nghĩa,
tƣ tƣởng của tác phẩm, một vài nét đặc sắc về nghệ thuật đủ để thƣởng
thức và gây hứng thú.
Học viên học thụ động, thiếu sáng tạo. Tƣơng ứng với cách dạy học
nhƣ trên học viên tất nhiên chỉ tiếp thu một cách thụ động mà thôi. Tính
chất thụ động thể hiện ở việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà
chỉ còn biết học thuộc để trả bài và làm bài. Cách học đó tất nhiên cũng
không có điều kiện tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo, cũng không đƣợc khuyến
khích sáng tạo.
Học viên không biết tự học. Cách học thụ động chứng tỏ học viên
không biết tự học, không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, khô ng biết
cách chủ động tự đọc sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, không biết cách
phân biệt cái chính và cái phụ, không biết tìm kiến thức trọng tâm để học,

không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chƣa biết. Nói tóm lại là chƣa biết
cách tự học.
Học tập thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa trò với trò . Mỗi cá
nhân trong quá trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi ngƣời thƣờng chỉ chú
ý vào một số điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến
thức khác. Trong điều kiện đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập, giữa
thầy giáo và học viên, học viên với học viên có thể nhắc nhở nhau, bổ sung
cho nhau, làm cho kiến thức đƣợc toàn diện và sâu sắc.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

7


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Học thiếu hứng thú, đam mê. Kết quả củ việc học thụ động là học tập
thiếu cảm hứng, thiếu lửa, thiếu niềm ham mê, mà thiếu những động cơ nội
tại ấy việc học tập thƣờng là ít có kết quả.
Về nguyên nhân xã hội của thực trạng.
Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động,
thiếu hào hứng của học viên Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng
Khƣơng nói riêng và học sinh phổ thông trung học nói chung . Xét về xã
hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, dễ hiểu là
đại đa số học viên chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật,
kinh tế…ít có học viên hứng thú học văn, bởi phần đông học viên nghĩ rằng
năng lực văn là năng lực tự nhiên của con ngƣời xã hội, không học vẫn biết
đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một chút, ra đời vẫn
không sao, vẫn nói và viết đƣợc, còn không học ngoại ngữ, không học khoa
học, kĩ thuật thì coi nhƣ chịu phép. Có thể đó là lí do làm cho đa số học

viên không cố gắng học ngữ văn. Thực tế học sinh một số trƣờng chuyên
khoa học tự nhiên coi nhẹ học văn vẫn đƣợc lên lớp. Rõ ràng tâm lí cá
nhân, môi trƣờng học tập, nếp sống, quan niệm sống của đông đảo dân cƣ
đã có nhiều thay đổi. Đó là một vấn đề rộng lớn, ngoài tầm kiểm soát của
nhà trƣờng và bộ môn mà chúng ta phải chấp nhận. Tuy nhiên ở đây còn c ó
vấn đề thuộc phƣơng pháp dạy học ngữ văn và chúng ta chỉ có thể nói
nguyên nhân về phƣơng pháp dạy học văn mà thôi.
Về phía thầy giáo, xã hội ta là xã hội tƣ duy theo kiểu giáo điều đã lâu
năm, không biết đối thoại, không cho đối thoại, thậm chí t heo lối phong
kiến xƣa, coi đối thoại là hỗn, là láo, thầy bảo gì chỉ biết cắm đầu nghe. Xã
hội nhƣ thế thì nhà trƣờng nhƣ thế không sao khác đƣợc. Nếu trong giờ học
mà tổ chức đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận vờ vịt. Xã hội sao thì
nhà trƣờng nhƣ vậy. Nếu không thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục.
Về nguyên nhân ở phương pháp dạy học văn
Theo tôi, thực trạng dạy học văn nhƣ trên không phải do một lí do
cục bộ nào, không phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, không cố
gắng, mà chủ yếu là do trên tổng thể ở nƣớc ta cho đến nay nói chung vẫn
tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chúng và
dạy học văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc
biệt là lí luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn còn chƣa hề đổi mới hoặc chỉ mới
là hô hào mà chƣa thực sự có quan niệm mới về dạy học. Sơ bộ tập hợp, có
mấy nguyên nhân chủ yếu sau.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

8


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên


Trƣớc hết là phƣơng pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn
giảng. Thật vậy, cách dạy học ngữ văn từ trƣớc tới nay có mấy lệc h lạc
nhƣ: Đối với bài học tác phẩm văn học thì chú trọng cái gọi là “giảng
văn”. Bao nhiêu sách giáo khoa trƣớc nay đều gọi đó là môn “Văn học trích
giảng”, “Văn học giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân
tích tác phẩm văn học”. Dạy văn hầu nhƣ chỉ có một đƣờng là “giảng”,
“bình”, “luận”, “phân tích”. Giáo án soạn ra là để cho giáo viên “giảng”,
biểu diễn trên lớp. Giáo viên nào tham giảng thì thƣờng “cháy” giáo án.
Quan niệm Giảng văn nhƣ thế có phần sai tận gốc. Một là, văn học sáng tác
ra cho ngƣời đọc đọc, do đó môn học tác phẩm văn học phải là môn dạy
học viên đọc văn, giúp học viên hình thành kĩ năng đọc văn, trƣởng thành
thành ngƣời đọc có văn hoá, chứ không phải là ngƣời biết thƣởng thức việc
giảng bài của thầy. Chính vì vậy sai lầm thứ hai là môn học văn hiện
nay thiếu khái niệm khoa học về đọc văn. Khái niệm “đọc” chỉ đƣợc hiểu là
đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà không thấy nói là đọc – hiểu. Đối với
phân môn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho học viên tập làm theo
những đề yêu cầu học viên viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu
khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Ở đây bộ
đề thi của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trƣớc đây và của Bộ
Giáo dục và Đào tạo sau này cũng nhƣ phần lớn cách ra đề trong các kì thi
tuyển sinh Đại học và Cao đẳng có vai trò tiêu cực trong việc tạo ra một lối
làm văn thiên về học thuộc, sao chép và thiếu sức sáng tạo của học viên.
Đó cũng là lối dạy làm văn sai tận gốc. Việc đó lại càng thúc đẩy lối học
thuộc, học tủ và thí sinh chỉ loanh quanh học thuộc một số bài văn trong
chƣơng trình đủ đối phó với các kì thi làm văn.
Thứ hai là phƣơng pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt,
học viên phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phƣơng pháp phả n
sƣ phạm, bởi vì bản chất học tập không phải là tiếp nhận những gì đƣợc
đƣa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở

nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã đƣợc tích luỹ. Học tập thực
chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở
các tác động của bên ngoài và của hoạt động của ngƣời học. Do đó việc áp
đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại
dấu ấn trong tâm khảm ngƣời học, không trở thành kiến thức hữu cơ của
một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.
Thứ ba, chƣa xem học viên là chủ thể của hoạt động học văn, chƣa
trao cho các em tính chủ động trong học tập. Coi học viên là chủ thể của
hoạt động học tập của mình thì học viên phải là ngƣời chủ thể trong các
hoạt động học tập, là ngƣời chủ động kiến tạo các kiến thức của mình mà
GV chỉ là ngƣời tổ chức các hoạt động học tập cho học viên. Giáo án của
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

9


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

giáo viên phải là kế hoạch hoạt động của học viên để tự kiến tạo kiến thức,
chứ không phải là Giáo án để giáo viên giảng và bình ở trên lớp.
Thứ tƣ, chƣa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc văn,
một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thƣờng nói dạy học
văn là dạy cảm thụ văn học. Nói nhƣ vậy là chƣa thật chính xác, bởi vì học
viên không phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trƣớc hết phải đọc để biến
các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tƣợng, trên cơ sở đó mới
cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm
thụ âm nhạc hay hội hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục
bức tranh. Trong văn học chính ngƣời đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà
mình sẽ thƣởng thức. Đọc không hiểu thì không có gì để cảm thụ cả. Vì thế

không thể bỏ qua hoạt động đọc và khái niệm đọc. Có ngƣời nói dạy văn là
dạy học viên lặp lại, đi trở lại con đƣờng của ngƣời sáng tạo văn, tức nhà
văn. Đó là nhầm lẫn giữa hoạt động sáng tạo của nhà văn và sáng tạo của
ngƣời đọc. Thực ra đó là hai hoạt động khác nhau. học viên trƣớc hết phải
tiếp cận văn bản nhƣ một ngƣời đọc đã, sau đó, những ai có năng khiếu
sáng tác mới đi lại con đƣờng của nghệ sĩ.
Do chƣa có khái niệm đọc cho nên chƣa có hệ thống biện pháp dạy đọc
văn hữu hiệu và hoàn chỉnh. Ngoài việc đọc thành tiếng và đọc diễn cảm,
chúng ta hầu nhƣ chỉ có các khái niệm giảng, bình, phân tí ch, bình chú, nêu
câu hỏi…
Có thể là chƣa hoàn toàn chính xác, song những điều nói trên có thể
coi là bức tranh chung về phƣơng pháp dạy học ngữ văn hiện nay. Một số
băng hình “dạy mẫu” do một số chuyên viên Bộ tổ chức quay, tuy có chỉ
đạo, gợi ý, bàn bạc trƣớc đã phản ánh rất trung thành tính chất lạc hậu, cũ
kĩ về phƣơng pháp dạy học văn ở các trƣờng Trung học phổ thông của
chúng ta. Một số sách giáo án mẫu của nhiều chuyên viên, tác giả do viết
vội vàng cũng thể hiện sự lạc hậu cũ kĩ so với phƣơng pháp mới.
Tất cả những biểu hiện nêu trên của dạy học tiêu cực không chỉ là sản
phẩm tiêu cực, thiếu hiệu quả cục bộ của hoạt động dạy học của một số giáo viên
hoặc địa phƣơng nào đó, mà là hệ quả của sự lạc hậu về phƣơng pháp tổng thể, kéo
dài, chậm khắc phục. Hậu quả của nó không chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục,
mà hơn thế, còn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học viên trơ lì, chán học, làm
mòn mỏi trí tuệ, phá hoại tƣ duy. Hệ quả của nó là một hệ quả kép, vừa giảm thiểu
kết quả giáo dục vừa phá hoại bản thân giáo dục. Phải thấy rõ điều đó thì mới thấy
nhu cầu đổi mới.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

10



Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Do đó muốn đổi mới phƣơng pháp dạy học văn thật sự, vấn đề không chỉ là
gợi ra một vài phƣơng pháp, một vài biện pháp kĩ thuật, mà phải xây dựng lại một
cách cơ bản quan niệm dạy học mới, vũ trang các khái niệm mới mới mong có sự
đổi mới đích thực về phƣơng pháp dạy học ngữ văn.
Muốn xác lập hệ thống các phƣơng pháp dạy học ngữ văn trƣớc tiên chúng ta
cần xác định nội dung môn học, xác định các hoạt động cơ bản để đạt đƣợc kết quả
của môn học, rồi từ đó mà xác định các phƣơng pháp cụ thể đặc thù của bộ môn.
Phƣơng pháp dạy học ngữ văn phụ thuộc vào đặc trƣng của bộ môn.
Hơn nữa trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy những mặt thuận lợi và khó
khăn đối với việc giảng dạy bộ môn này nhƣ sau:
Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng còn gặp nhiều khó khăn về
cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy học còn hạn chế hơn so với các trƣờng
cùng cấp trong tỉnh. Mặt khác, các em đều là trụ cột gia đình đi học còn vƣớng bận
việc gia đình và địa phƣơng, điều kiện xã hội hết sức khó khăn nhƣ từ việc tiếp cận
thông tin văn hóa thƣờng ngày đến việc đƣờng giao thông đi lại rất khó khăn cũng
nhƣ điều kiện sống của nhân dân nơi đây là rất thấp nên đã ảnh hƣởng không nhỏ
đến việc học tập của các em học viên.
Phần nhiều học viên là con em của nhiều dân tộc thiểu số (chiếm hơn 90%),
mặt khác các em học viên thuộc nhiều dân tộc khác nhau (gồm dân tộc H.Mông,
Nùng, Tày, Pa Dí, Dao…), độ tuổi lại không đồng đều cho nên năng lực học tập
của các em cũng không đồng nhất. Do đó gặp rất nhiều hạn chế trong tiếp thu bài
giảng, và tất nhiên cũng khó khăn hơn nhiều cho giáo viên khi tiếp cận và giảng
dạy đối với những học viên này so với các em học viên khác.
Hơn nữa phần lớn học viên đến từ nhiều xã khác nhau trên khắp cả huyện, đặc
biệt phần lớn lại là con em làm nghề nông nghiệp, điều kiện sống hết sức khó khăn.
Có nhiều em không có điều kiện đến trƣờng, chƣa kể đến việc có nhiều phụ huynh

chƣa quan tâm đến việc học hành của con em mình mà chỉ lo làm ăn cho đủ qua
ngày, qua tháng.
Bên cạnh những khó khăn trên cũng có những thuận lợi nhất định: Phần lớn
các em có ý thức chấp hành các quy định của Trung tâm và của lớp, biết nghe lời
thầy cô giáo và đặc biệt điều đáng mừng nhất là chƣa phát hiện học viên có dấu
hiệu vi phạm các tệ nạn xã hội nhƣ nghiệm ma túy... Hơn nữa, với sự nỗ lực của
nhà trƣờng trong việc dạy học phụ đạo yếu kém nên tôi có điều kiện thuận lợi về
mặt thời gian để giảng dạy và rèn luyện thêm cho các em trong việc học bộ
môn này đƣợc tốt hơn.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

11


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Trong thực tế, tình hình ngại học các bộ môn khoa học xã hội nhân văn, trong
đó có bộ môn Ngữ văn đang khá phổ biến ở học viên Trung tâm giáo dục thƣờng
xuyên Mƣờng Khƣơng nói riêng và học sinh Trung học phổ thông nói chung: kiến
thức học xong vội quên, nhất là những kiến thức cơ bản cần phải ghi nhớ; trên lớp
học viên ngại thảo luận, tranh luận; một không khí buồn tẻ bao bọc nhiều giờ văn.
Sự ngại học, coi nhẹ đó dẫn đến thực tế đáng buồn là kết quả thi tốt nghiệp, Đại
học, Cao đẳng còn thấp. Nguyên nhân trƣớc hết là do một số giáo viên Ngữ văn
chƣa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lƣợng giờ học, quá nặng nề đến việc
trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải đƣợc tổ chức thế nào để giúp
học viên tiếp nhận một cách hứng thú. Việc ôn tập phần văn học - việc mà nhiều
ngƣời cho rằng dễ vì đã có trong sách giáo khoa, lại càng phải chú ý. Việc ôn tập
phần văn học hiện nay, bên cạnh những điều đã làm đƣợc vẫn còn một số vấn đề
phải bàn.

Qua những lần dự giờ thăm lớp theo kế hoạch chuyên môn của tổ, nhà trƣờng,
đặc biệt khi làm nhiệm vụ thanh tra hoạt động sƣ phạm nhà giáo theo quyết định
của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Lào Cai, tôi nhận thấy nhiều giáo viên dạy
Ngữ văn đƣợc thanh tra khi dạy phần ôn tập văn học đã không chú ý đến việc hình
thành kĩ năng khái quát hoá từ những gì cụ thể. Giáo viên chủ yếu mới dừng lại ở
cấp độ tƣờng thuật, mô tả thông tin chứ chƣa hƣớng học viên tới tầng sâu của thông
tin, ví nhƣ chỉ cho học viên nêu lại hoàn cảnh sáng tác, chủ đề tác phẩm… Cũng có
những giáo viên chủ động tìm tòi đƣa thêm kiến thức, nhƣng lại là những phần kiến
thức hầu nhƣ ít liên quan đến bài học khiến bài dàn trải. Những câu hỏi đƣa ra miễn
cƣỡng, gƣợng ép, chƣa tiếp nối uyển chuyển giữa các phần kiến thức. Nhƣ thế, rõ
ràng giáo viên chƣa nhận thức rõ vai trò quan trọng việc ôn tập, chƣa xác định đúng
bản chất của đổi mới phƣơng pháp, tâm lí sợ học viên không biết nên phải nói hết,
khả năng linh hoạt trong giờ dạy còn hạn chế. Điều đó đã góp phần đưa đến thực
tế: người học ngại học, người dạy ngại dạy.
Ôn tập là để cũng cố những kiến thức đã học, mặt khác còn là dịp để tổng kết
quá trình học một học kì hay một năm. Việc tổng kết sẽ giúp chúng ta nâng cao
nhận thức, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Thế nhƣng, trong thực tế phần lớn
giờ ôn tập văn học còn rất nhiều điều bất cập, chƣa đạt đƣợc mục đích yêu cầu nêu
trên. Những ngƣời thầy tâm huyết với nghề, quan ngại trƣớc thực tế dạy- học Ngữ
văn đã thấy vấn đề: cần tiếp tục chú trọng hơn nữa việc đổi mới phƣơng pháp dạy
học Ngữ văn ở đây, tôi nhấn mạnh đến vấn đề rất cụ thể: đổi mới cách dạy phần ôn
tập (tổng kết) Văn học.
Để thực hiện tốt việc ôn tập văn học theo theo tinh thần đổi mới , phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, bản thân tôi đã không ngừng đổi mới về
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

12


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung

tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

tƣ duy, nhận thức từ khâu soạn giáo án (Thiết kế bài học) cho đến cách sử dụng
thiết bị dạy học. Lập phiếu điều tra để nắm bắt tình hình học tập của học viên, từ đó
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế ở Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng
Khƣơng và địa phƣơng.
III. Các biện pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương
trình Ngữ văn THPT ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên:
1. Vài nét về nội dung ôn tập (tổng kết) văn học trong chương trình Ngữ
văn Trung học phổ thông:
Thời lƣợng dành cho Văn học Việt Nam, Văn học nƣớc ngoài có nhiều nội
dung mới và hay đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá, khả năng hội nhập và giao lƣu văn
hoá. Dù còn mới mẻ nhƣng nội dung các bài nhƣ Thơ Hai- cư ( Văn học Nhật
Bản), Người trong bao ( Sê- Khốp, Văn học Nga ), Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên ( Nguyễn Dữ ), Hầu trời ( Tản Đà ), Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn
Minh Châu)… của văn học Việt Nam . . . nhiều tác phẩm nhật dụng, nghị luận đã
góp phần đáng kể giúp học viên có cái nhìn toàn diện, hệ thống về tri thức văn học.
Kéo theo đó số tiết ôn tập, trong đó có phần ôn tập Văn học (Văn học Việt Nam và
Văn học nƣớc ngoài) tăng lên, đƣợc bố trí ở cuối học kì, cuối năm học hay kết thúc
một bộ phận, giai đoạn, khuynh hƣớng văn học nào đó.
Bài ôn tập (tổng kết) Văn học đƣợc biên soạn có nhiều cải tiến so với trƣớc
đây, cụ thể đó không chỉ là những câu hỏi thuần tuý mà còn là những định hƣớng
về nội dung và phƣơng pháp ôn tập. Nội dung trong bài ôn tập Văn học gồm cả
văn học Việt Nam, Văn học nƣớc ngoài, Lí luận văn học. Sự phân bố nhƣ vậy là
hợp lí, không chỉ về kiến thức mà cả về phƣơng pháp.
2. Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát huy tính
tích cực chủ động của học viên.
Tầm quan trọng của việc đổi mới phƣơng pháp dạy học nói chung và dạy học
Ngữ văn nói riêng trong nhà trƣờng phổ thông đã đƣợc chứng minh trong thực tiễn

thời gian qua. Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện nhiều giải
pháp tích cực để nâng cao chất lƣợng đào tạo mà khâu then chốt là không ngừng
đổi mới phƣơng pháp dạy học. Xét một cách tổng thể, nhiều vấn đề về lí thuyết
dạy học đã đƣợc phổ biến, rút kinh nghiệm, song đôi lúc chƣa phù hợp ở một số
địa phƣơng. Vì thế tôi mạnh dạn đƣa ra phƣơng pháp tổ chức ôn tập (tổng kết)
phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung tâm giáo
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

13


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động
của học viên cụ thể nhƣ sau:
2.1. Phương pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) Văn học hiện nay
Phƣơng pháp dạy phần ôn tập (tổng kết) Văn học đang đƣợc sử dụng rộng
rãi ở nhà trƣờng phổ thông nói chung và Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng
Khƣơng nói riêng hiện nay là giáo viên hƣớng dẫn học viên làm việc bằng cách hệ
thống hoá những tác giả, tác phẩm đã học trong học kì, trong năm, khẳng định một
lần nữa những nét chính về nội dung tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật dựa trên
sách giáo khoa. Có thầy cô còn khái quát hoá kiến thức cho các em dựa tên mô
hình không gian, ví nhƣ ở lớp 10 học Văn học dân gian, Văn học trung đại Việt
Nam, sử thi ấn Độ, Thơ Đƣờng, tiểu thuyết Minh - Thanh của Văn học Trung
Quốc, Thơ Hai- Cƣ của Nhật Bản; hoặc theo mô hình văn học dân tộc: Pháp có V.
Huy- Gô, H. Ban- Dắc; Nga có A. P u- Skin, Sê- Khốp; Văn học Việt Nam có
Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệu…trong chƣơng trình Văn học 11. Nội dung ôn
tập trong sách giáo khoa có những vấn đề lớn, sâu đòi hỏi độ tƣ duy cao nên trong
thực tế giáo viên chỉ chọn một số nội dung đơn giản, dễ dạy. Số câu hỏi, nội dung

còn lại hoặc là bị bỏ qua hoặc đƣợc giải thích một cách nông cạn, đại khái. Nhìn
chung, so với bài đọc văn, bài ôn tập chƣa có một cách thiết kế thống nhất (Sách
thiết kế của nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhiều nhà giáo, sách giáo viên… cũng
thực hiện mỗi cách khác nhau). Tuy nhiên, một thực trạng nhƣ vậy không hoàn
toàn là cái dở mà cũng có cái hay của nó, đó là sự đa dạng về phong cách và
phƣơng pháp. Dĩ nhiên điều đó cũng gây nên sự lúng túng, thiếu tự tin, thiếu định
hƣớng cho nhiều giáo viên, kể cả giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy.
2.2. Cách thức tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động của học viên.
Tôi rất tâm đắc với gợi ý thật cụ thể của cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng:
“Ngƣời thầy phải suy nghĩ, phải chuẩn bị một cách sáng tạo, thầy và trò có thời
gian để đối thoại, thảo luận, tranh luận về tất cả cái gì có liên quan đến bài học. Trí
tuệ, tài năng, tác phong của ngƣời thầy đƣợc thể hiện ở đây nhƣ nguồn ánh sáng
soi vào bóng tối nhằm phát hiện những gì còn ẩn núp ở đó ”. Đây cũng là cơ hội để
học viên phát huy những gì là sáng tạo, là độc đáo để góp vào cuộc thảo luận
chung.
Một trong những vấn đề then chốt trong việc nâng cao chất lƣợng dạy học
Ngữ văn là vấn đề chủ thể học viên. Học viên cần đƣợc xác định nhƣ là một chủ
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

14


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

thể có ý thức. Phát huy tính năng động của chủ thể, năng lực sáng tạo của mỗi
ngƣời cũng nhƣ phát huy chủ thể học viên chính là đáp ứng một phần quan trọng
của phƣơng pháp dạy học thời đại bùng nổ thông tin và hội nhập toàn cầu (Điều đó
gải thích tại sao nhiều chƣơng trình giáo dục của nƣớc ngoài hết sức linh hoạt, một

giờ học có khi cả thầy và trò cùng thảo luận và khám phá bài học).
Ở đây, tôi không có tham vọng đƣa ra một cách dạy mới thay thế cách dạy
phong phú đa dạng mà lâu nay giáo viên vẫn thƣờng sử dụng và còn tiếp tục đƣợc
sử dụng. Tôi chỉ xin giới thiệu một cách dạy mà ở đó tính chủ động, tích cực của
học viên đƣợc phát huy.
Thời gian gần đây trên các chƣơng trình phát sóng của Đài truyền hình Việt
Nam xuất hiện nhiều sân chơi tri thức bổ ích, thú vị, thu hút sự quan tâm yêu thích
không chỉ của học viên, sinh viên mà của toàn xã hội nhƣ: Ai thông minh hơn học
sinh lớp 5, Đấu trƣờng 100, Ai là triệu phú, Đƣờng lên đỉnh Olympia, … ở các nhà
trƣờng, các lớp vẫn thƣờng xuyên tổ chức những cuộc thi vui về hiểu biết xã hội,
kiến thức nhƣ: Em yêu khoa học, Tài trí tuổi trẻ… thu hút sự quan tâm của đông
đảo học viên. Tại sao chúng ta không biến việc ôn tập phần Văn học (cũng nhƣ ôn
tập tiếng Việt, Làm văn, Lí luận văn học và các bộ môn khác) thành một hoạt động
tƣơng tự nhƣ thế? Thời gian cho hoạt động ôn tập theo phƣơng pháp này đƣợc cân
đối cho phù hợp với tiết dạy và khả năng tiếp nhận của học viên.
2.3.Cách tiến hành
Để tiến hành hoạt động dạy- học theo yêu cầu trên ta chia lớp thành 4 đội
tham dự. Mỗi tổ thành một đội do tổ trƣởng làm đội trƣởng (hoặc một học viên khá
giỏi, nhanh trí, có khả năng thuyết phục ngƣời khác), các thành viên của đội đƣợc
bố trí chỗ ngồi sao cho thuận tiện khi trao đổi, đƣa ra đáp án. Thay vì thuyết giảng
hoặc gọi học viên trả lời thì giáo viên soạn nội dung cần dạy dƣới dạng câu hỏi và
tất cả đều có quyền trả lời. Việc tổ chức hoạt động ôn tập này, giáo viên nên dùng
giáo án điện tử để thuận tiện cho sử dụng câu hỏi sinh động hơn trong tiết học và
nhất là thu hút đƣợc học viên.
Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học theo hình thức này cần chú ý đến
vấn đề thời gian, cần tránh tối đa thời gian “chết” do phải ổn định tổ chức. Vì vậy
khâu tổ chức lớp học hết sức quan trọng. Ở những Trung tâm hoặc trƣờng có
phòng học bộ môn nên sử dụng cho tiết học này, vừa chủ động đƣợc thời gian vừa
không ảnh hƣởng đến lớp học khác.


Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

15


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

2.4. Tạo không khí văn chương trong tổ chức hoạt động ôn tập (tổng
kết) Văn học
Dạy học là một nghệ thuật tổ chức các hoạt động để thu hút, tạo hứng thú
học tập ở học viên. Điều đó càng có ý nghĩa quan trọng với dạy học Ngữ văn. Giáo
sƣ Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Dạy văn chính là tổ chức tối ƣu hoạt động
cộng đồng hợp tác giữa thầy và trò để trò tự giác, tích cực, tự lực xử lí cái nghĩa
phổ biến của tác phẩm thành cái ý nghĩa độc đáo sáng tạo, phong phú riêng của
từng cá nhân ”. Cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm bằng nhiều phƣơng pháp, biện pháp
khác nhau. Song một trong những phƣơng pháp giúp học viên tiếp nhận tác phẩm,
kiến thức lí luận văn học (kể cả tiếp nhận qua ôn tập) có sự hoà đồng cảm xúc
thẩm mĩ, theo tôi chính là tạo đƣợc không khí văn chƣơng, làm mất sự căng thẳng,
nặng nề của khối lƣợng kiến thức cần xử lí. Đồng thời tạo đƣợc sự dân chủ trong
tiếp nhận và lĩnh hội tri thức, khi đó giờ văn sẽ thú vị hơn rất nhiều.
Dạy văn, học văn trƣớc hết phải có hứng thú. Trong giờ ôn tập (vốn đƣợc
xem là khô khan) càng phải gợi đƣợc hứng thú ở ngƣời học (và cả ngƣời dạy). Tạo
không khí trong giờ văn nói chung và ôn tập văn học nói riêng là một biện pháp rất
quan trọng để học viên bƣớc đầu tiếp nhận văn chƣơng, thiết lập mối quan hệ giữa
giáo viên- tác phẩm và học viên. Xây dựng bầu không khí văn chƣơng là cơ sở
tâm lí, là nội dung khoa học, là phƣơng pháp tạo cho học viên đi đến sự thăng hoa
trong nhận thức, cảm thụ. Có thể hình dung trong quá trình ôn tập văn học, khi tạo
bầu không khí văn chƣơng, giáo viên nhƣ ngƣời dẫn chƣơng trình thông minh,
sáng tạo cộng với một chút hóm hỉnh nhằm kích thích các em tƣ duy. Việc ôn tập

có thành công hay không một phần quan trọng dựa vào “cái duyên” này của giáo
viên. Tạo không khí văn chƣơng trong khi ôn tập (tổng kết) phần văn học có thể
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:
Gợi lại không gian lịch sử, xã hội, văn hoá của những tác phẩm trong bài ôn
tập: ở lớp 10 khi ôn tập phần văn học Việt Nam trung đại ( Văn học Lí – Trần ) ta
có thể gợi lại không gian lịch sử - văn hoá lúc đó - các cuộc kháng chiến chống
quân xâm lƣợc Tống, Nguyên- Mông; sự phát triển của Phật giáo. Ở lớp 11 khi ôn
tập cuối học kì I ta có thể gợi lại bối cảnh nông thôn Việt Nam những năm 19301945. Phần văn học nƣớc ngoài cũng có thể làm tƣơng tự.
Tạo không khí văn chƣơng bằng cách đƣa ra một nhận định tổng quát đòi hỏi
học viên phải tƣ duy và chƣa thể giải quyết ngay, từ đó dẫn dắt các em tìm hiểu
các nội dung ôn tập để trả lời đƣợc vấn đề vừa nêu ra. Mặt khác giáo viên cũng có
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

16


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

thể sƣu tầm những giai thoại về nhà văn ( những câu về bút danh nhà văn, về công
việc viết văn, về đời tƣ…) tạo thêm những hiểu biết lí thú, sôi động của tiết học.
Cũng có thể tạo bầu không khí bằng cách giao lƣu đối thoại trực tiếp giữa giáo
viên- học viên, học viên- học viên ( ví dụ đội 1 trả lời, giáo viên có thể hỏi cách
nghĩ của đội 2) tạo nên không khí vui vẻ, phấn khởi trong suốt tiết học. Điều này
phụ thuộc nhiều vào sự nhanh trí, phản ứng linh hoạt của giáo viên.
Tạo đƣợc bầu không khí văn chƣơng thực sự là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự
khéo léo, thông minh và tế nhị của ngƣời thầy để làm sao giờ học viên động mà
hiệu quả, vui vẻ mà nghiêm túc. Việc tạo không khí văn chƣơng trong giờ ôn tập
văn học đƣợc thực hiện xen kẽ các nội dung hoặc trong quá trình trả lời câu hỏi
của học viên. Tuyệt nhiên không lạm dụng, làm mất thời gian của việc ôn tập. Điều

đó đòi hỏi sự chủ động, nhạy cảm của giáo viên.
2.5. Hệ thống câu hỏi
2.5.1. Trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan là cách kiểm tra năng lực ghi nhớ, hiểu biết bản
chất của học viên sau bài học. Có nhiều dạng trắc nghiệm khách quan, nhƣng trong
khi ôn tập kiểu này ta nên sử dụng 2 loại : Điền khuyết và nhiều lựa chọn. Với một
câu hỏi, giáo viên đƣa ra 4 câu trả lời A, B, C, D, trong đó có một đáp án đúng
nhất. Các đội sẽ dùng bảng để trả lời ( Bảng này làm bằng mêka: viết các đáp án
đúng bằng bút bảng trắng (bút dạ bảng - rất đơn giản và không tốn kém ). Thời
gian suy nghĩ mỗi câu là 10 giây. Có tín hiệu trả lời đều nâng bảng lên. Đội nào trả
lời đúng sẽ đƣợc cộng điểm, mức điểm do giáo viên tự quy định, quy đổi. Ghi chép
kết quả là thƣ kí của lớp.
Việc soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan cần phải có nội dung bao quát,
gồm cả những câu hỏi kiểm tra sự ghi nhớ và những câu hỏi đòi hỏi sự tƣ duy, suy
luận của học viên để tránh nhàm chán, đơn điệu.
Một số câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn
Ví dụ 1: “ Mặt trời của thi ca Nga” là ai?
A. Êxênhin
B. M. Goorki
C. A. Puskin
D. L. Tônxtôi
Câu trả lời đúng là C
Ví dụ 2 : Ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Tự tình ( Hồ Xuân Hƣơng ) đƣợc
thể hiện ở:
A. Nỗi cô đơn của nhân vật trữ tình
B. Thái độ phản kháng với xã hội phong kiến
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

17



Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

C. Tâm trạng tuyệt vọng của nhân vật trữ tình
D. Nỗi buồn, sự phẫn uất và khát vọng sống, ý thức vƣợt lên của nhân vật trữ tình.
Câu trả lời đúng là D
Câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết
Ví dụ : Hoàn thành lời nhận định của nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn
Nhà văn Việt Nam hiện đại: “Ở nƣớc ta, một năm có thể kể nhƣ …... của ngƣời”.
A. Năm mƣơi năm
B. Bốn mƣơi năm
C. Ba mƣơi năm
D. Hai mƣơi
năm
Câu trả lời đúng là C
2.5.2. Kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi trả lời ngắn
Giáo viên ra những câu hỏi là tên một trào lƣu, một con số về thời gian , sự
kiện văn học, tên tác giả, tác phẩm, nhân vật. Cần soạn những câu hỏi có trọng
tâm, liên hệ mật thiết với ngƣời học (có thể hỏi những câu đòi hỏi học viên phải
chịu khó tìm tòi, đọc nhiều, hiểu biết rộng mới trả lời đƣợc). Những câu hỏi trả lời
ngắn giúp giáo viên đánh giá đƣợc đầy đủ năng lực cảm thụ, khái quát hoá ở học
viên.
Học viên có thể giơ tay để giành quyền ƣu tiên trả lời. Nhƣng cũng có thể tạo
điều kiện để các đội tham gia cùng trả lời bằng cách viết lên bảng mêka. Sau 30
giây các đội phải đƣa ra đáp án đúng. Đội nào trả lời đúng sẽ đƣợc tính điểm.
Ví dụ 1 : Ai là ngƣời Châu Á đầu tiên nhận đƣợc giải Nobel văn học? Năm
nào? Cho tác phẩm gì?
Đáp án : R. Tagor. Năm 1913. Tập Thơ Dâng
Ví dụ 2 : Hai chủ đề nổi bật trong truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn là gì?

Đáp án: Sự tê liệt của quần chúng và bi kịch của ngƣời cách mạng tiên phong.
2.5.3. Câu hỏi so sánh
Câu hỏi so sánh đƣợc sử dụng trong bài ôn tập cần mang tính tổng quát, chỉ
ra đƣợc bản chất của vấn đề văn học. Đồng thời thấy đƣợc mối liên hệ tác động
giữa các vấn đề với nhau (Phải hết sức tránh những câu hỏi vụn vặt, tản mạn). Câu
hỏi so sánh trong ôn tập giúp học viên có cái nhìn tổng quát, đa chiều về nhà văn,
tác phẩm, khuynh hƣớng, trào lƣu, phong cách, hiện tƣợng văn học. Trong loại câu
hỏi này cần lƣu ý các em trả lời trúng trọng tâm, không dài dòng. Ngoài phần trả
lời chính thức, giáo viên có thể yêu cầu học viên lí giải thêm vấn đề để cả lớp cùng
hiểu. Những vấn đề mà học viên lí giải có thể chƣa hợp lí nên đòi hỏi giáo viên
phải tổng hợp, bổ sung.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

18


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

So sánh giữa Văn học Việt Nam với Văn học nước ngoài
Ví dụ 1: Theo em, sự gần gũi trong sáng tác của V.Huy- Gô (Văn học Pháp)
và sáng tác của Thạch Lam ( Văn học Việt Nam ) là gì?
Đáp án : Sáng tác của V. Huy - Gô và Thạch Lam rất gần nhau ở chủ đề
tình thƣơng yêu và triết lí tình thƣơng yêu.
So sánh giữa Văn học nước ngoài với Văn học nước ngoài
Ví dụ 2 : Điểm tƣơng đồng về số phận cũng nhƣ tính cách của Xô-cô-lốp trong Số
phận con người ( Sô-lô-khốp ) và Xan-chi-a-gô trong Ông già và biển cả ( Hêminh-uê) là gì?
Đáp án : Con ngƣời có thể bị tiêu diệt nhƣng không thể bị khuất phục
2.5.4. Loại câu hỏi hùng biện và phát biểu cảm nghĩ
Đây là loại câu hỏi hay nhƣng khó, giúp ta phân hóa đƣợc học viên. Có thể ra

một câu hỏi chung cho cả 4 đội lần lƣợt trả lời để xếp loại cho điểm ( hoặc ra cho
mỗi đội một câu hỏi khác nhau). Các đội cử ngƣời đại diện phát biểu, tranh luận.
Đây là phần sôi động nhất của tiết học, là lúc mà vai trò cá nhân xuất sắc đƣợc
phát huy. Cũng qua đó giáo viên phần nào nắm bắt đƣợc năng lực, sở trƣờng của
học viên, chuẩn bị cho mục tiêu cao hơn (Lựa chọn để bồi dƣỡng học viên giỏi
chẳng hạn). Khi soạn những câu hỏi hùng biện cần bám sát trọng tâm ôn tập, khai
thác những nội dung “có tính vấn đề” để học viên tranh luận, đƣa ra nhận xét đánh
giá. Những nhận xét đánh giá của các em có thể khác nhau, có khi trái ngƣợc nhau.
Giáo viên tôn trọng ý kiến của từng học viên, nhƣng vẫn phải uốn nắn những lệch
lạc để các em có định hƣớng đúng đắn về kiến thức cũng nhƣ tƣ tƣởng, tình cảm…
Phần trả lời câu hỏi hùng biện và phát biểu cảm nghĩ có thể thực hiện bằng
cách: Các đội viết vào tờ bóng kính, trình chiếu bằng máy chiếu hắt để các đội
cùng quan sát, bổ sung. Việc làm này giúp các em tự tin, bản lĩnh khi thuyết trình
một vấn đề trƣớc tập thể.
Ví dụ 1 : Một tác phẩm văn học có thể đƣợc cảm nhận khác nhau hay không?
Vì sao?
Đáp án:
- Cảm nhận văn học là một hành động chủ quan và rất đa dạng. Ngƣời đọc
có quyền lí giải tác phẩm văn học theo sự hiểu biết, theo cách nghĩ của mình và sự
lí giải ấy có thể theo nhiều cách khác nhau
- Sự khác nhau này xuất phát từ các nguyên nhân sau:

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

19


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên


+ Bắt nguồn từ tính phong phú của nội dung cũng nhƣ tính đa nghĩa của hình tƣợng
nghệ thuật
+ Tuổi tác, kinh nghiệm sống, học vấn và tâm trạng khi tiếp xúc tác phẩm
+ Môi trƣờng văn hoá - xã hội mà cá nhân đang sống
+ Sự hiểu biết nhiều chiều.
Ví dụ 2 : Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Bê- li- cốp (Người trong
bao - Sê- khốp )?
Đáp án : Tuỳ thuộc vào cảm nhận của từng học viên.
Thành công hay không của hoạt động ôn tập này phụ thuộc rất nhiều vào việc
thiết kế hệ thống câu hỏi của giáo viên. Câu hỏi quá khó hoặc quá dễ đều không
phát huy đƣợc tính tích cực chủ động của học viên. Trong quá trình biên soạn, giáo
viên có thể đƣa thêm một số câu hỏi về đời sống, hiểu biết xã hội có liên quan mật
thiết đến bài học.
2.6. Đánh giá tổng kết
Cuối phần ôn tập, giáo viên tổng kết điểm, nhận xét từng đội và cá nhân về các
nội dung: Tinh thần tham gia học tập, khả năng nắm bắt kiến thức, độ nhanh nhạy
khi trả lời các câu hỏi, tinh thần đồng đội, vai trò ngƣời đội trƣởng. Cách nhận xét,
đánh giá của giáo viên phải đảm bảo công bằng, khoa học, chính xác và đặc biệt
cũng cần nâng niu, trân trọng những gì các em có. Trong quá trình đánh giá tổng
kết, giáo viên cần chỉ ra những hạn chế, thiếu sót để các em rút kinh nghiệm cho
những tiết học sau. Càng nghiêm túc bao nhiêu hiệu quả giáo dục của nó sẽ càng
cao, không chỉ với tiết học đó mà cả những tiết học sau đó. Đây là những vấn đề
không mới nhƣng không bao giờ cũ bởi nó là cơ sở, nền tảng, động lực cho sự
phát triển của học viên.
IV. Hiệu quả của SKKN:
Tổ chức ôn tập phần Văn học theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động
của học viên là cách làm phù hợp với thực tiễn quá trình đổi mới phƣơng pháp dạy
học văn trong nhà trƣờng phổ thông, phù hợp với sự đổi mới chƣơng trình, sách
giáo khoa, đổi mới về phƣơng pháp kiểm tra đánh gia, ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học Ngữ văn hiện nay. Cách làm này thực chất là biến những gì thuộc

về lí thuyết khô cứng thành tƣ duy sáng tạo – con đƣờng nhanh nhất, đúng đắn
nhất nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học viên. Nhìn một cách
tổng thể, việc ôn tập văn học theo cách này chính là đã tạo ra một môi trƣờng hoạt
động - giao lƣu nhằm kích thích hứng thú học tập của học viên. Chúng ta đã và
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

20


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

đang tìm kiếm con đƣờng nâng cao hiệu quả học tập, phát huy tính tích cực sáng
tao, tôn trọng chủ thể học viên thì đây sẽ là cách làm có thể coi là hiệu quả bởi nó
phù hợp với trình độ, tâm lí lứa tuổi của đa số học viên, nhất là phù hợp với nhiều
địa phƣơng (nhất là vùng sâu, vùng xa của chúng ta). Nói nhƣ một nhà phƣơng
pháp: không nhảy xuống nƣớc làm sao có đƣợc lý thuyết bơi. Những tìm tòi thể
nghiệm của bản thân tôi trong quá trình dạy học những năm qua đã thu đƣợc
những kết quả nhất định.
Trong mấy năm gần đây khi tổ chức cho học viên các khối lớp ôn tập theo
cách này bản thân tôi thấy rất có hiệu quả. Chính học viên khi đƣợc hỏi cũng rất
thích thú với cách làm này. Nhiều học viên Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên
Mƣờng Khƣơng đã thực sự trƣởng thành. Sau khi ra trƣờng họ đã trở thành trụ cột
gia đình vững chắc hoặc tiếp tục mang những tri thức tiếp thu đƣợc ở trƣờng cống
hiến cho những trọng trách mà họ đƣợc giao phó ở địa phƣơng hoặc cao hơn nữa là
những chức vụ đảm nhận đó ở huyện nhà. Đó là kết quả giáo dục tích cực, từ một
phƣơng pháp đúng đắn. Không nặng nề bởi những vấn đề lí thuyết, cách làm của
chúng tôi khá thiết thực và rất dễ vận dụng.
Tôi còn thấy cùng một cách ôn tập nhƣ thế nhƣng nếu có sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin ( sử dụng giáo án điện tử ) thì hiệu quả giờ học còn cao hơn nhiều.

Còn có nhiều vấn đề cần phải rút kinh nghiệm khi ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học Ngữ văn. Song bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp cho rằng trong
những giờ dạy thế này thì sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là tốt nhất, phù hợp
nhất.
Tôi đã làm phép so sánh kết quả học tập của học viên và thu đƣợc kết quả
rất khả quan.
Bảng so sánh kết quả sử dụng phương pháp dạy học
Dạy theo cách Giáo viên gợi ý những câu trả lời, học viên thảo luận và
ghi chép
Lớp 10B
Tổng
số học
viên
30

Mức độ nắm kiến thức
Tốt
Số
lƣợng

Khá
Tỷ lệ

Số
lƣợng

Trung bình
Tỷ lệ

Số

lƣợng

Tỷ lệ

Không nắm
được
Số
Tỷ lệ
lƣợng

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

21


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

8

26,6%

10

33,3%

9

30,2%


3

9,9%

Lớp 11B
Tổng
số học
viên
17

Mức độ nắm kiến thức
Tốt

Khá

Trung bình

Số
lƣợng

Tỷ lệ

Số
lƣợng

Tỷ lệ

Số
lƣợng


Tỷ lệ

4

23,5%

7

41,2%

4

23,5%

Không nắm
được
Số
Tỷ lệ
lƣợng

2

11,8%

Dạy bằng hình thức một sân chơi khoa học:
Lớp 10A
Tổng số
học
viên
31


Mức độ nắm kiến thức
Tốt

Khá

Trung bình

Số
lƣợng

Tỷ lệ

Số
lƣợng

Tỷ lệ

Số
lƣợng

Tỷ lệ

12

38,4%

16

51,2 %


3

10,4%

Không nắm
được
Số
Tỷ
lƣợng
lệ

0

0%

Lớp 11A
Tổng số
học
viên
20

Mức độ nắm kiến thức
Tốt

Khá

Trung bình

Số

lƣợng

Tỷ lệ

Số
lƣợng

Tỷ lệ

Số
lƣợng

Tỷ lệ

9

45%

8

40 %

3

15%

Không nắm
được
Số
Tỷ

lƣợng
lệ

0

0%

Sự chuyển biến của học viên cần có quá trình lâu dài. Nhƣng để quá trình
đó diễn ra thuận chiều thì đây là thực tế khả quan. Một giờ học mà cả thầy và trò
hăng say khám phá, vẫn còn thấy thiếu một cái gì đó phải tiếp tục tìm hiểu, tôi cho
rằng đó là một giờ học có hiệu quả. Tôi rất tin vào cách làm này.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

22


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

C. KẾT LUẬN
Nhƣ tôi đã nói, với đề tài này còn rất nhiều hạn chế. Song tôi tin rằng nó lại rất
phù hợp với điều kiện thực tế giảng dạy ở đơn vị trƣờng tôi và các đơn vị trƣờng
học thuộc nhiều cấp học khác nhau trên địa bàn huyện Mƣờng Khƣơng và trong
toàn tỉnh Lào Cai.
Vì với đề tài này là kết quả của quá trình nghiên cứu và tìm hiểu những đặc
điểm của học viên nơi tôi công tác trong nhiều năm qua cũng nhƣ nhiều ý kiến
thảo luận, góp ý của các đồng nghiệp. Nên tôi tin tƣởng rằng nó sẽ rất cần thiết để
cho nhiều giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn
Đổi mới phƣơng pháp dạy học yêu cầu giáo viên phát huy tối đa tính chủ

động sáng tạo của học viên để từ đó góp phần đào tạo đƣợc lớp ngƣời năng động
sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Luật giáo
dục ghi rõ: “ Phƣơng pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học viên; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi
dƣỡng phƣơng pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học viên ”. Nhƣ thế, có thể thấy cách làm của chúng tôi một mặt đáp
ứng tốt yêu cầu đổi mới phƣơng pháp, mặt khác còn là cách làm kết hợp “ hai
trong một ” ( một giờ dạy mà vừa có hoạt động tổ chức dạy học, vừa có hoạt động
kiểm tra đánh giá ).
Cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Học sinh nhớ nhiều, học nhiều
là điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu. Điều chủ
yếu là dạy học sinh cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại cách giảng dạy
văn trong trường phổ thông của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ
thì không những việc dạy văn không hay mà việc đào tạo con người cũng không có
kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh
biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả suy nghĩ đó theo cách của
mình thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ dạy học viên biết suy nghĩ sáng tạo trong
giờ Ngữ văn là điều cần thiết. Tôi mong rằng đề tài của tôi sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả giảng dạy, đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục nƣớc nhà. Song đó mới
chỉ là ý kiến chủ quan của riêng cá nhân tôi. Vì thế, rất mong đƣợc sự đóng góp ý
kiến của các đồng chí đồng nghiệp để đề tài của tôi đƣợc hoàn chỉnh.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

23


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên


* Những ý kiến đề xuất
Đây là một hình thức dạy học hợp lí, hấp dẫn, đáp ứng hoàn toàn quan điểm
giáo dục về vị trí của giáo viên và học viên trong cơ chế dạy học văn hiện nay: học
viên đóng vai trò chủ thể, là một nhân cách, một cá thể tiếp nhận sáng tạo; giáo
viên đóng vai trò hƣớng dẫn tổ chức, cố vấn khoa học. Ở đây không chỉ có hỏi đáp trong những tình huống có vấn đề mà còn có không khí thi đua sôi nổi giữa cá
nhân - cá nhân, tập thể - tập thể làm cho học viên cảm thấy yêu mến hơn việc học
tập, yêu mến hơn trƣờng lớp, thầy cô, bạn bè. Tuy nhiên để hình thức học tập này
thành công, đạt hiệu quả cao hơn những giờ dạy hoàn toàn theo hình thức truyền
thống, cũng cần đòi hỏi nhiều ở cả thầy và trò.
- Đối với giáo viên
Trƣớc hết để phục vụ cho tổ chức hoạt động dạy học này, ngƣời giáo viên
phải có sự chuẩn bị tốt ở nhà. Giáo viên phải chịu khó suy nghĩ, đặt ra nhiều câu
hỏi, kiểu câu hỏi và có đáp án đầy đủ. Việc soạn hệ thống câu hỏi này tuy có vất vả
nhƣng cũng thật thú vị ngay cả đối với ngƣời thầy. Hơn nữa, sự vất vả nếu có chỉ ở
năm đầu tiên. Bộ câu hỏi này ta có thể lƣu lại cho các năm học sau, các lớp khác
(cùng chƣơng trình) và có thể thay đổi bổ sung thêm hàng năm. Sự chuẩn bị của
ngƣời giáo viên càng cẩn thận, chu đáo thì càng đảm bảo sự thành công của giờ
học.
Khi bƣớc vào giờ học, ngƣời giáo viên chỉ đóng vai trò ngƣời hƣớng dẫn tổ
chức, ngƣời dẫn chƣơng trình kiêm giám khảo. Công việc này không vất vả, nhƣng
đòi hỏi ở ngƣời giáo viên những đức tính nhƣ: vui vẻ, khoa học trong dẫn dắt cuộc
thi, khách quan, công bằng trong nhận xét và cho điểm để tạo nên hứng thú thi đua
ở học viên.
Ngƣời giáo viên Ngữ văn ở trƣờng phổ thông phải có kiến thức sâu rộng về
các bộ môn Văn học Việt Nam, Văn học nƣớc ngoài, Lí luận văn học, Làm văn,
Tiếng Việt. Đồng thời có kĩ năng hƣớng dẫn học viên tiếp cận một cách khoa học
có hiệu quả.
Giáo viên cần tích cực trao đổi trong nhóm, tổ chuyên môn để tạo đƣợc tiếng
nói chung thống nhất. Đồng thời từng bƣớc rút kinh nghiệm cho các giờ dạy.
Giáo viên cần động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học

viên đƣợc tham gia một cách tích cực, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội
kiến thức; chú ý khai thác vốn kinh nghiệm, kĩ năng đã có của học viên ; giúp các
em phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản thân.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

24


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung
tâm giáo dục thƣờng xuyên Mƣờng Khƣơng theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

- Đối với học viên
Về phía học viên, để tham gia tốt sân chơi, trả lời đƣợc nhiều câu hỏi, giành
đƣợc nhiều điểm, học viên cũng phải có sự chuẩn bị, học tốt trong suốt học kì, năm
học và cần xem lại những bài đã học trƣớc khi bƣớc vào sân chơi. Giáo viên có thể
dặn học viên ở cuối tiết học trƣớc để các em có sự chuẩn bị và có tƣ thế chủ động.
Việc làm ấy góp phần rèn luyện cho học viên thói quen tự học, tự nắm bắt kiến
thức có tính chất cơ sở, tiền đề cho bài học mới. Học viên phải nhiệt tình, hăng hái
tham gia cuộc thi và cổ vũ bạn bè mình, nghiêm túc thực hiện những quy định của
lớp học và luật chơi, thể hiện một tinh thần thái độ tốt cùng nhau thi đua học tập
chứ không phải ganh đua hẹp hòi.
Mường Khương, ngày 28 tháng 04 năm 2014.
Người viết.

Nguyễn Thị Thúy

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

25



×