Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Bài giảng luật hiến pháp đh DUY tân p1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.67 KB, 100 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TỔ LUẬT


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM
TẬP BÀI GIẢNG

Biên soạn: NGUYỄN VĂN PHỤNG


MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................................i
BÀI 1
KHÁI QUÁT VỀ
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM...................................................................................................................1
1. Khái niệm và đặc điểm của bộ máy nhà nước ....................................................1
2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ....................................3
3. Hệ thống các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . . .7
4. Sự phát triển của bộ máy nhà nước Việt Nam qua các Hiến pháp ..................10
BÀI 2
CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
.....................................................................................................................................14
1. Khái niệm chế độ bầu cử ...................................................................................14
2. Các nguyên tắc bầu cử .....................................................................................15
3. Quyền bầu cử và ứng cử.....................................................................................17
4. Các qui định về số đại biểu, đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu......................19
5. Các tổ chức phụ trách bầu cử ...........................................................................21
6. Trình tự bầu cử và kết quả bầu cử ....................................................................23


7. Việc bầu cử thêm, bầu cử lại, bầu cử bổ sung...................................................24
8. Việc bãi nhiệm đại biểu ...................................................................................25
BÀI 3
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.......................................26
1. Khái quát về sự ra đời và phát triển của Quốc hội nước ta...............................26
2. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội......................................................27
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội ..............................................................27
4. Tổ chức bộ máy nhà nước .................................................................................28
5. Giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật....................................................................................................29
6. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội.............................................................................30
7. Kỳ họp Quốc hội.................................................................................................33
8. Đại biểu Quốc hội ..............................................................................................35
BÀI 4
CHỦ TỊCH
NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM...................................................................................................38
1. Vị trí của Chủ tịch nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp..............................38
2. Thẩm quyền của Chủ tịch nước.........................................................................40
3. Việc bầu cử chủ tịch nước và phó chủ tịch nước...............................................44
BÀI 5
CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.......................................45
1. Vị trí -tính chất pháp lý của Chính phủ .............................................................45
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.................................................................46
3. Cơ cấu, tổ chức của Chính phủ..........................................................................52
4. Các hình thức hoạt động của Chính phủ............................................................53
BÀI 6

HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN.................................................................57
A. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN.................................................................57

i


B. HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN.....................................................................................59
1. Vị trí, tính chất pháp lý của Hội đồng nhân dân................................................59
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân ..............................................60
3. Cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân ...........................................................65
4. Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân ...................................................67
5. Đại biểu Hội đồng nhân dân...............................................................................69
C. ỦY BAN NHÂN DÂN..........................................................................................70
1. Vị trí, tính chất pháp lý của Ủy ban nhân dân ..................................................70
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban nhân dân .................................................72
Ví dụ: Đối với đề án phân chia, điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh thì Ủy
ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để đề nghị Chính
phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định.................................................................74
3. Cơ cấu, tổ chức của Ủy ban nhân dân................................................................75
4. Các hình thức hoạt động của Ủy ban nhân dân.................................................76
BÀI 7
TÒA ÁN NHÂN
DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN................................................................80
A. TÒA ÁN NHÂN DÂN..........................................................................................80
1. Vị trí pháp lý, vai trò của Toà án nhân dân .......................................................80
2. Những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân....................81
3. Cơ cấu tổ chức của hệ thống Toà án nhân dân .................................................86
4. Các Toà án quân sự............................................................................................89

B.VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.............................................................................91
1. Vị trí pháp lý, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân ....................................91
2. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ..........................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................A

ii


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

BÀI 1
KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm và đặc điểm của bộ máy nhà nước
Khái niệm bộ máy nhà nước được hiểu khác nhau qua các thời kỳ lịch sử.
Thời kỳ đầu với cách tổ chức còn đơn giản, bộ máy nhà nước là bộ máy cai trị với
các cơ quan hành chính, cảnh sát, quân đội. Đến thời kỳ hiện đại, bộ máy nhà nước
(nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa) được bổ sung nhiều cơ cấu, thành phần và do
vậy cũng có khá nhiều các quan niệm khác nhau về bộ máy nhà nước. Tuy nhiên,
quan niệm phù hợp hơn cả là quan niệm coi bộ máy nhà nước là một tổng thể các
cơ quan nhà nước, cấu thành một hệ thống liên hệ chặt chẽ theo thứ bậc, cùng thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trước hết, bộ máy nhà nước được cấu thành từ các cơ quan nhà nước. Vậy
cơ quan nhà nước là gì ?
Cơ quan nhà nước là một phần của bộ máy nhà nước. Nó có những dấu hiệu
đặc thù:
 Cơ quan nhà nước được mang quyền lực nhà nước, tức là được qui
định các thẩm quyền thực hiện quyền lực nhà nước, thay mặt (nhân danh) Nhà nước
ra các quyết định bắt buộc chung và bảo đảm thực hiện.
Quyền hạn có tính quyền lực nhà nước của Cơ quan nhà nước được đặc

trưng bởi:
- Trình tự thành lập và hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ cấu và thẩm
quyền của chúng được pháp luật quy định;
- Có quyền ban hành văn bản pháp luật đề ra các qui định có tính bắt buộc và
cá biệt;
- Các qui định đó được bảo đảm bởi các phương thức thuyết phục, giáo dục,
khuyến khích, tổ chức và được bảo vệ bằng sự cưỡng chế (chế tài) của Nhà nước;
- Có các điều kiện vật chất để tổ chức thực hiện các qui định do cơ quan nhà
nước nói riêng và Nhà nước nói chung ban hành;
Với bốn đặc trưng này - những đặc trưng của quyền lực nhà nước - có thể
cho phép xác định đó là cơ quan nhà nước. Mang quyền hạn nhà nước là dấu hiệu
quan trọng và đặc thù của Cơ quan nhà nước.
 Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo
những nguyên tắc nhất định.
 Mỗi một cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng tương ứng của
mình phù hợp với vị trí, vai trò của nó trong bộ máy nhà nước thông qua các cơ
----------------------------------------------------------------------------------------------------1


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

quan nhà nước, hoạt động của Nhà nước. Từ đó cho thấy, chức năng của Nhà nước
về cơ bản được thực hiện thông qua chức năng của từng cơ quan nhà nước. Các cơ
quan nhà nước, bằng việc thực hiện chức năng của mình đã đồng thời tham gia vào
việc thực hiện các chức năng khác nhau của Nhà nước.
 Cơ quan nhà nước - để thực hiện chức năng của mình - được trang bị
những phương tiện vật chất cần thiết.
 Cơ quan nhà nước bao giờ cũng biểu hiện ra về mặt vật chất là
những con người cấu thành - là một cá nhân hoặc một nhóm, một tập thể người. Đó
là những người giữ các chức vụ nhà nước và gọi chung là công chức.

Từ những phân tích dấu hiệu của cơ quan nhà nước trên đây có thể hình
thành định nghĩa về cơ quan nhà nước:
Cơ quan nhà nước là một phần của bộ máy nhà nước, được thành lập và
hoạt động theo những nguyên tắc nhất định, được cấu thành từ các công chức,
mang quyền hạn Nhà nước và có các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Ở phương diện thứ hai, bộ máy nhà nước còn phải là một cơ chế, một trật tự
sắp xếp hay nói cách khác là một hệ thống các Cơ quan nhà nước. Tính hệ thống
này biểu hiện dưới các dấu hiệu sau:
- Hệ thống đó được chi phối bởi một tổng thể các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động thống nhất, xuyên suốt. Chẳng hạn, bộ máy nhà nước phong kiến gắn liền với
nguyên tắc tập quyền chuyên chế (quyền lực tập trung vào tay một người), bộ máy
nhà nước tư sản lại ngự trị nguyên tắc phân quyền, còn bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa thì tuân theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, tập trung dân chủ.
- Hệ thống là một cơ cấu phức tạp, trong đó các loại cơ quan khác nhau có vị
trí khác hau tùy thuộc vào từng chế độ nhà nước.
- Sự hiện diện của các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước luôn gắn
liền với các chức năng của nhà nước. Chức năng nhà nước luôn được thể hiện thông
qua bộ máy nhà nước. Việc tổ chức ra cơ quan này hay cơ quan kia luôn gắn liền
với nhu cầu thực hiện một chức năng nhất định.
Ví dụ: Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta là một thiết chế ít thấy ở các nước
tư bản, đây là cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Ngoài những cơ quan nhà nước, bộ máy nhà nước còn bao gồm một loạt
các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, công ty thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản
của cơ quan nhà nước. Những phương tiện này không phải là những cơ quan nhà
nước song không một nhà nước nào lại có thể thiếu chúng.
Vậy, bộ máy nhà nước là một tổng thể (hệ thống) các cơ quan nhà nước có
tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng có quan hệ
mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì được tổ chức và hoạt động theo
----------------------------------------------------------------------------------------------------2



Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

những nguyên tắc thống nhất, qua đó thực hiện các chức năng cơ bản của Nhà
nước.

2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng nền
tảng, những nguyên tắc chủ đạo làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Các nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở các học thuyết khoa
học, từ sự đúc kết kinh nghiệm của việc tổ chức nhà nước.
Mỗi một chế độ nhà nước đều có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác
nhau về bộ máy nhà nước. Và ngay trong bản thân một nhà nước, các nguyên tắc đó
cũng được vận dụng theo từng mức độ khác nhau ở mỗi giai đoạn nhất định và luôn
luôn được bổ sung và hoàn thiện.
Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước ta đương nhiên
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung của chế độ xã hội chủ
nghĩa và đồng thời tổ chức bộ máy nhà nước với sự vận dụng phù hợp theo từng
giai đoạn lịch sử và theo từng phần hệ thống trong bộ máy đó. Các nguyên tắc đó
luôn luôn được bổ sung bởi các nhận thức mới và vận dụng thích hợp với từng điều
kiện cụ thể.
2.1. Nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa
Tập quyền là sự tập trung quyền lực nhà nước vào ai đó (cá nhân, cơ quan).
Trong chế độ phong kiến, bộ máy nhà nước về cơ bản là tổ chức theo nguyên tắc
tập quyền chuyên chế - quyền lực nhà nước tập trung tuyệt đối vào tay vua, hoàng
đế. Chính đây là cội nguồn của sự độc đoán chuyên quyền (chuyên chế) của chế độ
phong kiến.
Dần dần, với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, quyền lực của Vua đã bị san sẻ
cho một thiết chế mới được lập ra - Nghị viện.

Ví dụ : Viện nguyên lão ở Anh thế kỷ XIII.
Khi cách mạng tư sản thắng lợi (Thế kỷ XVII-XVIII) thì cùng với sự xác lập
quyền lực nhân dân (dân chủ) là sự thiết lập cơ chế đại nghị - một cơ chế nhà nước
tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, phủ định lại nguyên tắc tập quyền chuyên chế
phong kiến. Theo đó quyền lực nhà nước của nhân dân được phân ra các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, và trao cho ba cơ quan đảm nhiệm tương ứng là Nghị
viện, Chính phủ và Tòa án. Ba nhánh quyền lực này độc lập và đối trọng lẫn nhau.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chủ trương xoá bỏ chế độ đại nghị
và thay vào đó (qua kinh nghiệm Công xã Pari) là cơ chế “tập thể hành động”, sau
này được khái quát thành nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa.
Nội dung của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ: mọi
quyền lực nhà nước của nhân dân (ngoài những quyền được thực hiện bằng con
đường trực tiếp) được trao (uỷ quyền) cho cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà
----------------------------------------------------------------------------------------------------3


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

nước của nhân dân. Đó là các Xô viết (ở Liên Xô cũ), Quốc hội (ở Trung Quốc,
Việt Nam). Các quan này nắm giữ các quyền của quyền lực nhà nước thống nhất, có
nghĩa là chúng nắm tất cả các quyền lập pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan đại
diện này (ở trung ương và địa phương) là những cơ quan đại diện quyền lực nhà
nước duy nhất, là hình thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân.
Trên tinh thần đó, Hiến pháp Việt Nam quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân”1.
Phương thức thứ hai của nội dung của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa
là: trong điều kiện hiện tại cơ quan đại diện quyền lực nhà nước của nhân dân
(Quốc hội) do phương thức hoạt động theo kỳ họp và các đại biểu phần đông là

kiêm nhiệm nên chưa thể thực hiện tất cả các quyền thuộc nội dung quyền lực nhà
nước, Quốc hội vừa tự mình vừa lập ra các cơ quan nhà nước khác và phân giao cho
chúng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhất định. Điểm mấu chốt là các cơ quan
đó (Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) phải chịu sự giám sát
(báo cáo công tác) và phải chịu trách nhiệm (bị bãi nhiệm, miễn nhiệm) trước cơ
quan quyền lực nhà nước.
Hiến pháp 1946, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa mới áp dụng bước đầu
thể hiện ở việc coi Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất, lập ra Chính
phủ, Nội các chịu trách nhiệm trước Nghị viện nhưng các cơ quan khác chưa chưa
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Sang Hiến pháp 1959, nguyên tắc này
đã được áp dụng mạnh mẽ, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội
đồng chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc
hội... Đến Hiến pháp 1980, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa đã được vận
dụng triệt để. Bộ máy nhà nước nước ta đã được xây dựng theo mô hình Nhà nước
Xã hội chủ nghĩa đang hiện hành (Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan chấp
hành và hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất v.v...)
Hiện nay, theo tinh thần đổi mới, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được
nhận thức lại và vận dụng hợp lý hơn. Đó là: về nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất song có sự phân công, phối hợp giữa các Cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quan điểm mới này đã được thể
hiển trong xây dựng bộ máy nhà nước tại Hiến pháp 1992. Ở đó Quốc hội vẫn là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, quyết
định các vấn đề cơ bản của đất nước, giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước và xã hội; các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập, giám sát
hoạt động và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quốc hội chỉ tập trung vào hoạt
động lập pháp và giám sát, còn các cơ quan khác như Chính phủ, Tòa án nhân dân
1

Hiến pháp 1992 (2001), điều 6.


----------------------------------------------------------------------------------------------------4


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, kể cả Chủ tịch nước nếu cá nhân được phân
định chức năng nhiệm vụ rạch ròi hơn, có tính độc lập hơn, cùng nhau phối hợp
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Nói tóm lại, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản
xuyên suốt trong tổ chức bộ máy nhà nước nước ta.
2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Hiến pháp nước ta quy định “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan
khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”
(Điều 6 Hiến pháp 1992 (2001)).
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước là sự kết hợp biện chứng giữa hai mặt: tập trung và dân chủ. Tập
trung thống nhất là bản chất chung của mọi Nhà nước. Quyền lực nhà nước phải
được triển khai thống nhất, xuyên suốt trách sự chia cắt vô chính phủ. Mặt khác
quyền lực đó trong chế độ xã hội chủ nghĩa là bắt nguồn từ nhân dân, phục vụ nhân
dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân hay của các cơ quan đại diện. Trên tinh
thần đó tập trung không xa rời dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện trong cơ chế trực thuộc hai chiều. Tính
trực thuộc hai chiều thể hiện rõ nhất trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước. Các cơ quan này chịu sự lãnh đạo, chịu trách nhiệm trước cấp
trên, đồng thời chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Về việc thành lập các cơ quan này có sự kết hợp giữa Hội đồng
nhân dân và cơ quan hành chính cấp trên.
Trong quá trình phát triển từ trước đến nay, trong từng thời kỳ có sự vận dụng
khác nhau tương quan giữa tập trung và dân chủ. Ở thời kỳ đầu (giai đoạn 19451960) mặt tập trung được đề cao hơn. Sau này (giai đoạn những năm 1980) mặt dân

chủ được tăng cường. Hiện nay, tính tập trung được chú trọng trở lại (thể hiện ở
quyền của Thủ tướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên được quyền phê chuẩn
việc bầu cử, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
dưới).
Trong các cơ quan quyền lực nhà nước, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện theo từng mức độ nhất định.
2.3 Nguyên tắc bình đẳng dân tộc
Trong một Nhà nước có nhiều dân tộc, việc bảo đảm bình đẳng dân tộc là hết
sức cần thiết. Hiến pháp nước ta quy định: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam” (Điều 5 Hiến pháp 1992 (2001)).
Bảo đảm để trong các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước (Quốc hội và Hội
đồng nhân dân) các thành phần dân tộc thiểu số có số đại biểu thích đáng (Điều 10
----------------------------------------------------------------------------------------------------5


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 (2001)); các đại diện dân tộc được chú ý
lựa chọn bầu giữ chức vụ trong chính quyền địa phương.
Có các hình thức tổ chức trong các cơ quan quyền lực nhà nước để thực hiện
lợi ích dân tộc và tham gia quyết định các chính sách dân tộc như Hội đồng dân tộc
trong Quốc hội và các Ban dân tộc trong Hội đồng nhân dân... Các cơ quan này, đặc
biệt là Hội đồng dân tộc không chỉ được quyền thẩm tra, giám sát, kiến nghị về các
vấn đề dân tộc mà còn được quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, các phiên họp của Chính phủ bàn về chính sách dân tộc, được Chính phủ
tham khảo ý kiến khi quyết định các chính sách dân tộc (Điều 94 Hiến pháp 1992
(2001)).
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giữa các
dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; thực hiện chính sách phát

triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
dân tộc thiểu số.
2.4 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế là yêu cầu đặt ra đối với mọi nhà nước hiện đại. Hiến pháp nước ta
quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12 - Hiến pháp 1992 (2001)). Nội dung chủ yếu của
pháp chế là hoạt động của Nhà nước và xã hội dựa trên cơ sở pháp luật và nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa thể hiện như sau:
- Tất cả cơ quan nhà nước phải được xác định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm, được thành lập theo đúng quy định của pháp luật. Các chức
danh được bầu, bổ nhiệm, tuyển dụng theo đúng quy định.
- Các cơ quan nhà nước, người có chức vụ và nhân viên nhà nước phải tuân
thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong thi hành nhiệm vụ của chính mình giải quyết các
công việc hành chính, xét xử, xử phạt, tránh sự lạm quyền và lộng quyền. Những vi
phạm đều bị xử lý theo pháp luật và xử lý bình đẳng đối với mọi sự vi phạm không
kể người đó có vị thế nào.
Để đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải có một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và đồng thời thông qua các quy định của pháp luật
để thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời và công bằng các vi phạm
pháp luật.

2.5 Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
----------------------------------------------------------------------------------------------------6


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định của sự tồn tại

của chế độ Nhà nước ta. Cho nên, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc.
Hiến pháp xác định “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4 Hiến pháp 1992 (2001)).
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước thể hiện trên các mặt sau:
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đều dựa trên cơ sở đường lối
chính sách của Đảng, đó là các quan điểm về xây dựng Nhà nước của dân, do dân
và vì dân, về cải cách bộ máy nhà nước, nêu cao vai trò của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, cải cách nền hành chính Nhà nước, cải cách tư pháp.
- Đảng giới thiệu các đảng viên ưu tú để bầu vào các cơ quan nhà nước, bồi
dưỡng, đào tạo để bổ nhiệm các chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước.
- Pháp luật ghi nhận các tổ chức thích hợp của Đảng trong các cơ quan nhà
nước để thực sự lãnh đạo như các Chi bộ, Đảng bộ, Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn...
- Bảo đảm sự thể chế hóa đường lối của Đảng trong các văn bản pháp luật,
như việc xin ý kiến các cơ quan Đảng về các dự luật, pháp lệnh...
- Bảo đảm sự kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của các Cơ quan nhà nước.
Hiện nay đang vẫn còn một số thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại công
cuộc xây dựng của đất nước ta, chúng che giấu dưới chiêu bài nhân quyền để can
thiệp một cách thô bạo, trắng trợn vào công việc nội bộ của nước ta chẳng hạn như
ngày 3/5/2000 vừa qua Hạ viện Mỹ thông qua nghị quyết “đòi Việt Nam thả các tù
nhân tôn giáo và tù nhân chính trị, hủy bỏ Điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam”. Điều
4- Hiến pháp 1992 (2001) là điều mà nhân dân Việt Nam đã thảo luận một cách dân
chủ, tranh luận công khai và thống nhất để thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình
khi lựa chọn Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng Việt Nam trong thời chiến cũng như trong thời bình. Bởi vì thế chắc chắn là
không có sự thay đổi về vai trò, vị trí của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước.

3. Hệ thống các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam

Như đã nói ở trên, bộ máy nhà nước nước ta là một hệ thống thống nhất các
cơ quan nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước được thành lập, hoạt động và có
mối quan hệ qua lại mật thiết và trực thuộc lẫn nhau. Chúng có tính thống nhất về
mặt tổ chức: có cơ quan được bầu ra hay được thành lập ra bởi cơ quan này; có cơ
quan được lãnh đạo cơ quan kia và có cơ quan chịu trách nhiệm báo cáo, chịu trách
nhiệm trước cơ quan khác. Tất cả các cơ quan nhà nước đều hoạt động trên cơ sở
pháp luật.
----------------------------------------------------------------------------------------------------7


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Thông thường, trong tổ chức bộ máy nhà nước có một loại cơ quan nào đó
đóng vai trò nền tảng. Ở chế độ phong kiến đó là bộ máy cai trị hành chính do Vua
đứng đầu. Ở chế độ tư sản mặc dù đã thiết lập cơ chế đại nghị (đề cao Nghị viện)
song hệ thống hành pháp do Chính phủ đứng đầu vẫn giữ vị trí nền tảng. Còn ở các
nước xã hội chủ nghĩa, cơ sở (nền tảng) của bộ máy nhà nước là cơ quan quyền lực
nhà nước. Đây là mô hình tổ chức tập quyền nhà nước do nhân dân trực tiếp lập ra,
còn các cơ quan khác trực tiếp hay gián tiếp đều phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà
nước, chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước.
Hệ thống các cơ quan nhà nước nước ta hiện nay theo quy định của Hiến pháp
1992 (2001) bao gồm những cơ quan có tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác
nhau. Có thể xem xét theo hai cách:
Thứ nhất, theo nhiệm vụ, chức năng thì bộ máy nhà nước có thể chia thành
các cơ quan theo hệ thống:
-

Cơ quan quyền lực nhà nước

-


Cơ quan hành chính nhà nước

-

Cơ quan xét xử

-

Cơ quan kiểm sát

 Các cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm Quốc hội và Hội đồng
nhân dân (HĐND) các cấp. Đây là những cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội vừa là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Hội đồng nhân dân là cơ
quan đại biểu của nhân dân địa phương và là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương.
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước duy nhất nghĩa
là chỉ có chúng là cơ quan được nhân dân uỷ quyền (trao quyền lực). Các cơ quan
khác do Quốc hội và Hội đồng nhân dân lập ra không được gọi là cơ quan quyền
lực mà là cơ quan thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được cơ quan quyền lực phân
giao (đương nhiên phải phân giao một cách rõ ràng, ghi nhận trong Hiến pháp ).
Các cơ quan quyền lực nhà nước (nhất là Quốc hội) thể hiện ý chí nhà nước
của nhân dân, nâng ý chí này lên thành pháp luật có giá trị bắt buộc chung; Quốc
hội có thẩm quyền quyết định các vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước đồng thời
còn giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
 Cơ quan hành chính nhà nước do Quốc hội (hoặc Hội đồng nhân
dân) thành lập, thực hiện hoạt động quản lý điều hành mang tính dưới luật, chịu sự
giám sát và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Trước
đây, theo Hiến pháp 1980, Hội đồng bộ trưởng được coi là cơ quan chấp hành và cơ

quan hành chính của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (có thể hiểu như là một
cơ quan của cơ quan quyền lực nhà nước). Hiện nay, Hiến pháp 1992 xác định
----------------------------------------------------------------------------------------------------8


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
nghĩa là coi Chính phủ có vị trí cao nhất và độc lập tương đối trong lĩnh vực hành
chính. Tương tự như vậy là vai trò của Ủy ban nhân dân các cấp.
 Các cơ quan xét xử gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa
phương và Tòa án quân sự. Các cơ quan này về nguyên tắc cũng được cơ quan
quyền lực lập ra (trước đây Quốc hội lập ra Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân
dân lập ra Tòa án nhân dân địa phương; nay chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao do Quốc hội bầu ra), Toà án nhân dân tối cao thực hiện chức năng xét xử và
chịu sự giám sát và trách nhiệm trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
cùng Chủ tịch nước; Toà án nhân dân địa phương chịu sự giám sát của HĐND cùng
cấp.
 Các cơ quan kiểm sát gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự. Tương tự như Tòa án, Viện
kiểm sát nhân dân do Quốc hội thành lập bằng việc bầu ra Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện trưởng bổ nhiệm các Viện trưởng, phó viện trưởng, kiểm
sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới. Hiện nay, chức năng của các Viện
kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, thực
hành quyền công tố. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội,
Chủ tịch nước và chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Chủ tịch nước.Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của HĐND
cùng cấp
 Chủ tịch nước , theo cách phân loại này, không thuộc hệ thống nào mà

là cơ quan phối hợp các cơ quan nhà nước khác nhau trong bộ máy nhà nước.
Thứ hai theo cơ cấu, vị trí các cơ quan nhà nước có thể sắp xếp các cơ quan
trong bộ máy đó bao gồm: (Cách sắp xếp này được sử dụng trong Hiến pháp 1992)
-

Quốc hội

-

Chủ tịch nước

-

Chính phủ

-

Tòa án nhân dân

-

Viện kiểm sát nhân dân

 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có vị
trí toàn quyền trong bộ máy nhà nước.
 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước thay mặt nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Trước đây, trong các Hiến pháp
1946 và Hiến pháp 1959 đã có chế định Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp 1980 theo
mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa thịnh hành lúc bấy giờ chức năng đứng đầu

----------------------------------------------------------------------------------------------------9


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Nhà nước gắn liền trong Quốc hội. Vì vậy đã thành lập ra Hội đồng Nhà nước là sự
kết hợp giữa Chủ tịch nước và cơ quan thường trực của Quốc hội. Hiến pháp hiện
hành đã thiết lập lại chế định Chủ tịch nước để thực hiện phân công rành mạch chức
năng, nhiệm vụ của Chủ tịch nước và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong đa số đại biểu Quốc hội chịu trách
nhiệm về báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước thực hiện các chức năng
có tính đại diện long trọng của Nhà nước. Theo nguyên tắc thống nhất quyền lực
nhà nước xã hội chủ nghĩa thì Chủ tịch nước gắn liền với Quốc hội, cùng với Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện các chức năng đứng đầu Nhà nước.
 Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chức năng của Chính phủ
là thống nhất quản lý các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của đất nước, bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ Trung
ương đến các cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính phủ do Quốc hội thành lập chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước.
 Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước ta bao gồm Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự.
 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được lập ra để thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp, thực hành quyền công tố.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự.
 Chính quyền địa phương là cơ quan được lập ra để thực hiện quyền
lực nhà nước của nhân dân địa phương và tổ chức quản lý địa phương. Chính quyền

địa phương bao gồm: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh đến
cấp xã.

4. Sự phát triển của bộ máy nhà nước Việt Nam qua các Hiến pháp
4.1 Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lật đổ chế độ thực dân giành độc
lập dân tộc, thủ tiêu chế độ quân chủ lập hiến để lập nên nền cộng hòa.
Ngay sau thắng lợi, Chính phủ lâm thời đã được thành lập, trước đó là Ủy ban
dân tộc giải phóng do Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào bầu ra. Ở địa phương thiết
lập các chính quyền nhân dân là các Ủy ban nhân dân cách mạng và Ủy ban công
nhân cách mạng. Thời gian sau đó các cơ quan chính quyền địa phương được tổ
chức lại dưới hình thức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính.
Hiến pháp 1946 được Quốc hội lập hiến thông qua tại kỳ họp thứ hai. Hiến
pháp đã xây dựng một bộ máy nhà nước theo mô hình dân chủ nhân dân.
----------------------------------------------------------------------------------------------------10


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Ở Trung ương bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan Nghị viện nhân dân,
Chính phủ, Tòa án tối cao. Nghị viện nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra, có
quyền giải quyết những vấn đề chung, quan trọng của đất nước, ban hành pháp luật,
biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài. Nghị
viện nhân dân lập ra Chính phủ, thông qua Ban thường vụ để kiểm soát và phê bình
Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc do Chủ tịch nước
đứng đầu. Thành phần Chính phủ bao gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước và
nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó thủ
tướng. Chính phủ lúc này chưa hoàn toàn là cơ quan chấp hành của nghị viện,
ngược lại còn có thể phủ quyết các luật của nghị viện (Điều 31). Tuy nhiên nếu nội

các mất tín nhiệm thì phải Chính phủ phải từ chức ( Điều 54).
Tòa án tối cao đứng đầu hệ thống cơ quan tư pháp, bao gồm Tòa án tối cao,
các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Các viên thẩm phán do
Chính phủ mà đứng đầu là Chủ tịch nước bổ nhiệm. Lúc này chưa có Viện kiểm sát
nhân dân mà trong thành phần của các tòa án, ngoài các thẩm phán xét xử còn có
các thẩm phán buộc tội.
Cơ quan chính quyền địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính. Riêng ở cấp Bộ và Huyện chỉ có Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân
dân do nhân dân bầu ra. Ủy ban hành chính do Hội đồng nhân dân bầu ra. Cấp nào
không có Hội đồng nhân dân thì do các Hội đồng nhân dân cấp dưới bầu ra. Hội
đồng nhân dân quyết nghị các vấn đề thuộc địa phương mình. Ủy ban hành chính có
trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên mà các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân, quản lý công việc hành chính trong địa phương.
4.2 Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959
Thời kỳ ở miền Bắc đã chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà
nước được xây dựng lại theo hướng bộ máy nhà nước kiểu xã hội chủ nghĩa mà đặc
trưng là vận dụng nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa.
Ở trung ương có Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội được xác định là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chủ tịch nước không còn đồng thời là người
đứng đầu Nhà nước, tuy nhiên vẫn còn nghiêng nhiều về phía Chính phủ. Hội đồng
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tòa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Đặc
biệt có một cơ quan mới là Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Quốc hội lập ra để
thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan nhà nước từ Bộ trở xuống, bảo đảm
việc tuân thủ pháp luật để pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất
thực hành quyền công tố. Các cơ quan đều được Quốc hội thành lập và chịu sự
giám sát, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
----------------------------------------------------------------------------------------------------11



Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Ở địa phương, cơ quan chính quyền địa phương ở tất cả các cấp hành
chính đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính.
Hệ thống Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đến đây được tổ
chức theo lãnh thổ. Tòa án nhân dân gồm có Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân địa phương và Tòa án quân sự. Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân
dân địa phương do Quốc hội và Hội đồng nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
cơ quan đó.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự. Hệ thống này tổ
chức các hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành,
không chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cấp ấy mà chỉ có Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội.
Chủ tịch nước được chọn bầu trong nhân dân, có vai trò phối hợp với các Cơ
quan nhà nước. Hội đồng Chính phủ tuy đã xác định là cơ quan chấp hành của Quốc
hội song vẫn là cơ quan hành chính cao nhất của nước ta chứ không phải là của
Quốc hội như Hiến pháp 1980 sau này.
4.3 Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980
Đến Hiến pháp 1980, bộ máy nhà nước ta đã được thiết kế theo đúng mô hình
bộ máy nhà nước kiểu xã hội chủ nghĩa thịnh hành lúc bấy giờ ở các nước xã hội
chủ nghĩa như ở Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc... Nguyên tắc tập quyền
xã hội chủ nghĩa đã được vận dụng một cách triệt để.
Ở Trung ương, Quốc hội được xác định một cách đầy đủ hơn về mặt tính chất
cũng như thẩm quyền theo hướng là cơ quan có toàn quyền (Điều 82). Theo mô
hình cơ chế tập quyền xã hội chủ nghĩa, chế định Chủ tịch nước cá nhân được thiết
kế lại sao cho gắn bó với Quốc hội. Hội đồng nhà nước được thiết lập là cơ quan
cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hội đồng Chính phủ được đổi thành Hội đồng Bộ trưởng với tính chất là cơ
quan chấp hành và hành chính cao nhất còn cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra tất cả từ Chủ tịch đến thành viên, chịu trách
nhiệm trước Quốc hội. Đến lúc này thì Hội đồng Bộ trưởng - cơ quan trước đây
vốn có nhiều độc lập đã lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quyền lực (về mặt lý
thuyết).
Chính quyền địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân (Ủy ban hành chính trước đây đổi tên thành Ủy ban nhân dân) được thành lập
ở tất cả các cấp, kể cả thành phố, thị xã. Thay đổi quan trọng nhất là có sự tăng
cường vai trò của Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp. Hội đồng nhân dân quyết định các
vấn đề xây dựng địa phương, bầu ra Ủy ban nhân dân.
----------------------------------------------------------------------------------------------------12


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Hệ thống Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân về cơ bản được tổ chức
giữ nguyên như trước, Quốc hội thành lập Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện thành lập Tòa án nhân dân
tương ứng. Riêng Viện kiểm sát nhân dân các cấp vẫn tổ chức theo nguyên tắc
thống nhất từ trên xuống.
4.4. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 xây dựng lại bộ máy nhà nước trên tinh thần đổi mới. Nguyên
tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được nhận thức lại và vận dụng hợp lý hơn. Đó là:
một mặt vẫn tiếp tục khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất chứ không phân
chia các quyền, mặt khác cần thiết phải có sự phân công, phối hợp giữa các Cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở đó, bộ máy nhà nước được xây dựng lại theo hướng vừa bảo đảm
thống nhất quyền lực vừa phân công, phân nhiệm rành mạch.
Quốc hội vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền.

Các cơ quan khác được lập ra nhất định phải chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm
trước Quốc hội. Đây là các mặt bảo đảm thống nhất quyền lực.
Sự phân công, phối hợp thể hiện ở chỗ quy định phạm vi, chức năng nhiệm vụ
của từng cơ quan một cách rõ ràng. Chẳng hạn như, Quốc hội vẫn có quyền quyết
định các vấn đề cụ thể song chỉ là những vấn đề quan trọng. Chính phủ là cơ quan
chấp hành của cơ quan quyền lực song là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất, tức
là có sự độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính. Chế định Chủ tịch nước được
lập lại để phân định rõ chức trách giữa Chủ tịch nước và Ủy ban thường vụ Quốc
hội. Chính quyền địa phương quy định rõ hơn mối liên hệ giữa Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân với các Cơ quan nhà nước cấp trên...
Ngoài ra, trong tổ chức Chính phủ và Ủy ban nhân dân còn có sự phân định rõ
tính tập thể và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu, cũng như đã xác định rõ
quyền giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp.
* Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, bộ máy nhà nước cơ bản
vẫn không có gì thay đổi về mặt tổ chức, chỉ có việc giới hạn phạm vi kiểm sát của
Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi kiểm sát các hoạt động tư pháp để tập trung
hơn nữa công tác kiểm sát tuân theo pháp luật của cơ quan này và thực hiện tốt
chức năng công tố.

----------------------------------------------------------------------------------------------------13


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

BÀI 2
CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
1. Khái niệm chế độ bầu cử
Ở nước ta tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Song không phải mọi người
dân đều có thể thực hiện tất cả quyền lực của mình mà họ cần phải bầu ra các cơ

quan đại diện để thay mình thực hiện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Vì thế, vấn
đề bầu cử trở nên rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân,
chứng tỏ nhân dân là người chủ của đất nước.
Có hai hình thức mà nhân dân sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước của
mình: trực tiếp và gián tiếp, tạo nên hai hình thức dân chủ: dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện. Nhân dân trực tiếp bỏ phiếu quyết định những vấn đề thuộc chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước là hình thức dân chủ trực tiếp, còn hình thức dân chủ
thứ hai được thể hiện bằng việc nhân dân bỏ phiếu bầu ra người đại diện, thay mặt
nhân dân giải quyết các công việc của nhà nước, được gọi là dân chủ đại diện. Cả
hai hình thức này đều sử dụng biện pháp bỏ phiếu để thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa chế độ bầu cử được phát triển, hệ thống các cơ
quan quyền lực nhà nước được nhân dân bầu ra có nhiệm kỳ. Đa số các hiến pháp
tư bản đều tuyên bố luật phổ thông đầu phiếu. Đây là một thắng lợi to lớn về mặt
lịch sử của nhân dân lao động, vì nó tạo ra khả năng để mọi tầng lớp trong xã hội
đều có thể tham gia vào đời sống chính trị của xã hội và cũng là một tiến bộ lớn
trong việc thực hiện quyền của công dân.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ bầu cử mang đậm tính chất dân chủ,
bầu cử được mở rộng đối với mọi tầng lớp, mọi người có quyền ngang nhau, tự do
biểu hiện ý chí của mình, đó là một trong những yếu tố khẳng định bản chất nhà
nước của nhân dân.Vì thế, bầu cử mang tính giai cấp sâu sắc, trong xã hội có giai
cấp thì chế độ bầu cử là một công cụ hữu hiệu để giai cấp thống trị nắm được bộ
máy nhà nước để điều hành đất nước.
Chế độ bầu cử là chế độ của sự hình thành bằng tổng thể các mối quan hệ xã
hội được diễn ra thông qua các cuộc bầu cử kể từ lúc lập danh sách cử tri, xác định
những người được quyền đi bỏ phiếu, giới thiệu ứng cử viên, xác định những người
có thể được bầu làm đại diện trong các cơ quan nhà nước cho đến giai đoạn cuối
cùng là xác định, và tuyên bố kết quả của cuộc bầu cử.
Với tư cách là một biện pháp dân chủ thành lập ra bộ máy nhà nước, cho
nên các cơ quan nhà nước của nước ta đều trực tiếp hoặc gián tiếp do nhân dân
bầu ra. Chẳng hạn, Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước trực tiếp bầu

ra, cho nên đây là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao, Quốc hội thay mặt nhân dân,
giải quyết các công việc quan trọng của đất nước, từ việc ban hành Hiến pháp và
pháp luật, cho đến việc thành lập ra các cơ quan nhà nước khác...
----------------------------------------------------------------------------------------------------14


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Với tầm quan trọng như vậy, cho nên ngay từ khi mới thành lập Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh tiến hành các
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Về phương diện pháp luật, chế độ bầu cử còn được hiểu là một chế định
quan trọng nằm trong hệ thống ngành luật hiến pháp, bao gồm các quy phạm
phâp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến bầu cử, quyền ứng cử
vă các qui trình để tiến hành bầu cử từ lúc lập danh sách cử tri cho đến khi xác
định kết quả bầu cử.

2. Các nguyên tắc bầu cử
Với tính chất quan trọng của vấn đề bầu cử như vậy, pháp luật bầu cử của
chúng ta được xây dựng trên một số nguyên tắc nhất định. Việc bầu cử đại biểu ở
nước ta được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín. Các nguyên tắc đó thống nhất với nhau, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách
quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn.
2.1. Nguyên tắc phổ thông
Nhà nước ta được xác định là Nhà nước của dân, người dân làm chủ trong
việc bầu ra những người đại diện cho mình. Vì vậy, Nhà nước phải tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi người dân đều có thể tham gia bầu cử. Đây là nguyên tắc quan
trọng nhất trong chế độ bầu cử của mỗi nhà nước nói chung, và của Nhà nước ta nói
riêng. Mức độ dân chủ của mỗi xã hội được thể hiện chủ yếu và cơ bản thông qua
nguyên tắc này.

Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự
bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình.
Nguyên tắc này được thể hiện ở tính toàn dân và toàn diện của bầu cử. Bầu
cử là công việc của mọi người, là sự kiện chính trị của xã hội, cuộc bầu cử được
tiến hành trong phạm vi cả nước là bầu cử Quốc hội, trong phạm vi địa phương là
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông hay còn gọi là phổ thông đầu phiếu là một
nguyên tắc hiến định được Điều 54 Hiến pháp 1992 (2001) ghi nhận và cụ thể hoá
tại Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997 (2001, 2010) và Luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân 2003 (2010).
“Công dân, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên
đều có quyền bầu cử và từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân theo qui định của pháp luật, trừ những người mất trí và những
người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó”. Khác với các nhà
nước tư bản, ở Nhà nước ta quân nhân trong quân đội vẫn có quyền bầu cử và ứng
cử.
----------------------------------------------------------------------------------------------------15


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Danh sách cử tri phải được niêm yết ở nơi ở, nơi công tác để các cử tri kiểm
tra, xem xét quyền bầu cử của mình. Trong trường hợp không có tên, hoặc sai họ
tên... cử tri có quyền khiếu nại để bảo đảm quyền bầu cử của mình.
2.2. Nguyên tắc bình đẳng
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng xuyên suốt quá trình bầu cử,
từ khi lập danh sách cử tri cho đến lúc xác định kết quả bầu cử. Hình thức biểu hiện
của nguyên tắc này rất đa dạng. Nhưng trước hết, mỗi cử tri đều có số lần bỏ phiếu
như nhau. Trong một cuộc bầu cử, mỗi cử tri chỉ có một lá phiếu, đủ tiêu chuẩn

theo qui định của luật bầu cử thì được lập danh sách cử tri.
Nguyên tắc bình đẳng bảo đảm để mọi công dân có khả năng như nhau trong
việc tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào.
Nguyên tắc bình đẳng nhằm bảo đảm sự khách quan, trung thực trong bầu cử.
Nguyên tắc này thể hiện ở việc qui định số lượng dân như nhau thì được bầu số đại
biểu bằng nhau; mỗi cử tri được ghi tên vào danh sách ở một nơi cư trú, mỗi người
chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử, mỗi cử tri chỉ được bỏ phiếu một lần.
Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, nhà nước có các biện pháp bảo đảm để
đồng bào dân tộc cũng như phụ nữ có số đại biểu thích đáng trong Quốc hội và
thích đáng trong Hội đồng nhân dân các cấp.
2.3. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
Nguyên tắc này bảo đảm để cử tri trực tiếp lựa chọn người đủ tín nhiệm vào
cơ quan quyền lực nhà nước bằng lá phiếu của mình không qua khâu trung gian.
Cùng với các nguyên tắc khác, nguyên tắc này là điều kiện cần thiết bảo đảm tính
khách quan của bầu cử.
Trên cơ sở nguyên tắc bầu cử trực tiếp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật bầu cử Hội đồng nhân dân ở nước ta có một loạt qui định nhằm bảo đảm để cử
tri trực tiếp thể hiện nguyện vọng của mình từ khâu đề cử, ứng cử đến khâu bỏ
phiếu. Đó là cử tri tự mình đi bầu, tự tay mình bỏ phiếu vào thùng phiếu; không
được nhờ người khác đi bầu thay mình, không được bầu bằng cách gửi thư.
2.4. Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Nguyên tắc này bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn, để sự lựa chọn đó không
bị ảnh hưởng bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Pháp luật qui định rõ việc bố
trí nơi viết phiếu phải kín, không có ai được đến xem trong lúc cử tri viết phiếu, (trừ
một số trường hợp do luật định cần phải có người viết thay hoặc giúp bỏ phiếu xem Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 (2001, 2010) và Luật bầu cử Hội
đồng nhân dân năm 2003 (2010)).
Bầu cử là hoạt động có tính chất dân chủ. Hoạt động này luôn luôn gắn liền
với nguyên tắc công khai. Tất cả mọi công đoạn của bầu cử phải diễn ra công khai,
nhưng chỉ riêng công đoạn bỏ phiếu thì phải diễn ra trong phòng kín, không có sự
----------------------------------------------------------------------------------------------------16



Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

tham gia của bất kỳ người nào, kể cả nhân viên phụ trách công việc bỏ phiếu tại
phòng bỏ phiếu đặc biệt là khi cử tri đang tiến hành gạch phiếu.

3. Quyền bầu cử và ứng cử
Quyền bầu cử và quyền ứng cử là quyền chính trị quan trọng bảo đảm cho
công dân thể hiện quyền làm chủ của mình.
3.1 Quyền bầu cử
Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện
quyền lựa chọn người đại diện của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
Quyền bầu cử không chỉ là quyền bỏ phiếu mà còn cả quyền đề cử, tức là khả
năng chủ động trong lựa chọn những người có khả năng thay mặt mình trong các cơ
quan nhà nước. Quyền bầu cử còn được hiểu là quyền được bầu vào các cơ quan
nhà nước.
Vì tính chất quan trọng của quyền bầu cử nên quyền bầu cử chỉ được quy
định cho những người phát triển bình thường về mặt thần kinh, đạt đến độ chín chắn
của sự phát triển tâm, sinh lý nhằm bảo đảm cho họ có sự lựa chọn chính xác và độc
lập. Nhưng để tránh sự tuỳ tiện trong việc hạn chế quyền bầu cử của công dân đối
với các trường hợp người bị mất trí, người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước
quyền bầu cử được qui định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật.
Những người mất trí là những người bị bệnh tâm thần, không tự chủ về suy
nghĩ, hành động, không phân biệt được điều đúng, sai, có những rối loạn về nhận
thức, tư duy, tình cảm và hành vi. Những bệnh nhân tâm thần phân liệt và động
kinh đang chữa trị ngoại trú, nhưng được chuyên khoa tâm thần xác định là đã ổn
định, sinh hoạt và làm việc bình thường, hoạt động tư duy, tình cảm và hành vi
đúng đắn, vẫn được quyền bầu cử.
 Những trường hợp công dân không được quyền bầu cử là:

- Người đang trong thời kỳ bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định đã
có hiệu lực của Toà án nhân dân.
- Người đang chấp hành hình phạt tù.
- Người đang bị bắt, đang bị tạm giữ, tạm giam theo qui định của pháp luật.
- Người bị mất năng lực hành vi dân sự.
Ở nước ta, quyền bầu cử được coi là quyền chính trị quan trọng, là vinh dự
và nhiệm vụ của công dân. Công dân thực hiện quyền này một cách tự nguyện. Vì
vậy, các cuộc bầu cử có số cử tri tham gia rất đông (thường khoảng trên 80%). Có
một số nước, bỏ phiếu không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ bắt buộc (Mê-hi-cô,
I-ta-li-a).

----------------------------------------------------------------------------------------------------17


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

3.2 Quyền ứng cử
Quyền ứng cử là qui định của pháp luật về khả năng của công dân thể
hiện nguyện vọng của mình được bầu làm đại biểu. Về nguyên tắc so với quyền
bầu cử, quyền ứng cử được pháp luật đòi hỏi cao hơn về chất. Mọi công dân Việt
Nam có quyền bầu cử (theo điều kiện luật định) đủ 21 tuổi trở lên thì mới có quyền
ứng cử.
Quyền ứng cử của công dân thể hiện ở sự chấp thuận để người khác đề cử
mình hoặc tự mình ra ứng cử.
Ngay từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay, pháp luật đã có những qui định về
quyền ứng cử của công dân. Điều 12 của Sắc lệnh số 51 ghi rõ “Người ứng cử được
tự do ứng cử nơi mình chọn lấy nhưng chỉ một nơi ấy mà thôi”. Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959 đều qui định quyền ứng cử của công dân. Nhưng cùng với việc xây
dựng quyền làm chủ tập thể, Hiến pháp 1980 đã coi quyền ứng cử như một quyền
thụ động và chỉ là khả năng “có thể được bầu” của công dân. Thực hiện chủ trương

tích cực hoá vai trò của công dân tham gia vào bầu cử, Hiến pháp 1992 và Luật bầu
cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã qui định quyền
bầu cử và quyền tự ứng cử của công dân.
So với quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân có những yêu cầu cao hơn.
Trước hết là độ tuổi, phải là người đủ 21 tuổi trở lên mới có quyền ứng cử. Ngay từ
Hiến pháp 1946 đã qui định “Người ứng cử là người có quyền bầu cử, phải ít ra là
21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. (Điều 18). Vì ở độ tuổi này, con
người đã có thể có sự chín chắn trong suy nghĩ, trong nhận thức, có thời gian tích
luỹ kiến thức nhiều hơn so với độ tuổi 18 như trong quyền bầu cử hay nói cách khác
ở độ tuổi này, trí lực và thể lực của con người phát triển tốt hơn.
Tuy không qui định những điều kiện khác đối với quyền ứng cử của công
dân, nhưng để thực hiện quyền ứng cử công dân cần phải có một số tiêu chuẩn nhất
định, những điều kiện do yêu cầu cuộc sống đặt ra để cử tri theo đó mà có thể lựa
chọn.
Ví dụ: Điều 3 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997 (2001, 2010): “Đại
biểu phải là người trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh ”.
Dựa vào tiêu chuẩn này, các công dân tự ứng cử và cách tổ chức xã hội
thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, đề cử ứng cử viên. Nhưng không phải
đáp ứng được các điều kiện nêu trên là có khả năng ứng cử, một người không
thể thực hiện quyền ứng cử khi người đó:
- Đang bị tước quyền bầu cử, theo quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật, đang chấp hành hình phạt tù, đang bị tạm giam, mất năng lực hành vi dân sự.
----------------------------------------------------------------------------------------------------18


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2


- Đang bị khởi tố về hình sự.
- Đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của toà án.
- Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của toà án nhưng chưa
được xoá án.
- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Trong việc thực hiện quyền ứng cử của công dân, pháp luật hiện hành qui
định công dân có quyền bầu cử, ứng cử. Nhưng để được ghi tên vào danh sách ứng
cử công dân Việt Nam phải được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương giới
thiệu.
Pháp luật nhiều nước trên thế giới có các qui định về các điều kiện ứng cử.
Các điều kiện đó tập trung chủ yếu vào qui định không được kiêm nhiệm một số
chức vụ nhà nước nhất định, quy định thời hạn cư trú, qui định về giá trị tài sản và
việc đặt cọc tiền. Để thực hiện quyền ứng cử, công dân các nước đó phải được một
đảng giới thiệu và thu thập một số lượng chữ ký những người ủng hộ mình.

4. Các qui định về số đại biểu, đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu
4.1. Tổng số đại biểu Quốc hội
Để Quốc hội làm tròn chức năng của mình, Quốc hội cần có một số lượng
đại biểu thích hợp.
Tổng số đại biểu được qui định trên cơ sở:
- Yêu cầu nhiệm vụ Quốc hội
- Tỷ lệ dân mà đại biểu đại diện
- Khả năng tài chính mà nhà nước có thể bảo đảm để đại biểu hoạt động
Nước ta có tổng số đại biểu được qui định đủ bảo đảm cơ cấu, thành phần
đại diện trong toàn dân nhằm phản ánh khối đại đoàn kết dân tộc, đảm bảo hiệu lực
và hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Có hai cách ấn định tổng số đại biểu Quốc hội: ấn định tổng số theo tỷ lệ dân
và ấn định con số cụ thể trong luật bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992
đã qui định “Tổng số đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

không quá 400 người” (Điều 7), nhưng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997
qui định ”Tổng số đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không quá 450 người” (Điều 8) và hiện nay, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997
sửa đổi, bổ sung năm 2001 và 2010 qui định “Tổng số đại biểu Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá 500 người” ( Điều 8).
Trong tổng số đại biểu Quốc hội, các dân tộc thiểu số và phu nữ được qui
định ti lệ đại biểu thích đáng. Thủ đô Hà Nội cũng được dành số đại biểu đủ đại
----------------------------------------------------------------------------------------------------19


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

diện cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả
nước.
4.2. Số đại biểu Hội đồng nhân dân
- Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn được bầu tối đa là 35, tối thiểu là 15
đại biểu.
- Hội đồng nhân dân cấp huyện được bầu tối đa là 40, tối thiểu là 30 đại biểu.
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được bầu tối đa là 85, tối thiểu là 50 đại biểu.
Riêng Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trên ba triệu người
được bầu không quá 95 đại biểu
4.3. Đơn vị bầu cử
Là phạm vi lãnh thổ có số dân nhất định được bầu số lượng đại biểu nhất
định. Phổ biến trên thế giới xu hướng chung là qui định mỗi đơn vị bầu cử bầu một
đại biểu, còn qui định truyền thống của nước ta là mỗi đơn vị bầu cử bầu nhiều đại
biểu. Chẳng hạn, Sắc lệnh số 51 qui định: “đơn vị tuyển cử là tỉnh, số đại biểu của
mỗi tỉnh thì căn cứ vào số dân mà ấn định”.
Hiện nay, luật bầu cử nước ta qui định các đại biểu được bầu theo đơn vị bầu
cử, mỗi đơn vị bầu cử có chung một danh sách ứng cử viên và được bầu không quá
3 đại biểu đối với bầu cử đại biểu Quốc hội và không quá 5 đại biểu đối với bầu cử

đại biểu Hội đồng nhân dân. Mỗi ứng cử viên chỉ được lập danh sách ở một đơn vị
bầu cử. Đơn vị bầu cử Quốc hội thường được chia theo quận, huyện. Mỗi đơn vị
bầu cử có thể là một quận, huyện hoặc từ hai đến ba quận, huyện tùy thuộc vào số
lượng dân cư.
4.4. Khu vực bỏ phiếu
Là phạm vi dân cư nhỏ gồm số lượng cử tri nhất định nằm trong đơn vị bầu
cử, đây là nơi trực tiếp tiến hành bỏ phiếu bầu đại biểu.
Mỗi đơn vị bầu cử được chia thành một hoặc nhiều khu vực bỏ phiếu, mỗi
khu vực bỏ phiếu gồm từ 300 đến 4000 cử tri. Riêng ở những nơi như miền núi, hải
đảo hay những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có tới 300 cử tri cũng được
thành lập một khu vực bỏ phiếu riêng, đơn vị vũ trang nhân dân cũng thành lập khu
vực bỏ phiếu riêng cho mình trừ trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có
chung một khu vực bỏ phiếu.

Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ
sở chăm sóc người cao tuổi có từ năm mươi cử tri trở lên có thể thành lập khu vực
bỏ phiếu riêng.
Cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những người đang chấp hành quyết
định xử lý hành chính có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.

----------------------------------------------------------------------------------------------------20


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ấn định
và phải được Uy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.

5. Các tổ chức phụ trách bầu cử
Để phụ trách việc tổ chức bầu cử Quốc hội, trong mỗi cuộc bầu cử đều

thành lập:
- Hội đồng bầu cử;
- Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Ban bầu cử;
- Tổ bầu cử.
5.1 Hội đồng bầu cử
Để phụ trách việc bầu cử trong phạm vi cả nước, chậm nhất là 105 ngày trước
ngày bầu cử Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử ở trung ương
để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp. Hội đồng bầu cử có từ mười lăm đến hai mươi mốt người, gồm Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức
hữu quan.
* Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc
hội được quy định cụ thể tại điều 14 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997
(2001, 2010).
* Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng bầu cử đối với bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân được quy định cụ thể tại điều 15a Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân năm 2003 ( 2010).
5.2 Uỷ ban bầu cử
Chậm nhất là chín mươi lăm ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Thường trực Hội
đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định
thành lập Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh. Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
có từ hai mươi mốt đến ba mươi mốt người gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư
ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.


----------------------------------------------------------------------------------------------------21


Tập bài giảng Luật Hiến pháp Việt Nam 2

Danh sách Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh phải được báo cáo lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng bầu cử.
* Nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc hội
được quy định cụ thể tại điều 15 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 (2001,
2010).
* Nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban bầu cử đối với bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân được quy định cụ thể tại điều 16 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
năm 2003 ( 2010).
5.2 Ban bầu cử
 Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội
Chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng
nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định
thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ chín đến mười lăm người gồm
Trưởng ban, các Phó Trưởng ban, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số
cơ quan, tổ chức hữu quan.
* Nhiệm vụ quyền hạn của Ban bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định cụ
thể tại điều 16 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 (2001, 2010).
 Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
Chậm nhất là bốn mươi lăm ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi

đơn vị bầu cử một Ban bầu cử gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội. Ở cấp xã, thành phần Ban bầu cử có thêm đại diện tập thể
cử tri ở địa phương.
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ mười một đến mười
ba người. Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có từ chín đến mười
một người.
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có từ bảy đến chín người.
Ban bầu cử gồm Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư ký và các ủy viên.
* Nhiệm vụ quyền hạn của Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được quy
định cụ thể tại điều 17 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 (2010).
----------------------------------------------------------------------------------------------------22


×