Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu kém môn toán lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.57 KB, 23 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN
LỚP 4"


I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Mục đích yêu cầu:
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Câu nói của Bác Hồ vẫn sống mãi với thời gian và vẫn luôn là điều tâm đắc đối
với giáo viên chúng ta.
Trồng người là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, trong đó ngành giáo dục giữ
vai trò quan trọng hàng đầu. Bởi vì, giáo dục là nền móng vững chắc cho những mầm
non của đất nước vươn lên cho những em học sinh thân yêu của chúng ta, có đầy đủ
hành trang sẵn sàng bước vào thế kỉ mới, thế kỉ khởi đầu bằng nền Công nghiệp hóa hiện đại hóa,... và đó cũng là nguồn lục chủ đạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ
nước nhà.
2. Thực trạng ban đầu:


- Làm thế nào để sự nghiệp trồng người mang lại nhiều kết quả cao? Làm cách
nào trong lớp không còn học sinh yếu?
- Thế nhưng, trong quá trình giáo dục để đạt được hiệu quả cao, lớp không còn
học sinh yếu không dễ chút nào. Khi trong thực tế một lớp học bao giờ cũng có sự
chêch lệch về trình độ tiếp thu của học sinh, nhất là học sinh yếu kém thì quả là gánh
nặng đối với giáo viên chủ nhiệm. Gánh nặng đó khiến các em khó vượt qua để theo
kịp các bạn trong lớp. Điều đầu tiên các em không theo kịp bạn bè chính là kĩ năng
tính toán còn yếu. Tôi thiết nghĩ “ Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn Toán
lớp 4” là điều cần thiết.


- Chương trình Toán lớp 4 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở Tiểu
học là sự kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy toán ở nước ta. Thực hiện đổi
mới cấu trúc nội dung và phương pháp dạy học, mục tiêu chương trình Toán lớp 4, yêu
cầu giáo viên trang bị cho học sinh một số chuẩn kiến thức và kĩ năng cơ bản để các
em áp dụng kiến thức và kỹ năng vào học tập và cuộc sống .
- Năm học 2012 -2013 tôi được phân công dạy lớp 4. Đầu năm nhận lớp qua
khảo sát chất lượng, tôi đã phát hiện trong lớp còn nhiều em còn yếu toán tiếp thu bài


quá chậm không nắm được kiến thức cơ bản. Các em còn lơ là trong việc học toán ảnh
hưởng đến giờ học của các em trong thời gian kế tiếp.
Vậy làm thế nào để các em học tốt môn Toán đó chính là vấn đề mà chúng tôi
đặt ra và cần có hướng giải quyết. Từ thực tế trên sau nhiều năm vận dụng và chọn lọc
tôi đã rút được kinh nghiệm về “Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn Toán
lớp 4”
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy còn rất nhiều học sinh khi học bài mới nhưng
những kiến thức cũ có liên quan thì không nắm được, chẳng hạn:
Khi học phép cộng, phép trừ số có nhiều chữ số nhưng các em chưa biết đặt tính
sao cho các chữ số “Cùng hàng phải thẳng cột”, Học phép nhân nhưng rất nhiều em
không thuộc bảng nhân, học chia cho số có 2,3 chữ số các em lại chưa thạo chia cho số
có 1 chữ số…
Có những em nắm được nội dung lý thuyết nhưng khi vận dụng thực hành lại
không áp dụng được, dẫn đến các em chán nản trong giờ học toán.


Tôi chọn đề tài nghiên cứu này nhằm giúp học sinh yếu môn toán nắm kiến thức
ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong giờ học toán nâng cao chất lượng giảng dạy
và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên.
3. Tác hại:
- Đa số các em là dân tộc khmer khả năng tiếp thu còn hạn chế.

- Trình độ các em không đều nhau.
- Hụt hẫng kiến thức từ lớp dưới.
- Một số em nhà ở quá xa trường nên việc đi lại cũng hết sức khó khăn.
- Một số gia đình các em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, một số gia đình do
mải làm ăn kinh tế chạy theo cơ chế thị trường cho nên ít quan tâm đến việc học của
con em mình, đa số học sinh điều trông cậy vào giáo viên đứng lớp.
4. Các giải pháp đã áp dụng:
Với những kinh nghiệm trên tôi đã góp phần nâng cao chất lượng của giờ dạy
học toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Đồng thời tạo sự say mê hứng
thú cho học sinh khi học toán và từ đó học sinh ngày càng yêu thích môn Toán hơn.


Dạy học toán không những dạy kiến thức mà còn rèn kĩ năng tính. Giáo viên cần
phải trao dồi từng bước để nâng cao trình độ nhận thức của các em, giúp các em có
kiến thức cơ bản để học tốt ở các lớp tiếp theo. Vì vậy theo tôi, người giáo viên cần có
một số giải pháp sau:
- Để có kết quả giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình và có
phương pháp giảng dạy tốt.
- Có một phương pháp giảng dạy tốt là một quá trình tìm tòi, học hỏi và tích lũy
kiến thức, kinh nghiệm của bản thân mỗi người.
- Phải nghiên cứu toàn bộ chương trình toán để thấy rõ các hạt nhân kiến thức và
ý nghĩa của nó trong chương trình.
- Trong dạy giải toán cần vận dụng kết hợp linh hoạt các giải pháp đã nêu và các
phương pháp khác .
- Xác định rõ lỗi sai của học sinh tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục, nhất là
đối với đối tượng học sinh yếu.
- Luôn tôn trọng tính độc lập và sáng tạo của học sinh .


Cần áp dụng giải pháp này để giúp cho các em học còn yếu môn Toán làm quen

với giải pháp này.
5. Nguên nhân thất bại:
- Một số em không chú ý trong học tập: Về nhà không ôn bài, không chuẩn bị
bài, không làm các bài luyện tập về nhà, không học các ghi nhớ và nhận xét để vận
dụng vào làm bài, trong giờ học không chú ý nghe giảng.
- Do sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm khi phân tích
tổng hợp thường dựa vào các dấu hiệu dễ thấy bên ngoài, khó phân biệt được các dấu
hiệu bản chất của bài tập khả năng phân tích tổng hợp kém, phát triển chậm .
- Hoạt động tư duy kém linh hoạt, các em gặp khó khăn khi chuyển từ hình thức
thao tác tư duy này sang hình thức tư duy khác. Lý thuyết sang thực hành vào bài toán
cụ thể .
- Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đều trong hoạt động
tư duy. Có những nét riêng với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước đó không đầy
đủ, thiếu vững chắc, thái độ học toán của các em chưa tốt. Các em không thích môn
Toán vì khô khang không hình ảnh như những môn học khác.


- Hoạt động tư duy kém sử dụng ngôn ngữ toán học còn lúng túng nhiều chỗ lẫn
lộn.
- Không hệ thống được lượng kiến thức đã học.
- Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau.
- Các em học yếu tính chậm, chủ yếu dựa vào trực quan hoặc lời gợi ý, góp ý
của giáo viên mới tính được, hoặc nhớ bài một cách máy móc.
- Đặt tính chưa đúng.
- Từ việc lĩnh hội kiến thức thiếu vững chắc đó, các em có thái độ thờ ơ với việc
học không chịu cố gắng ngại khó thiếu tự tin thụ động chán nản trong học tập.


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận:

- Dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về các phương pháp dạy học toán ở Tiểu
học. Đặc biệt là chuẩn kiến thức, kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ học toán,
những kiến thức có trong bài học, tham khảo sách hướng dẫn và một số tài liệu bồi
dưỡng trong chương trình toán ở Tiểu học. Bên cạnh đó còn có sự đúc kết kinh nghiệm
của bản thân qua thực tế phụ đạo học sinh yếu môn Toán thời gian qua.
2. Giả thuyết:
- Giáo dục hiện nay đang thực hiện đổi mới toàn diện cả nội dung và phương
pháp.Trong quá trình giảng dạy, mỗi môn học đều có một vị trí rất quan trọng. Nó góp
phần vào sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ cũng như các môn học khác
môn Toán có một vị trí quan trọng đặc biệt đối với đời sống của trẻ. Thông qua môn
Toán, học sinh sẽ được làm quen được trang bị những hiểu biết ban đầu về toán học.
- Trong thực tế, nhận thức của một số giáo viên Tiểu học về công tác bồi dưỡng,
rèn luyện cho học sinh trong học toán và thực hành về môn Toán còn hạn chế, chưa
đúng, chưa đủ, chưa thường xuyên về vị trí, vai trò của công tác này trong nhà trường.


Đó là nguyên nhân thực tiễn dẫn đến kết quả công tác rèn luyện cho học sinh yếu về
môn Toán cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. chính vì vậy số học sinh yếu
về môn Toán còn quá nhiều.
- Việc nắm vững kiến thức toán một cách liên tục và có hệ thống là cần thiết để
học sinh học tốt môn Toán.
- Thực tế còn một số học sinh nắm không đầy đủ lượng kiến thức đã học. Vì vậy
việc tiếp thu kiến thức mới và vận dụng kiến thức cũ vào làm bài tập gặp rất nhiều khó
khăn.
- Do đó việc lắp chỗ hỏng kiến thức toán giúp học sinh nắm một cách có hệ
thống kiến thức toán theo chuẩn kiến thức kỹ năng qui định là cần thiết.
- Để các em nâng dần chất lượng học tập và hứng thú khi học toán thực hiện tốt
chỉ tiêu được giao. Để các em nắm được các kiến thức cơ bản về kiến thức và kỹ năng
Toán 4 tạo điều kiện cho các em học tốt môn Toán, nắm vững những kiến thức cơ bản
cần thiết để tiếp tục học toán ở lớp trên. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “Một số

biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn toán lớp 4”.


- Thực tiễn trong thời gian qua, các trường Tiểu học ở địa bàn huyện Thạnh Trị
nói chung và trường Tiểu học Lâm Kiết nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực
trong việc rèn luyện phụ đạo cho học sinh yếu nói chung và học sinh yếu môn Toán
nói riêng, đã thúc đẩy cho học sinh thi đua trong học tập nhất là ở môn Toán.


3. Quá trình thực hiện giải pháp mới:
- Vào những ngày đầu năm học, giáo viên theo dõi từng học sinh trong quá trình
học tập và kết quả khảo sát phát hiện ra các em học yếu toán, cộng , trừ, nhân, chia sai,
tính toán chậm và không nắm được cách tính. Tìm hiểu lý do học yếu từng em, sau đó
liên hệ với gia đình học sinh đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp.
- Ngay sau khi khảo sát chất lượng của lớp đầu năm, giáo viên đã theo sát lớp
tìm hiểu kĩ từng đối tượng. Sau 2 tuần lễ, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo học sinh yếu
toán, giúp các em nhớ lại các kiến thức đã hổng, dần dần giúp các em lắp lại chổ hổng
kiến thức, nắm chắc kiến thức cơ bản đã học để các em tiếp tục học tốt trong thời gian
còn lại.
- Cụ thể tôi lập danh sách tất cả những học sinh yếu và tổ chức cho các em học
phụ đạo trong 15 phút đầu giờ, trong giờ ra chơi và trong buổi sinh hoạt cuối tuần. Tôi
ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung những bài học sẽ học trong tuần
kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức đã học ở tuần qua bằng
cách cho những bài tập vừa sức với học sinh.


- Chẳng hạn: trước khi học phần phép chia, tôi ôn cho học sinh về phép chia cho
số có 1 chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước lượng tìm
thương của phép chia với số có 2,3 chữ số.
- Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và mau quên.

Các kiến thức cũ phải được giáo viên cũng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội
dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển
tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học sinh thấy rõ sự khác
biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2
số đó.: Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 số đó :Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số
đó: Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạng này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng.
- Trong từng mạch kiến thức giáo viên cần chốt lại cách thực hiện bằng lời nói
đơn giản, dễ hiểu, “Nôm na” nhằm khắc sâu kiến thức. Nói rõ hơn đó là giúp học sinh
thấy rõ cách nhớ của từng đơn vị kiến thức.
* Ví dụ:
+ Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số chia,
thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, ta có thể cho học sinh nắm cách


nhận biết đơn giản nhất: Thực hiện tính trừ cho số trừ, thực hiện tính chia cho từng số
chia (Tìm các thành phần còn lại; tìm số bị trừ ; thực hiện cộng, tính nhân khi tìm số
bị chia…).
+ Đổi đơn vị: từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn: ta thực tính nhân
(2kg =….g . Ta có: 2 x 1000 = 2000 g ) và ngược lại từ đơn vị nhỏ đổi ra đơn vị
lớn ta thực hiện tính chia (chẳng hạn: 36000 kg = …..tấn, ta có: 36000: 1000 = 36 tấn.
- Trong quá trình dạy, giáo viên luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích
hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò
chơi toán học, thi đua tập ra đề toán, trò chơi tiếp sức … phối hợp đang xen nhau tạo
hứng thú cho các em tiếp thu bài tốt hơn.
- Khi phụ đạo về phép chia ở 1,2 tiết đầu tôi cho các em làm việc nhóm đôi, tôi
quan sát thấy nhóm nào thực hiện chia tốt sẽ cho các em làm việc cá nhân. Đôi lúc tổ
chức cho các em thi đua thực hiện phép chia, đố vui về bảng nhân bảng chia. Hay khi
dạy về đơn vị đo thời gian giây tôi cho học sinh quan sát sự chuyển động trên mặt
đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây đi từ một vạch nhỏ đến vạch nhỏ



liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi hết một vòng trên đồng hồ là 60 giây
tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60 giây.
- Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu kém, khuyến khích các
em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặc những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa
sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các
em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc
nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó,
giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần
khắc sâu, cần nhớ kỹ.
- Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết
quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ
là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh.
- Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo
tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm
thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.


- Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học để nắm sự tiến bộ phát hiện
kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế
hoạch phụ đạo học sinh.
- Kết hợp với nhiều phương pháp dạy học để dẫn dắt học sinh tới kiến thức cần
đạt.
- Tạo điều kiện cho học sinh có thói quen trao đổi kiểm tra lẫn nhau.
- Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ các em yếu kém về học
tập, về phương pháp vận dụng kiến thức .
- Giáo viên tổ chức học sinh giỏi kèm học sinh yếu, phụ đạo học sinh yếu trong
giờ tự học, tự ôn tập ở trong lớp những kiến thức để các em nắm vững hơn. Sau buổi
học phụ đạo, giáo viên có kế hoạch kiểm tra trên giấy để nắm mức độ tiến bộ của các
em, tuyên dương các em học có tiến bộ trước lớp nhằm động viên kích thích các em

ham học và học tốt hơn dù đó là những tiến bộ nhỏ.
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học yếu để báo cáo
tình hình học tập của các em học yếu. Kết hợp phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc
nhỡ giúp các em đạt kết quả tốt hơn.


4. Hiệu quả mới - ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
- Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu kém, khuyến khích các
em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặc những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa
sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các
em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc
nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó,
giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần
khắc sâu, cần nhớ kỹ.
- Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết
quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ
là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh.
- Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo
tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm
thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.


- Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học để nắm sự tiến bộ phát hiện
kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế
hoạch phụ đạo học sinh.
- Kết hợp với nhiều phương pháp dạy học để dẫn dắt học sinh tới kiến thức cần
đạt.
- Tạo điều kiện cho học sinh có thói quen trao đổi kiểm tra lẫn nhau.
- Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ các em yếu kém về học
tập, về phương pháp vận dụng kiến thức .

- Giáo viên tổ chức học sinh giỏi kèm học sinh yếu, phụ đạo học sinh yếu trong
giờ tự học, tự ôn tập ở trong lớp những kiến thức để các em nắm vững hơn. Sau buổi
học phụ đạo, giáo viên có kế hoạch kiểm tra trên giấy để nắm mức độ tiến bộ của các
em, tuyên dương các em học có tiến bộ trước lớp nhằm động viên kích thích các em
ham học và học tốt hơn dù đó là những tiến bộ nhỏ.
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học yếu để báo cáo
tình hình học tập của các em học yếu. Kết hợp phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc
nhỡ giúp các em đạt kết quả tốt hơn.


Qua các biện pháp nêu trên đã giúp các em yếu của lớp có sự tiến bộ một cách rõ
rệt, đưa chất lượng học tập của các em nâng dần. Cụ thể đầu năm học các em trong lớp
như: Lý Huỳnh, Sơn Hải, Trần Tuấn Hào, Tăng Chúc Linh,… rất yếu toán, kĩ năng
tính toán rất chậm. Đến cuối học kì I các em đã cơ bản thực hiện được các dạng toán
cộng, trừ, nhân, chia cho số có nhiều chữ số, phân biệt được việc tìm số chia, số bị
chia, thừa số, số hạng, số trừ, số bị trừ trên số tự nhiên và phân số: nắm rõ các dạng
toán hình, toán điển hình …và quan trọng hơn là biết cách thử lại khi thực hiện xong 1
bài toán, không có học sinh nào phải kiểm tra lại, đạt chỉ tiêu trường giao. Tôi xin dẫn
chứng cụ thể số liệu xếp loại học lực môn toán qua từng kỳ của năm học 2012 -2013
như sau:

Thời điểm

TSHS

Giỏi

Trung bình

Yếu


Đầu năm

31

5

16%

10

32%

12

39%

4

13%

Giữa HKI

31

6

19%

12


39%

10

32%

3

10%

Cuối HKI

31

7

23%

13

42%

9

29%

2

6%


Khá


Giữa HKII

31

8

26%

14

45%

8

26%

1

3%

Cuối HKII

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1. Kinh nghiệm cụ thể:
Ta biết rằng quá trình dạy học gồm việc dạy của thầy và việc học của trò. Trong
quá trình dạy học được xác định bởi ba yếu tố cơ bản của nó là: Mục đích dạy học, nội

dung dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, công cuộc đổi mới của Nghành giáo
dục “2 không với 4 nội dung”, trong đó nội dung khắc phục “học sinh ngồi nhằm
lớp” là điều mà mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải đắn đo trăn trở tìm cách tháo gở
những khó khăn đang diễn ra từng ngày, từng giờ. Nó đòi hỏi người giáo viên phải có
năng lực, nhiệt tình, chủ động sáng tạo để thích ứng với đổi mới từng tiết dạy. Vì vậy,
giáo dục Tiểu học của chúng ta đang đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy
tính chủ động, tích cực của học sinh giúp các em tự tin vào bản thân mình sẽ làm được
như các bạn khác trong lớp.
2. Cách sử dụng sáng kiến kinh nghiệm:


- Thiết kế bài dạy phù hợp và sáng tạo.
- Giáo viên kiên trì bền bỉ chịu khó trong công tác phụ đạo học sinh yếu, theo
dõi sát từng đối tượng học sinh trong lớp để kịp thời phát hiện những kiến thức các em
chưa nắm hoặc còn mập mờ nhằm đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp.
- Giáo viên cần nắm vững chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản Toán 4 là một yêu cầu
tối thiểu mà mỗi học sinh lớp 4 đều phải đạt được. Đó là cơ sở để các em học tốt môn
Toán ở các lớp trên, để các em áp dụng những đều đã học vào thực tế cuộc sống.
Đồng thời giáo viên phải biết sử dụng đội ngũ học sinh giỏi trong lớp hỗ trợ giáo
viên trong việc phụ đạo. Và bản thân giáo viên nghiên cứu thường xuyên thay đổi
phương pháp hình thức tổ chức giờ phụ đạo sao cho học sinh hứng thú học tập.
3. Ý kiến đề xuất:
Người xưa nói: “Ngôn dị – hành nan”, nói dễ làm khó. Tuy vậy tôi khẳng định với
các bạn đồng nghiệp: Trên đây là những điều hết sức tâm huyết mà tôi đã thực hiện và
thu được những kết quả rất khả quan trong năm học vừa qua. Chúng tôi rất mong Nhà
trường, Phòng giáo dục tạo điều kiện tổ chức cho chúng tôi những buổi hội thảo, trao
đổi kinh nghiệm với những chuyên đề thiết thực về “Một số biện pháp phụ đạo học


sinh yếu môn Toán” ở lớp Bốn để bổ trợ cho chúng tôi vốn kinh nghiệm chuyên môn,

góp phần nâng cao chất lượng dạy và học theo tinh thần đổi mới.
4. Kết luận:
Trên đây là một số PPDH giúp học sinh yếu học tốt môn Toán trong chương trình
Tiểu học nói chung và chương trình Toán lớp 4 nói riêng. Trong suốt thời gian qua bản
thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất lượng học tập của học
sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin khi học Toán. Đối với tôi,
cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em – những
mầm non tương lai của đất nước.

Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không tránh khỏi
những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến
quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện và đạt kết quả cao
hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy học môn Toán ở Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Lâm Kiết, ngày 10 tháng 04 năm 2013
Người thực hiện

Danh Bé



×