Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một vài biện pháp hạn chế lỗi làm văn của học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.33 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT VÀI BIỆN PHÁP HẠN CHẾ LỖI LÀM VĂN CỦA HỌC
SINH THPT"

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong trƣờng THPT việc viết các bài văn có vai trò rất quan trọng. Các bài viết
văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính kiên nhẫn, cách
nói năng, bồi dƣỡng tâm hồn cho học sinh.
Hiện nay, nhiều học sinh lơ là trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn dẫn đến chất
lƣợng bài làm văn của học sinh ngày càng bị giảm sút. Tình trạng phổ biến là học sinh
yếu kĩ năng làm văn. Hầu hết học sinh mắc lỗi trong việc viết văn từ một đoạn văn
ngắn cho đến một bài luận dài với rất nhiều kiểu lỗi.
Giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trƣờng THPT đã có cố gắng trong việc rèn
luyện kĩ năng cho học sinh nhƣng kết quả vẫn chƣa đƣợc nhƣ mong đợi. Vậy để làm gì
có thể củng cố, rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh? Ngƣời viết bài này xin đƣa ra
một số kinh nghiệm mình đã tích lũy đƣợc qua quá trình dạy học môn Ngữ văn ở lớp
11A4 trƣờng THPT số 1 Bảo Yên.
2. Mục đích của đề tài:
Đề tài này chỉ xin dừng ở việc chỉ ra các lỗi về kĩ năng chủ yếu mà học sinh mắc
phải và đề cập một số biện pháp khắc phục những lỗi đó.
3. Ý nghĩa của đề tài:
Trong tình hình hiện nay khi kĩ năng làm văn của học sinh yếu và nhiều em chƣa
có kĩ năng làm văn, đề tài này góp phần vào việc phát hiện ra và khắc phục những lỗi
viết văn mà học sinh lớp 11A4 trƣờng THPT số 1 Bảo Yên đang mắc phải. Ngƣời viết
cũng hi vọng, đồng nghiệp và học sinh sẽ có thêm tƣ liệu về các lỗi kĩ năng làm văn


của học sinh.
4. Đối tƣợng nghiên cứu:
Học sinh lớp 11A4 trƣờng THPT số 1 Bảo Yên.
Những bài làm văn của học sinh lớp 11A4 trƣờng THPT số 1 Bảo Yên.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Kĩ năng làm văn của học sinh rất phong phú và đa dạng. Nhƣng đề tài chỉ dừng
lại ở việc chỉ ra những lỗi viết văn mà học sinh mắc phải. Ngƣời viết sẽ sử dụng một số
biện pháp nhƣ: quan sát, phát vấn, điều tra và thể nghiệm bằng bài giảng.
PHẦN NỘI DUNG

2


CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
1. Vai trò của các bài viết văn trong trƣờng THPT.
Văn chƣơng vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con ngƣời hóa thân và
thăng hoa. Vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. Môn Ngữ văn trong nhà trƣờng là môn
khoa học nhân văn. Tuy vẫn mang tính phức tạp của đối tƣợng nghiên cứu xong là một
môn học thì nó phải đòi hỏi những chuẩn mực khoa học để đánh giá các hoạt động giảng
dạy, học tập của giáo viên và học sinh. Việc đọc hiểu văn bản là những thao tác đầu tiên
của hình thức tập dƣợt nghiên cứu văn học. Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối
tƣợng cụ thể là tác phẩm văn học. “Cơ sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự
đối thoại với các văn bản văn học thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng”. Đây cũng là
vấn đề đƣợc tác giả Trần Đình Sử quan tâm, theo đuổi khá lâu. Trong tạp chí Nhà văn,
số 6-2002, GS. cho rằng: “Về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm
văn học xây dựng trên cơ sở khái niệm văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu.
Ở đó văn bản chỉ đƣợc coi nhƣ cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải đƣợc
cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Nhƣ vậy, tƣ tƣởng trở về với văn bản là một
luận điểm khoa học khá nhất quán trong phƣơng pháp dạy và học văn của GS. Trần
Đình Sử. Cùng với các bộ môn khác góp phần hình thành nhân cách học sinh, môn văn

trong trƣờng phổ thông có tầm quan trọng đặc biệt, tác động trực tiếp đến phẩm chất, tƣ
tƣởng tình cảm học sinh. Một bài thơ hay, một trích đoạn đặc sắc khắc họa sinh động
hình tƣợng nhân vật, vào và đứng đƣợc trong tâm hồn học sinh sẽ trở thành thành lũy, là
ngọn hải đăng hƣớng đạo hành vi, thái độ sống các em.
Dạy văn là một hoạt động thuộc phạm trù nghệ thuật, khám phá và chuyển tải cái
hay, cái đẹp từ tác phẩm đến học sinh. Mỗi tác phẩm, tùy thể loại, đƣợc tuyển chọn
trong chƣơng trình sách giáo khoa đều toát lên vẻ đẹp riêng.Tác phẩm văn học mang đặc
trƣng riêng của cấu trúc tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đó là một chỉnh thể bao gồm các
thành tố nhà văn – văn bản - ngƣời đọc tƣơng tác với nhau. Nội dung thẩm mĩ của tác
phẩm văn học gắn liền với tầm đón nhận của ngƣời đọc. Tiếp nhận văn học tức là đọc
hiểu để biến văn bản thành một thế giới hình tƣợng sinh động và nắm bắt đƣợc ý nghĩa
của nó.
Cùng với quá trình đọc hiểu văn bản, trong trƣờng phổ thông, học sinh còn phải
viết các bài làm văn theo quy định. Việc viết bài của học sinh không chỉ kiểm tra xem
các em lĩnh hội kiến thức, khả năng cảm nhận văn chƣơng mà còn rèn khả năng ngôn
ngữ, cách diễn đạt. Thông qua các bài làm văn khả năng vận dụng và diễn đạt ngôn ngữ
của các em đƣợc cải thiện rất nhiều. Nhƣ vậy, trong trƣờng phổ thông các bài làm văn
giữ vị trí hết sức quan trọng.

3


2. Những yêu cầu của một bài văn đúng và hay:
2.1 Trƣớc khi làm bài học sinh phải xác định đƣợc phần tìm hiểu đề:
Xác định trọng tâm nội dung của đề.
Xác định các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, chứng minh…
Xác định phạm vi tƣ liệu
2.2 Lập dàn ý:
Việc lập dàn ý giúp ngƣời viết bao quát đƣợc vấn đề, đảm bảo đƣợc tính hệ thống
của lập luận, tính cân đối của bài viết, xác định đƣợc mức độ trình bày mỗi ý, từ đó

phân bố thời gian hợp lí. Lập dàn ý tốt, viết sẽ dễ dàng hơn, nhanh hơn, hay hơn nhờ
biết lựa chọn đúng cách diễn đạt, cách trình bày bài viết.
Dàn ý gồm cấu trúc 3 phần:
a. Mở bài: Có vai trò quan trọng đối với một bài văn. Mở bài đúng và hay sẽ khai
thông đƣợc mạch văn. Ở phần mở bài ngƣời viết cần giới thiệu khái quát vấn đề sẽ nghị
luận, sẽ làm sáng tỏ trong bài viết. Để có đƣợc mở bài hay, cần nêu trọng tâm và phạm
vi vấn đề sẽ bàn bạc một cách ngắn gọn, viết tự nhiên, khúc chiết và mới mẻ.
b. Thân bài: Có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề mà mở bài đã nêu. Thân bài gồm
nhiều đoạn. Giữa các đoạn có câu hoặc từ chuyển tiếp.
c. Kết bài: Là phần kết thúc bài viết.Vì vậy, nó tổng kết, thâu tóm lại vấn đề đã đặt
ra ở mở bài và giải quyết ở thân bài. Một kết bài hay không chỉ làm nhiệm vụ “gói lại”
mà còn phải khơi gợi suy nghĩ trong ngƣời đọc.
2.3 Trình bày dẫn chứng trong bài văn nghị luận:
a. Yêu cầu: khi sử dụng dẫn chứng phải nắm chắc nguyên tắc: lập luận bao giờ
cũng quyết định dẫn chứng, không bài giờ có trƣờng hợp ngƣợc lại; dẫn chứng phải vừa
đủ, không thừa, không thiếu, không quá dài, phải cân đối.
b. Phƣơng pháp lựa chọn dẫn chứng: dẫn chứng phải phù hợp với lời văn, song
song với hệ thống ý.
c. Cách sử dụng dẫn chứng:
Cách 1: Đƣa dẫn chứng thành câu văn riêng biệt và trích xuống dòng, thƣờng đƣợc
dùng cho những câu thơ, câu văn hay.
Cách 2: Dùng một số chữ đặt ẩn trong câu văn:
Cách 3:Tóm tắt dẫn chứng thành lời văn của mình, thƣờng dùng cho văn xuôi và

4


văn tự sự.
2.4 Chuyển ý trong văn nghị luận:
a. Nhiệm vụ:

Đảm bảo bài văn có sự liên tục, chuyển ý phát triển tự nhiên.
Xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa các ý tạo nên bài văn.
b. Cách chuyển ý:
Cách 1: Chuyển ý bằng cách dùng các kết từ
Cách 2: Chuyển ý bằng câu.
Nên chuyển ý linh hoạt để tạo sự hấp dẫn cho bài viết.
2.5 Hành văn trong văn nghị luận:
a. Khái niệm: Hành văn là cách diễn đạt ý ( ý lớn, ý nhỏ), những cảm xúc, suy
nghĩ thành lời văn của ngƣời viết.
b. Cách hành văn:
Chuẩn xác: Yêu cầu này đƣợc hiểu là phản ánh đúng tính chất, ý nghĩa của đối
tƣợng nghị luận.
Truyền cảm: Để có tính truyền cảm câu văn có tính chất triết lí tạo nên tính suy
ngẫm và tính tƣ tƣởng sâu sắc trong bài. Ngƣời viết phải tạo ra những câu văn giàu hình
ảnh; giàu cảm xúc; có giọng điệu, nhịp điệu…
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay:
Hiện nay, tình trạng học sinh các cấp viết sai lỗi chính tả, dùng sai từ, ngữ pháp đang
lên đến mức báo động. Thực trạng này không chỉ xảy ra ở học sinh các cấp dƣới mà
thậm chí ngay cả sinh viên bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cũng mắc
phải. Có những sinh viên học xong đại học, cao đẳng rồi nhƣng vẫn không phân biệt
đƣợc khi nào thì viết “L” hay “N”; “S” hay “X”; “R” hay “D” nên mỗi khi viết hoặc
đánh máy văn bản thƣờng nhầm lẫn một cách trầm trọng. Có những cử nhân không phân
biệt đƣợc lúc nào thì dùng từ “ điểm yếu”, lúc nào dùng “ yếu điểm”…
Vậy do đâu mà có tình trạng trên? Trƣớc hết là do chính bản thân học sinh các cấp
lƣời học, lƣời đọc sách báo, thiếu ý thức rèn luyện ngôn ngữ tiếng Việt nên kiến thức và
khả năng vận dụng ngôn từ của các em còn yếu kém, mắc nhiều lỗi về chữ và nghĩa của
câu.

5



Có không ít học sinh khi kiểm tra đã quá ỷ lại vào sách hƣớng dẫn, sách học tốt mà
chép y nguyên đáp án, lời giải vào bài kiểm tra nên không phát huy đƣợc tính tích cực
của mình, khi tự viết một bài tập làm văn thì mắc mắc rất nhiều lỗi về chính tả, ngữ
pháp. Do không đƣợc rèn luyện nên ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên mắc phải các
lỗi về chính tả, ngữ pháp. Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng này là do sự chủ
quan, lơ là việc rèn luyện kỹ năng viết chính tả của một số thầy, cô giáo khi không dành
thời gian để sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh, lúc chấm bài chỉ phê rất chung
chung nhƣ: Bài viết sơ sài, câu văn lủng củng,… nên khi học sinh xem bài thì không hề
biết mình mắc những lỗi gì cụ thể.
Bên cạnh đó, nhiều thầy cô giáo dạy các bộ môn toán, lý, hóa, sinh,… lại không bao
giờ quan tâm sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh vì cho rằng đây là trách nhiệm của
giáo viên dạy bộ môn văn. Thậm chí có thầy, cô giáo khi chấm bài cho học sinh còn vô
trách nhiệm đến mức chỉ nhìn bài dài hay ngắn, chữ đẹp hay chữ xấu mà phê điểm 8,
điểm 9,… chứ không hề đọc qua xem bài hay hoặc dở.
2. Các lỗi thƣờng gặp trong viết văn của học sinh lớp 11A4 trƣờng THPT số 1
Bảo Yên:
2.1. Lỗi chính tả:
Cũng giống nhƣ rất nhiều học sinh trên cả nƣớc, học sinh lớp 11A4 trƣờng THPT
số 1 Bảo Yên cũng viết sai chính tả rất nhiều. Cụ thể các em mắc những lối sau:
a. Lỗi viết hoa.
Lỗi viết hoa là một trong những loại lỗi chính tả xuất hiện rất nhiều trong bài viết
của học sinh. Lỗi viết hoa bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết hoa sai quy định chính tả và
viết hoa tùy tiện.
Viết hoa sai quy định chính tả :
Viết hoa sai quy định chính tả là viết hoa hay không viết hoa theo đúng quy định
chính tả về viết hoa. Chẳng hạn nhƣ học sinh không viết hoa chữ cái mở đầu bài viết,
đoạn văn, không viết hoa sau dấu chấm (.),dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!), dấu
chấm lửng hết câu (...), hay vi phạm các quy định về cách viết hoa các loại tên riêng.

Ví dụ :
Vũ trọng Phụng, Phan bội Châu, Nam cao, Vũ đại, Tố nhƣ, chị út Tịch, chí Phèo, tác
phẩm ngƣời mẹ cầm súng, cách mạng tháng 8, cách mạng tháng 10....
Lẽ ra, theo quy định chính tả, học sinh phải viết :
Vũ Trọng Phụng, Phan Bội Châu, Nam Cao, Vũ Ðại, Tố Nhƣ, chị Út Tịch, tác phẩm Chí
Phèo, Ngƣời mẹ cầm súng, Cách mạng tháng Tám, Cách mạng tháng Mƣời...
Viết hoa tùy tiện :

6


Viết hoa tùy tiện là viết hoa những đơn vị từ vựng bình thƣờng, không nằm trong
quy định chính tả về viết hoa.
Ví dụ:
Nguyễn Đình Chiểu là Nhà thơ nổi tiếng của Văn học Việt Nam, Chế độ Phong
kiến tàn ác, giai cấp Tƣ sản, cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa, giai cấp Vô sản....
Lỗi viết hoa là loại lỗi chính tả thông thƣờng, dễ tránh, dễ khắc phục, nhƣng học
sinh THPT vẫn mắc phải và điều đó đƣợc thể hiện rõ ở lớp 11A4. Ðiều đó có nguyên
nhân của nó, xét về mặt khách quan lẫn chủ quan.
b. Lỗi viết tắt :
Lỗi viết tắt xuất hiện trong bài viết của học sinh thấp hơn nhiều so với lỗi viết hoa.
Tuy nhiên, trong việc rèn luyện chính tả cho học sinh, lỗi viết tắt cũng cần đƣợc lƣu ý
đến.
Thông thƣờng, lỗi viết tắt bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ: viết tắt sai quy định chính tả và
viết tắt tùy tiện.
Viết tắt sai quy định chính tả :
Viết tắt sai quy định chính tả là viết tắt không theo đúng quy định chính tả về viết
tắt. Chẳng hạn nhƣ các em dùng mẫu chữ thƣờng, dùng dấu chấm hay dấu gạch xéo giữa
các chữ cái viết tắt...
Ví dụ : P/V, đ/c, T.P, H.Ð.N.D v.v...

Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết : PV, ÐC, TP, HÐND (phóng viên, đồng
chí, thành phố, hội đồng nhân dân).
Ví dụ : Trƣờng P.T.T.H.B.Y (Trƣờng trung học phổ thông Bảo Yên)
Viết tắt tùy tiện:
Viết tắt tùy tiện là dùng các kí hiệu viết tắt mang tính chất cá nhân vào bài viết
chính thức. Ðây là các kí hiệu bằng chữ viết Việt Nam hay chữ viết nƣớc ngoài, đƣợc
chế biến lại, lẽ ra chỉ đƣợc dùng khi ghi chép, nhƣng học sinh lại đƣa vào bài kiểm tra,
bài thi, do đó trở thành lỗi chính tả.
Ví dụ : ( ta (ngƣời ta), ( vật (nhân vật), ( (nhấn), ( (nhận), ( (sau), ((trƣớc), ( (trên),
( (dƣới), ( (trong), of (của), on (trên), ...... (những), ...... (nhƣng), fê fán (phê phán), ffáp
(phƣơng pháp), tình thg (tình thƣơng), fg tiện (phƣơng tiện), ndung (nội dung), t2 (tƣ
tƣởng), hthức (hình thức), chnghĩa (chủ nghĩa), chthắng (chiến thắng), xlc (xâm lƣợc)
v.v...
Hiện tƣợng viết tắt tùy tiện rất dễ khắc phục nếu nhƣ học sinh có ý thức tránh loại
lỗi chính tả này khi làm bài thi, kiểm tra.
c. Lỗi dùng số và chữ biểu thị số:

7


Kiểu lỗi chính tả này có hai biểu hiện chính: lẫn lộn giữa hai loại số và lẫn lộn
giữa số với chữ biểu thị số.
Lẫn lộn hai loại số:
Trong bài viết, có những trƣờng hợp học sinh phải biểu đạt bằng số, chẳng hạn nhƣ
khi đề cập đến ngày, tháng, năm, thế kỉ... Theo quy định chính tả, tùy trƣờng hợp mà
dùng số Á Rập, còn gọi là số thƣờng (1,2,3...), hay số La Mã (I, II, III...). Do không nắm
đƣợc quy định chính tả, nên học sinh thƣờng sử dụng lẫn lộn hai loại số.
Ví dụ : Thế kỉ 20, Ðại hội Ðảng lần thứ 6.
Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết bằng số La Mã những trƣờng hợp này mới
đúng.

Lẫn lộn số và chữ biểu thị số:
Bên cạnh một số trƣờng hợp phải viết số, theo quy định chính tả, có khá nhiều
trƣờng hợp phải viết bằng chữ, khi biểu thị số chỉ số lƣợng, số chỉ thứ tự, số chỉ số lƣợng
phỏng chừng v.v... Do không nắm rõ quy định chính tả và do viết theo thói quen, học
sinh dễ lẫn lộn giữa số và chữ biểu thị số trong rất nhiều trƣờng hợp.
Ví dụ:
Ngày ba, tháng hai, năm một ngàn chín trăm ba mƣơi; 1 đám tang; 3 đứa con thơ
dại; 1 cuộc sống; đẹp I , lần gặp gỡ thứ 2; vài 3 ngƣời bạn...
Theo quy định chính tả, phải viết :
Ngày 3, tháng 2, năm 1930; một đám tang; ba đứa con thơ dại ; một cuộc sống;
đẹp nhất; lần gặp gỡ thứ hai, vài ba ngƣời bạn...
So với hiện tƣợng lẫn lộn hai loại số, hiện tƣợng lẫn lộn số và chữ biểu thị số xuất
hiện trong bài viết của học sinh nhiều hơn. Tuy nhiên, cả hai loại lỗi sai này cũng dễ
tránh, nếu nhƣ học sinh nắm đƣợc quy định chính tả về việc dùng số và chữ biểu thị số.
d. Lỗi chính tả âm vị :
Lỗi chính tả âm vị là hiện tƣợng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể hiện trên chữ
viết. Nói đơn giản hơn, đó là hiện tƣợng chữ viết ghi sai từ.
Dựa vào cấu trúc của âm tiết tiếng Việt, có thể chia lỗi chính tả âm vị thành hai kiểu
nhỏ: lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính và lỗi chính tả âm vị đoạn tính.
Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính:
Âm vị siêu đoạn tính là loại âm vị không đƣợc định vị trên tuyến thời gian khi
phát âm, mà đƣợc thể hiện lồng vào các âm vị đoạn tính. Trong âm tiết tiếng Việt, thanh
điệu là âm vị siêu đoạn tính. Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính là hiện tƣợng chữ viết ghi
sai thanh điệu của âm tiết.
Tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu, đƣợc ghi bằng năm dấu thanh: sắc, hỏi, ngã,
nặng, huyền và thanh không dấu. Hiện tƣợng ghi sai thanh điệu chỉ xảy ra ở hai thanh

8



hỏi, ngã. Trong bài viết của học sinh lớp 11A4 mà ngƣời viết đã khảo sát, kiểu lỗi sai
này xuất hiện khá nhiều. Hầu nhƣ bài nào cũng có lỗi hỏi, ngã. Thậm chí, chép đề cũng
sai hỏi, ngã. Dƣới đây là những từ sai hỏi, ngã của học sinh lớp 11A4:
Gố, rế, mớ, đá làm… Đúng ra phải là: Gỗ, rễ, mỡ, đã làm…
Nguyễn Trãi thì các em viết Nguyễn Trá
Lỗi chính tả âm vị đoạn tính :
Âm vị đoạn tính là các âm vị đƣợc phân bố nối tiếp nhau trên tuyến thời gian khi
phát âm. Trong âm tiết tiếng Việt, âm vị đoạn tính gồm có phụ âm đầu, âm đệm, âm
chính và âm cuối / bán âm cuối. Lỗi chính tả âm vị đoạn tính là hiện tƣợng chữ viết ghi
sai các âm vị vừa nêu. Cụ thể là :
Ghi sai phụ âm đầu :
Hiện tƣợng ghi sai phụ âm đầu trong bài viết của học sinh thƣờng thể hiện ở sự lẫn
lộn các chữ cái hay các tổ hợp chữ cái ghi phụ âm đầu sau đây :
- ch / tr : chung thành, trà đạp, chống chả, từng chải, chăng chối, chủ chƣơng,
chông đợi, chầy chật, xáo chộn...
- s / x : sƣơng máu, xum họp, sâu sa, đi xứ, đổi sử... xúc vật, xúc tích, xi mê, sống
xót, xỉ nhục, bổ xung...
- gi / d : thúc dục, dan dối, dành lại, giả man, để giành, dèm pha, che dấu, dòn dã,
gia chạm, vấn thân, bởi gì.
- g (gh) / r : ranh tị, hàn rắn , gàn buộc, đói ghét, gắn gỏi...
- h /q : huênh quang, quang vắng , quyển quặc, quyền bí, quà quyện, quyên
náo...
Ghi sai âm đệm :
Trong âm tiết tiếng Việt, âm đệm /-u-/ phân bố sau phụ âm đầu, đƣợc ghi bằng hai
chữ cái u và o, tùy trƣờng hợp. Trong bài viết của học sinh, hiện tƣợng ghi sai âm đệm
thƣờng có biểu hiện thiếu chữ cái ghi âm đệm.
Ví dụ : lẩn quẩn, lạn đả, lanh quanh, lay hoay, lằng ngoằng, lắt chắt, ngó ngáy, ngọ
ngậy v.v...
Ghi sai âm chính :
Trong bài viết của học sinh, hiện tƣợng ghi sai âm chính thƣờng có hai biểu hiện

chính
:
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn, cụ thể là giữa :
- ă / â : câm phẫn, che lắp, tái lặp, trùng lập, tối tâm, xăm lăng, hâm hở, đầm thấm,

9


e ắp, hắp tắp v.v....
- o / ô/ ơ : bốc lột, tận góc, mƣa mốc, chốp bu, chốp lấy, hồi hợp, đớp chát, họp nhất,
bộp tai v.v...
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn với các chữ cái ghi nguyên
âm đôi, nhất là giữa : - ê / i / iê : điều đặn, điu đứng, điểu cáng, kiềm kẹp, chiệu đựng,
hiêu quạnh, nâng niêu, tìm ẩn, thất thiểu v.v...
- u / uô : tuổi thân, muổi lòng, đen đuổi, theo đui, hất huổi, xuôi khiến, xui tay
v.v...
- ƣ / ƣơ : chƣởi mắng, cữi cổ, tức tửi, rác rửi, sửi ấm v.v...
Ghi sai âm cuối / bán âm cuối :
Hiện tƣợng ghi sai âm cuối trong bài viết của học sinh thƣờng có hai biểu hiện
chính
:
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi phụ âm cuối, cụ thể là lẫn lộn giữa :
- c /t : biền biệc, buộc miệng, chất phát, heo húc, lẩn lúc, lũ lƣợc, mất mác, man
mát, mua chuột, phó mặt, phúc chốc, tấc bậc, tiếc hạnh v.v...
- n / ng : dun túng, hiên ngan, hoang hỉ, lãng mạng, làm lụn, phản phất, rung sợ,
rung rẩy, sản khoái, tang hoang, vung trồng, vụn về ...
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi bán âm cuối, cụ thể là giữa :
- o /u : báo vật, cao có, lao lách, láo lỉnh, mếu máu, trao chuốt, trao dồi v.v....
- i /y : ái nái, đai nghiến, đài đọa, lai động, mai mắn, mỉa may, phơi bài, tai chân,
sai mê, van lại ...

Giữa bốn kiểu lỗi chính tả âm vị đoạn tính, trong bài viết của học sinh, hiện tƣợng
ghi sai âm cuối xuất hiện nhiều hơn. Kế đến là ghi sai âm chính và ghi sai phụ âm đầu.
Lỗi ghi sai âm đệm xuất hiện ít nhất.
2.2.Lỗi diễn đạt:
a. Lỗi dùng từ:
Lỗi dùng từ sai phong cách: Thông thƣờng hoàn cảnh giao tiếp đƣợc chia làm
hai loại chính: hoàn cảnh giao tiếp theo nghi thức và hoàn cảnh giao tiếp không theo
nghi thức. Hoàn cảnh giao tíêp theo nghi thức đòi hỏi ngôn ngữ đƣợc gọt giũa. Nhƣng
nhiều khi học sinh trong bài viết của mình thƣờng sử dụng khẩu ngữ:
Hàn Mặc Tử bị hủi về thể xác nhƣng tâm hồn nhất quyết không bị hủi cho.
Đúng ra học sinh phải viết là:

10


Hàn Mặc Tử bị đau đớn về thể xác nhƣng tâm hồn ông vẫn tràn ngập cảm
hứng sáng tạo.
Lỗi về nghĩa của từ: Mỗi từ đƣợc dùng phải đúng nghĩa. Nhiều học sinh dùng từ
sai nghĩa:
Trong bài văn tả về mẹ, một học sinh viết:
Mẹ em vất vả lang thang, lảng vảng ở chợ để bán hàng nuôi hai chị em ăn học.
Trong trƣờng hợp này, học sinh đã sai khi dùng từ “ lang thang’, “ lảng vảng”.
Khi phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ ngƣời tử tù của nhà văn
Nguyễn Tuân một học sinh viết:
Huấn Cao đã đồng hóa viên quản ngục.
Lỗi lặp từ: Trong một câu văn học sinh có thể dùng một từ đến hai ba lần:
Khi phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, một học sinh viết:
Nhà thơ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Xuân Diệu có nhiều bài thơ trong đó có
bài thơ Vội vàng.
b. Lỗi viết câu:

Khi viết văn đòi hỏi học sinh phải viết đúng ngữ pháp. Nhƣng một thực tế đáng buồn
hiện nay là học sinh viết sai câu rất nhiều. Học sinh thƣờng mắc những lỗi căn bản sau:
Nhầm trạng ngữ và chủ ngữ:
Trong bài làm văn phân tích bài thơ Tự tình, một học sinh viết:
“Qua bài thơ Tự tình đã làm thể hiện nỗi lòng ngƣời phụ nữ quá lứa lỡ thì.”
Trong câu văn trên, học sinh đã nhầm trạng ngữ là chủ ngữ. Chữa đúng là:
“Qua bài thơ Tự tình, Hồ Xuân Hƣơng đã thể hiện tâm trạng của ngƣời phụ nữ quá
lứa lỡ thì.”
Lẫn lộn giữa vị ngữ và thành phần phụ chú ngữ:
Cũng trong bài làm văn phân tích bài thơ Tự tình, một học sinh viết:
“Hồ Xuân Hƣơng nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời trung đại.”
Đúng phải là:
“Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời trung đại.”
Câu lan man dài dòng:

11


Khi đề cập về nhà văn Nguyễn Tuân một học sinh viết:
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc nhất với trình
độ đỉnh cao nổi bật cho phong cách thơ Nguyễn Tuân tài hoa uyên bác.
Chƣa nói đến lỗi sai về kiến thức khi học sinh đó viết “ phong cách thơ Nguyễn
Tuân” thì câu này sửa đúng là:
“Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc với trình độ
bậc thầy. Nổi bật trong phong cách của ông là sự tài hoa, uyên bác.”
c.Lỗi dựng đoạn:
Một số học sinh lớp 11A4 trƣờng THPT số 1 Bảo Yên hiện nay không có kĩ năng
dựng đoạn. Các em viết nhƣng không biết bố cục một đoạn văn nhƣ thế nào và phải triển
khai đoạn văn ra sao.
Khi viết về cảnh kết thúc truyện Chữ ngƣời tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân, một học

sinh viết một đoạn văn nhƣ sau:
“Vai trò của cảnh kết thúc truyện ngắn này đã thể hiện dù ở nơi lao tù tối tăm ta
vẫn thấy đƣợc nhân cách cao đẹp của viên quan coi ngục đối với tử tù Huấn Cao là một
trong những phạm của xã hội. Nhƣng viên quản ngục vẫn kính trọng Huấn Cao bởi tài
năng của ngƣời này đã làm viên quản ngục không còn sợ chết mà tới vái ngƣời tù một
vái để xin chữ của ông về treo trên nhà dù bị Huấn Cao coi thƣờng. Và viết điều đó là sẽ
liên lựa đến mình nếu bọn thực dân biết thì sẽ bị giết. Nhƣng viên quản ngục cũng
không thể làm trái mệnh lệnh và phải thi hành.”
Ở đoạn văn trên, ngƣời viết chƣa biết cách dựng đoạn văn. Các câu văn còn lan man
dài dòng, không tập trung vào chủ đề chính
Khi viết về khổ hai trong bài Đây thôn Vĩ Giạ, một học sinh đã xây dựng đoạn văn
nhƣ sau:
“Mở đầu đoạn thơ, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật lặp từ gió và từ mây. Gió và
mây là hai thứ mà theo ngƣời ta cảm nhận là có ở trong không gian. Gió mây lúc nào
cũng song hành, gắn kết với nhau. Nhƣng trong thơ Hàn Mặc Tử, gió mây lại gợi sự chia
xa, ngăn cách, gió thì đi lối gió mây theo đƣờng mây.Câu thơ gợi sự chia cách, li xa bởi
dấu phẩy ở giữa gió và mây, gió và mây không còn có điểm gặp nhau. Câu thơ ở dòng
thứ hai gợi nỗi buồn man mác. Từ buồn hiện thực của nó đã rất buồn, ở đây tác giả sử
dụng buồn thiu, hoa bắp vì thế mà cũng bị lay.
Hai đoạn văn trên điển hình cho những lỗi mà học sinh mắc phải từ dùng từ đến viết
câu, dựng đoạn.

12


d. Lỗi bố cục bài văn:
Điều đáng buồn là còn một bộ phận học sinh không biết xác định, xây dựng bố cục
một bài văn. Điều này tập trung nhiều hơn ở học sinh khối lớp 10. Tuy nhiên, học sinh
lớp 11 cũng có những em không biết phải viết một bài văn nhƣ thế nào. Hạn chế này
đƣợc thể hiện rất rõ khi các em làm bài thi học kì. Lớp 11A4 có một em học sinh lập dàn

ý thay cho bài viết văn, có ba em bài viết không đủ bố cục ba phần trong bài thi học kì I.
2.3. Lỗi sai kiến thức:
Trong bài thi học kì I năm học 2011- 2012 có học sinh viết:
“Vũ Trọng Phụng là nhà văn nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam.”
Đúng phải là “ văn học hiện đại trƣớc 1945”.
Khi viết về viên quản ngục trong Chữ ngƣời tử tù, một học sinh viết:
“…Và viết điều đó là sẽ liên lựa đến mình nếu bọn thực dân biết thì sẽ bị giết”
Từ thực tiễn viết bài của học sinh, ngƣời viết bài đã tiến hành khảo sát:
Kết quả khảo sát lần thứ nhất:
Kết quả này đƣợc thống kê dựa trên bài viết số 1 của học sinh lớp 11A4.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh, trong đó có 24 học sinh ngƣời dân tộc thiểu
số:
Lối học sinh mắc phải
Lỗi viết hoa
Lỗi
tả

chính

Số học sinh mắc lối
Viết hoa sai quy định 32/33
chính tả
Viết hoa tuỳ tiện

Lỗi viết tắt

Viết tắt sai quy định 32/33
chính tả
Viết tắt tuỳ tiện


Lỗi dùng số và
chữ biểu thị số

20/33

30/33
28/33

Lỗi chính tả Lỗi chính tả âm vị siêu 22/33 ( học sinh mắc
âm vị
đoạn tính
lỗi này chủ yếu là

13


ngƣời dân tộc thiểu
số)
Lỗi chính tả âm vị 30/33
đoạn tính
Lỗi dùng từ

Lỗi
đạt

diễn

Lỗi viết câu

Lỗi dùng từ sai phong 20/33

cách
Lỗi về nghĩa của từ

15/33

Lỗi lặp từ

18/33

Nhầm trạng ngữ và 20/33
chủ ngữ
Lẫn lộn giữa vị ngữ và 22/33
thành phần phụ chú
Câu lan man dài dòng

24/33

Lỗi dựng đoạn

21/33

Lỗi bố cục bài
văn

3/33

Lỗi
sai
kiến thức


2/33

3. Nguyên nhân:
Theo suy nghĩ và kinh nghiệm của một nhà giáo, tôi xin mạnh dạn nêu lên những
nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, ảnh hƣởng Internet. Ngày nay đông đảo học sinh sử dụng Internet, ngoài
số ít biết khai thác, tận dụng để học tập thì phần lớn chỉ để chơi game và chat chít. Khi
“chát” các em hầu hết sử dụng tiếng Việt không dấu và dùng cách diễn đạt rất ngắn gọn
bằng những từ ngữ chỉ quen dùng với giới trẻ, và theo quan niệm của họ nhƣ thế mới
đƣợc cho là…sành điệu. Ngôn ngữ phản ánh tƣ duy. Việc thƣờng xuyên sử dụng ngôn
ngữ bất thƣờng, cụt ngủn nhƣ thế sẽ góp phần làm “cùn” đi tính thẩm mỹ và tinh tế vốn
có của ngôn ngữ truyền thống, còn gây khó khăn cho việc rèn luyện tƣ duy sâu sắc.
Thứ hai, ảnh hƣởng của phim ảnh. Ngày nay truyền hình, phim ảnh phát triển đến
chóng mặt. Có nhiều kênh chiếu những phim hấp dẫn với mật độ dày đặc khiến cho
14
thanh thiếu niên ngoài giờ đến trƣờng chỉ “mê mẩn” với phim ảnh. Việc xem phim nhiều


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………

1

1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………

1

2. Mục đích của đề tài………………………………………………..


1

3. Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………

1

4. Đối tƣợng nghiên cứu ………………………………………………

1

5. Phƣơng pháp nghiên cứu …………………………........................
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………….

2

CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:………………………….

2

1. Vai trò của các bài viết văn trong trƣờng THPT…………………

2

2. Những yêu cầu của một bài văn đúng và hay………………………..

3

CHƢƠNG II . THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:…………………………

4


1. Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay……………………………..

4

1

2 Các lỗi thƣờng gặp trong viết văn của học sinh lớp 11A4
trƣờng THPT số 1 Bảo Yên

5

CHƢƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN CHO HỌC
SINH………………………………………………………………………………
16
KẾT LUẬN……………………………………………………………….

21

15



×