Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN môn ngữ văn THPT nghệ thuật trào phúng trong thơ tú xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.55 KB, 31 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MÔN NGỮ VĂN THPT: NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG
THƠ TÚ XƢƠNG"

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở khoa học
Tú Xương sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đầy bi thương của dân tộc. Mọi
giá trị thuần phong mĩ tục của một đất nước thuần phong kiến đã bị đảo lộn. Bằng tài
năng nhạy bén, bút lực dồi dào của một nhà trào phúng xuất sắc, Tú Xương đã kịp thời
phản ánh những cái xấu xa, rởm đời của xã hội đang trên đà hãnh tiến. Để thể hiện sự suy
vong đó ông sử dụng linh hoạt sáng tạo các thủ pháp nghệ thuật trào phúng tạo tiếng cười
với giọng đùa cợt, tếu táo, trào lộng trong thơ. Tú Xương đã đóng góp vào dòng văn học
trào phúng một tiếng cười mới mẻ, độc đáo.
Đánh giá về biệt tài trào phúng của Tú Xương nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu trong
bài viết “Thơ văn Tú Xương” đã nhận xét: “Tú Xương là nhà thơ trào phúng có biệt tài.
Ông ghi lại những cảnh đời lố lăng bằng ngọn bút hiện thực sâu sắc, bằng những hình
ảnh góc cạnh, ngôn ngữ sắc bén” .
Trên thực tế đã có nhiều nhà phê bình, nghiên cứu tham gia vào quá trình tìm hiểu về
nghệ thuật thơ văn Tú Xương. Song chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện và
có hệ thống về nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú Xương. Đây là gợi ý để người viết đi
tìm hiểu và triển khai đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2. Về thực tiễn
Trong phạm vi nhà trường từ cấp phổ thông cho đến bậc cao đẳng, đại học. Tú
Xương là một trong những tác giả được dạy và học nhiều. Đặc biệt trong chương trình
Ngữ Văn có nhiều tác phẩm tiêu biểu của Tú Xương được giảng dạy như: “Thương vợ”,


“Vịnh khoa thi hương”…. Vì vậy, người viết đi tìm hiểu đề tài này với mong muốn hiểu
sâu hơn, đầy đủ hơn về tác giả cũng như tác phẩm của ông, phục vụ cho việc học tập và
giảng dạy thơ văn Tú Xương được tốt hơn.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Hơn một thế kỉ đã trôi qua kể từ ngày mất của nhà thơ Tú Xương (1907), bất chấp
mọi thử thách nghiệt ngã của thời gian, thơ ca Tú Xương vẫn chiếm vị trí xứng đáng
trong lòng độc giả yêu văn học nghệ thuật. Mặc dù tác phẩm của ông để lại không nhiều
nhưng thực sự có giá trị, có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà. Tìm hiểu và
nghiên cứu về nghệ thuật thơ văn cũng như cuộc đời và con người Tú Xương đã có nhiều
nhà phê bình dày công nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu. Mỗi công trình nghiên
cứu lại được triển khai và tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau trong đó có “Nghệ thuật

2


trào phúng trong thơ Tú Xương”. Đó cũng là một trong những khía cạnh tiêu biểu đem lại
sự thành công và phong cách riêng cho tác giả.
Ở đây, người viết không đi sâu vào tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về tác giả Tú Xương
mà trọng tâm đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật trào phúng qua việc xây dựng hình tượng
trào phúng và ngôn ngữ trào phúng đặc sắc trong thơ ông.
Nhà thơ Tú Mỡ trong bài viết: “Tính chất trào lộng trong thơ Tú Xương” đã chỉ ra
cái làm nên nét đặc sắc trong thơ Tú Xương là trào phúng và trữ tình: “Trào phúng hoà
với trữ tình một cách tự nhiên mà khoái hoạt. Đặc biệt Tú Xương có bản lĩnh cao cường,
xứng danh là một bậc thầy đã cống hiến cho tiếng cười Việt Nam nhiều thuận bút quý
báu đáng để chúng ta học tập” .
Hai tác giả Trần Thanh Mại – Trần Tuấn Lộ trong bài viết về “Nghệ thuật trào phúng
trong thơ Tú Xương” lại nhấn mạnh biệt tài trào phúng và đặc sắc về ngôn ngữ mà Tú
Xương sử dụng trong thơ “Tú Xương thật có biệt tài là khi nhìn vào những con người
hoặc những việc rởm đời ông thấy ngay ở đó cái hình dáng điệu bộ, khía cạnh đáng ghét,
đáng khinh bỉ nhất của nó, nhà thơ liền vận dụng khả năng trào phúng châm biếm dồi

dào, nhạy bén của mình, vận dụng kho tàng tục ngữ, ngôn ngữ hình tượng phong phú tinh
vi của mình phê phán tố cáo”.
Đồng thời hai tác giả cũng chỉ ra: “Nghệ thuật trào phúng của Tú Xương còn bao
gồm một khía cạnh đặc biệt là bao giờ nhà thơ cũng cố tìm ra những nét hình dáng xấu,
một cố tật, một dị tướng của người ông định đả kích, do đó làm cho người này càng trở
nên đáng khinh ghét”.
Trong thơ Tú Xương, ông sử dụng tiếng cười như một biện pháp để trào phúng. Sự
phong phú của tiếng cười: “Nó biến đổi từ bài này sang bài khác, từ đối tượng này sang
đối tượng khác. Khi thì nhẹ nhàng, thân mật, dí dỏm, hóm hỉnh, khi thì mỉa mai chua
chát, khi thì nó cay độc ác liệt, và khi thì nó cảm động đau xót, nhuốm đầy nước mắt”.
Điều đặc biệt là Tú Xương đã đưa chính mình vào thơ như một nhân vật chủ thể:
“Nhân vật số một được nhà thơ Tú Xương vẽ lên khá toàn diện và cực kì đậm nét lại là
chính bản thân Tú Xương, một điển hình sống của tầng lớp nhà nho hiện đại. Nhân vật
điển hình này hiện lên với đầy đủ những chi tiết cụ thể nhiều loại, cả về sinh hoạt vật chất
lẫn sinh hoạt tinh thần… Tất cả tập trung dựng nên hình tượng sinh hoạt sống động của
một con người bất đắc trí, bất mãn với xã hội, với thời đại, cụ thể là một nhà nho thất thế
sinh ở cái thời đại nho học thất thế sinh ở cái thời đại nho học về chiều, bút sắt bắt đầu
thay thế bút lông”.

3


Nói như tác giả Chu Văn: “Văn chương của Tú Xương nôm na, trong sáng, không
cầu kì, ít sử dụng điển tích, điển cố, ít mượn tiếng nước ngoài, duyên dáng và hóm hỉnh.
Đọc thơ Tú Xương thấy bốc lên một vị mộc mạc mà trau chuốt, cả một nền học vấn uyên
thâm pha trộn với vốn dân gian cổ truyền. Thơ ông không phải là loại thù hứng du dương,
ngâm nga trong lúc trà dư tửu hậu, mà đọc lên thấy hiện rõ mồn một những cảnh vật,
người rất sinh động, rất quen thuộc… nhiều câu, nhiều bài có giá trị như ca dao, ngạn
ngữ về nội dung đã trở thành nếp suy nghĩ, thành phương châm để nhận xét đời và người,
là thành ngữ kết luận vấn đề trong cuộc sống’’.

Trên đây là những ý kiến tiêu biểu của một số nhà nghiên cứu, phê bình có liên quan
đến nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú Xương. Trên thực tế đã có nhiều nhà phê bình,
nghiên cứu tham gia vào quá trình tìm hiểu về nghệ thuật thơ văn Tú Xương. Song chưa
có công trình nào đề cập một cách toàn diện và có hệ thống về nghệ thuật trào phúng
trong thơ Tú Xương. Người viết coi những ý kiến trên là gợi ý để thực hiện đề tài: “ Tìm
hiểu nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú Xƣơng”.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu đề tài này người viết hướng đến các mục đích sau:
- Thấy được đặc sắc nghệ thuật trong thơ trào phúng Tú Xương.
- Thấy được sự kế thừa và sáng tạo của Tú Xương đối với quá trình phát triển của
văn học dân tộc. Từ đó phục vụ cho công việc học tập và giảng dạy thơ ca Tú Xương
được tốt hơn.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu cơ sở nảy sinh tiếng cười trong thơ trào phúng Tú Xương qua thực tiễn lịch
sử, hoàn cảnh cuộc đời. Từ đó tìm hiểu nghệ thuật trong thơ Tú Xương qua hình tượng
trào phúng và ngôn ngữ trào phúng.
V. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Đối tƣợng
Như tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã xác định, người viết tập trung vào nghiên
cứu những bài thơ trào phúng của Tú Xương trong cuốn “Tú Xương giai thoại” do tác giả
Đỗ Huy Vinh (biên soạn), Nxb Văn hoá dân tộc.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong nhiều khía cạnh về thơ và đời Tú Xương, người viết khai thác vấn đề “Nghệ
thuật trào phúng trong thơ Tú Xương” trên hai phương diện:

4


- Nghệ thuật xây dựng hình tượng trào phúng
- Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ trào phúng

VI. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, bình giảng
- Phương pháp so sánh
Trong quá trình tìm hiểu và triển khai đề tài sáng kiến người viết không tuyệt đối hoá
phương pháp nào. Khi cần thiết có thể sử dụng tổng hợp tất cả các phương pháp trên.
VII. BỐ CỤC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Sáng kiến gồm các phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú Xương
- Phần kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Mục lục
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG:
Khi tiến hành tìm hiểu nội dung khái niệm trào phúng người viết nhận thấy có nhiều
cách định nghĩa khác nhau, có thể kể đến những khái niệm sau:
Theo “Từ điển tiếng Việt” định nghĩa như sau: trào phúng “Có tính chất gây cười để
châm biếm, phê phán” .
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn
học và đồng thời cũng là một nguyên tắc nghệ thuật, trong đó các yếu tố của tiếng cười
mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… những cái xấu xa tiêu cực, lỗi
thời, lạc hậu trong xã hội. Trào phúng theo từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy để cười

5



nhạo, mỉa mai kẻ khác. Song trong lĩnh vực văn học trào phúng gắn liền với phạm trù mĩ
học, cái hài hước và các cung bậc u mua, hài hước, châm biếm”.
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về khái niệm trào phúng
nhưng tóm lại có thể hiểu trào phúng là một thủ pháp để gây cười và dùng tiếng cười để
thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của người nghệ sĩ trước con người và cuộc sống.
II. CƠ SỞ NẢY SINH TIẾNG CƢỜI TRÀO PHÚNG TRONG THƠ TÚ XƢƠNG:
1. Thực tiễn lịch sử
Phương pháp nghiên cứu văn học Mác xít đã khẳng định: “Tác giả - kể cả những
thiên tài lỗi lạc nhất đều chịu ảnh hưởng của một thời kì lịch sử, một dân tộc, một giai
cấp, do đó từ những bằng chứng cụ thể về thời đại, dân tộc, giai cấp để tìm hiểu và giải
thích sự hình thành một tác giả” .
Quan niệm trên đã cho thấy giữa xã hội, thời đại lịch sử và tác giả có sự chi phối ảnh
hưởng qua lại với nhau. Vì vậy, việc tìm hiểu thời Tú Xương sẽ cho ta sự lí giải đầy
thuyết phục về cuộc đời, con người, cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật đặc sắc
của Tú Xương. Chính nhân tố thời đại đã trở thành đối tượng sản sinh ra những hình tượng
nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông.
Về chính trị:
Cuộc đời Tú Xương nằm trọn trong một giai đoạn lịch sử bi thương của dân tộc.
Thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta rồi lần lượt thâu tóm toàn cõi Việt Nam. Năm
1870, khi Tú Xương cất tiếng khóc chào đời cũng là lúc đất nước ta lâm vào cảnh nguy
khốn nhất. Giặc Pháp bình định xong Nam Kỳ, sau đó tiến ra cướp nốt Bắc Kỳ, Trung
Kỳ. Ở Bắc Kỳ, 1873 chúng tấn công ra Hà Nội lần thứ nhất rồi mở rộng địa bàn ra các
tỉnh Hải Dương, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định (quê hương nhà thơ)... Trước sự tấn
công ồ ạt như vũ bão của thực dân Pháp, triều đình Huế đành chịu bó tay bất lực đầu
hàng giặc Pháp với hai hàng ước Hasmard 1883 và Pantenot 1884, công nhận chính thức
nền đô hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Từ đây, xã hội Việt Nam đã chuyển từ xã hội
thuần phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến với nhiều yếu tố rởm đời, đáng
lên án. Toàn bộ giang sơn xã tắc nước nam xưa kia vốn rõ ràng “định phận” tại “thiên thư”
nay đã rơi vào tay giặc. Chính sự va chạm lịch sử này đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc đời,

con người, cá tính và phong cách nghệ thuật Tú Xương.
Về kinh tế:
Năm 1897, sau khi kết thúc giai đoạn vũ lực để chiếm đoạt đất nước ta thực dân
Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa. Chính cuộc khai thác này đã đẻ ra một phương

6


thức sản xuất mới – phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xã hội phong kiến Việt Nam
trở thành xã hội thực dân bán phong kiến.
Gắn liền với sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế là sự thay đổi về cơ cấu giai tầng trong
xã hội. Nhiều tầng lớp giai cấp mới xuất hiện. Bắt đầu là sự xuất hiện trong các công sở
và tư sở của bọn chủ mới những thông ngôn, kí lục, thầu khoán, tổng đốc, y tá, bên cạnh
đó là những bồi, những bếp, nhà thổ, me Tây, đĩ điếm,… phương thức sản xuất mới, sự
thay đổi trong đời sống nhân dân đã dần hình thành các đô thị và làm xuất hiện những
giai tầng mới đặc biệt là giai tầng tư sản thành thị. Điều này đã được tác giả Trần Thanh
Mại ghi nhận “tình hình biến chuyển đó của xã hội Việt Nam không đâu dễ nhận thấy, dễ
nhận bằng Nam Định. Nam Định chính là hình ảnh thu nhỏ lại rõ nét hơn của xã hội Việt
Nam trong giai đoạn đầu của thực dân Pháp”.
Đi đôi với sự chuyển biến về kinh tế, bộ mặt bên ngoài cũng như cơ cấu bên trong
của xã hội đều trải qua sự biến đổi sâu sắc. Đây là lúc phong hoá suy đồi, thời thế điên
đảo, là lúc nho phong tàn bạo, sĩ khí tiêu điều, bút lông thất thế, bút chì gặp thời. Sự
chuyển biến này có ảnh hưởng lớn đến Tú Xương và hình tượng nghệ thuật mà ông phản
ánh.
Về văn hoá xã hội:
Cùng với cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp còn thi hành những chính sách văn
hoá nhằm cai trị và thuần hoá nhân dân ta. Khi Tú Xương bước vào tuổi trưởng thành
cũng là lúc nền văn hoá Việt Nam đã có sự biến chuyển to lớn, từ một nền văn hoá thuần
phong kiến, Pháp đã thi hành chính sách duy trì nền nho học và chế độ phong kiến để kìm
kẹp nước ta trong vòng tăm tối, lạc hậu, không phát triển và giao lưu với các luồng tư

tưởng bên ngoài nhằm bảo vệ quyền thống trị. Đồng thời với việc duy trì nền văn hoá lỗi
thời, lạc hậu chúng còn đưa vào chương trình những môn học mới như: Toán, Pháp văn,
Địa lí… và đây cũng là những môn học trong các khoa thi từ 1903 trở đi. Sự thay đổi của
chế độ thi cử từ Hán học sang Pháp văn là một trong những nhân tố gây ảnh hưởng đến
con người cũng như hình tượng nhân vật và ngôn ngữ trong thơ văn Tú Xương.
Từ sự suy vong của đất nước, sự biến đổi về chính trị, văn hoá, xã hội, sự xâm nhập
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với sự lên ngôi của thế lực đồng tiền đã tạo ra hàng loạt
những sản phẩm mới cho xã hội. Đó là hình tượng thực dân Pháp, vua quan phong kiến,
các bậc khoa bảng, những kẻ tha hoá về đạo đức, lối sống… Bên cạnh việc phê phán các
đối tượng đó Tú Xương còn nhìn nhận mình qua những sáng tác tự trào, tự cười mình,
thoá mạ mình nhưng trên hết là nụ cười để nâng mình lên, vượt qua lề thói của cuộc đời
trần tục với những lố lăng rởm đời. Từ thực tiễn xã hội mục ruỗng đó, bằng cảm quan và
tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ ông đã ghi lại tất cả những thay đổi ấy một cách

7


đậm nét trong thơ mình. Từ đó hình thành ở Tú Xương nghệ thuật trào phúng đặc sắc
trong việc xây dựng hình tượng và ngôn ngữ trào phúng.
2. Hoàn cảnh cuộc đời
Tú Xương sinh ngày 10/8 năm Canh Ngọ tức ngày 5/9/1870 ở làng Vị Xuyên –
huyện Mĩ Lộc – tỉnh Nam Định (nay là phố Hàng Nâu thuộc nội thành Nam Định).
Tên ông lúc nhỏ là Trần Duy Uyên, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích đến khi đi thi
hương mới mới đổi tên là Trần Tế Xương, khoa thi cuối cùng ông lại đổi tên là Trần Cao
Xương.
Tú Xương xuất thân trong một gia đình nho học nghèo ở thành thị đã tiểu tư sản hoá.
Cha ông là Trần Duy Nhuận có đi thi nhưng không đỗ đạt sau ra làm tự thừa ở dinh Đốc
học. Ông là con trưởng trong một gia đình đông con có chín anh em. Tú Xương vốn là
người có tài, thông minh, tính tình phóng khoáng, ăn nói có duyên, có khiếu hài hước, hay
châm biếm trào lộng người khác.

Tú Xương lập gia đình năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn người Hải Dương.
Bà Tú là một mẫu người tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam xưa kia với bản tính đảm
đang, tháo vát, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Bà đã trở thành nhân vật
điển hình trong sáng tác thơ ca của Tú Xương.
Tú Xương đi học sớm và nổi tiếng thông minh giỏi thơ phú nhưng suốt đời lận đận
trong thi cử. Năm 15 tuổi ông bắt đầu đi thi, cuộc đời thi cử của Tú Xương trải qua tám
lần, đó là các khoa Bính Tuất (1885), Mậu Tý (1888), Tân Mão (1891), Giáp Ngọ (1894),
Đinh Dậu (1897), Canh Tý (1900), Quý Mão(1903), Bính Ngọ (1906), đều đặn ba năm
một lần người ta đều thấy có mặt Tú Xương ở trường thi không sót một khoa nào. Mãi
đến năm 24 tuổi Tú Xương mới đỗ tú tài khoa Giáp Ngọ (1894). Song với mảnh bằng tú
tài Tú Xương cũng không làm được quan chức gì, nhà thơ lại cậy cục vác lều chõng đi
thi.
Đối với Tú Xương, thi cử đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong cuộc đời
ngắn ngủi của ông. Nhà thơ đã tự phản ánh trong thơ mình nhiều chuyện về thi cử của cá
nhân ông. Tú Xương hỏng thi “tám năm chưa khỏi phạm trường quy” là do “văn chương
ngoại hạng không quan chấm” nhưng thực chất đó là do sự phá vỡ, kèn cựa của chế độ xã
hội đương thời với cá tính của một nghệ sĩ phóng khoáng, tài hoa. Những thứ phép tắc gò
bó của trường thi thực dân bán phong kiến đã khiến cho tài năng nhà thơ bị vùi lấp. Thi
cử không đỗ đạt đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và tâm lí của nhà thơ tạo ra sự chán nản,
trào lộng ngông nghênh với đời.

8


Mặt khác, cuộc sống sinh hoạt của gia đình ông cũng gặp nhiều khó khăn, nghèo
túng. Sống ở giữa thành thị nhưng gia đình Tú Xương quanh năm sống trong cảnh túng
thiếu. Tú Xương là một trí thức nhưng lại thất nghiệp không giúp được gì cho gia đình,
nguồn sống chỉ trông cậy vào sự đảm đang, tháo vát của bà Tú. Cuộc sống “ăn bám” vợ,
không lo nổi cho gia đình luôn ám ảnh trong ông và có lúc nhà thơ đã tếu táo, trào lộng mình
một cách chua xót.

Ngày rằm tháng Chạp năm Bính Ngọ, tức ngày 20/1/1907, Tú Xương về quê ngoại
ăn giỗ, đi đường gặp mưa, trời lại rét, ông bị cảm nặng và mất ngay đêm ấy ở nhà họ
ngoại thuộc làng Đại Tứ, lúc ấy nhà thơ mới 37 tuổi đời.
Tóm lại, cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ long đong, lận đận trên
con đường thi cử và ngay trong cuộc sống gia đình ông cũng gặp nhiều trắc trở. Cuộc
sống ở thành thị (Thành Nam) với bao bộn bề, xô bồ đã làm nên nét cốt cách, tâm hồn
phong phú trong con người nhà thơ. Một Tú Xương tự do phóng khoáng vượt mình ra
khỏi những phép tắc nho gia để sống với bản ngã của mình. Bên cạnh con người với “cái
tôi” tự khẳng định, Tú Xương đã dựng lên được những hình tượng đặc sắc làm nên bức
tranh sinh động của xã hội trong buổi giao thời và chính hiện thực khắc nghiệt ấy đã tạo
điều kiện cho hồn thơ Tú Xương bay lên. Để kết lại cuộc đời thơ Tú Xương, nhà thơ cùng
thời Nguyễn Khuyến đã viết:
Kìa ai chín suối Xương không nát,
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
CHƢƠNG II
NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ TÚ XƢƠNG
I. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG TRÀO PHÚNG:
Để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình giúp con
người thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa, nhà văn đã sử
dụng hình tượng nghệ thuật để phản ánh.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì hình tượng nghệ thuật là: “Sản phẩm của
phương thức chiếm lĩnh thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng hư
cấu nghệ thuật… nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự
việc, hiện tượng đáng làm cho người ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình đời, tình
người qua một chất liệu cụ thể ” .
Hình tượng có vai trò quan trọng tạo nên tính đa dạng, phong phú cho nghệ thuật
trào phúng trong thơ Tú Xương. Trong thơ ông cả một bức tranh hiện thực sống động với

9



những bậc vua quan phong kiến, học trò, sĩ tử, me Tây, những kẻ tha hoá về đạo đức…
hiện lên sinh động, nhiều vẻ. Bên cạnh đó còn là hình tượng tác giả qua những sáng tác
tự trào. Bằng giọng cười trào phúng, mỉa mai, trào lộng Tú Xương hướng đến các đối
tượng với tất cả sự phong phú của nó. Mỗi đối tượng trong thơ ông lại được biểu hiện qua
những cung bậc khác nhau tạo nên tiếng cười đặc sắc Tú Xương.
1. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng khách thể:
Hình tượng khách thể là những đối tượng bên ngoài tác giả. Đối tượng này chiếm số
lượng lớn trong hầu hết sáng tác thơ ca của Tú Xương. Trước mỗi đối tượng trào lộng
khác nhau, tiếng cười lại mang sắc thái, cấp độ riêng nhằm thể hiện thái độ, tâm trạng
khác nhau của tác giả.
a. Hình tượng thực dân Pháp
Sau khi chiếm được toàn bộ đất nước ta, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất. Chính cuộc khai thác này đã làm cho xã hội Việt Nam có sự
chuyển biến mạnh mẽ, trong xã hội xuất hiện nhiều tầng lớp mới. Bằng cảm quan nhạy
bén của người cầm bút và tấm lòng của một nhà nho phong kiến thất thế, Tú Xương đã
“thâu tóm” rất sinh động những người, những cảnh,… trong xã hội buổi giao thời ấy vào
thơ.
Trong thơ ông thực dân Pháp hiện lên với bộ mặt hống hách ngang ngược:
Hà Nam danh giá nhất ông Cò
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống toang đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo.
(Ông Cò)
“Ông Cò” hiện ra với uy quyền lớn lao của mình, ai thấy cũng phải sợ. Nhưng mạch
ngầm mà Tú Xương kín đáo muốn gửi gắm qua đây là thái độ lên án sự hà khắc cùng
những thiết chế quân luật ngặt nghèo, hết sức vô lí của bọn thực dân Pháp. Cấm nhân dân
nghèo lợp lại nhà để buộc dân phải di cư đi nơi khác, hơn nữa việc đi lại của người dân

cũng bị kiểm soát gắt gao.

10


Đến xâm lược nước ta bọn thực dân Pháp đã tự cho mình có quyền sinh, quyền sát.
Chúng nắm quân luật nước ta, đi lại nghênh ngang trên đường phố của ta, ngay cả trường
thi chữ Hán – nơi tôn nghiêm uy quyền của chế độ phong kiến cũng có mặt bọn chúng:
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà

Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
(Lễ xƣớng danh khoa Đinh Dậu)
Hình tượng thực dân Pháp với những “quan cò”, “ông tây”, “quan sứ”, “mụ đầm”
tuy không phải là đối tượng được Tú Xương phản ánh nhiều nhất nhưng bằng vài nét
phác hoạ nhà thơ đã vạch trần được bản chất xấu xa của chúng. Với hình tượng thực dân
Pháp, Tú Xương đã góp phần ghi nhận đầy đủ những nhân vật điển hình của xã hội trong
buổi giao thời.
b. Hình tượng vua quan phong kiến
Trong hoàn cảnh lịch sử mới, vua quan phong kiến là một trong những đối tượng mà
ngòi bút Tú Xương tập trung phản ánh nhiều nhất. Giống như Nguyễn Khuyến, nói đến
quan lại phong kiến trước hết Tú Xương vạch trần bản chất làm tay sai của chúng.
Nhân chuyện cô hầu bị viên quan huyện đuổi đi vì nghi cô lẳng lơ, đĩ thoã, Tú
Xương làm một bài thơ mượn lời cô hầu gửi cho viên quan để vạch trần cái tội làm tay
sai của hắn.
Chỉ trách người sao chẳng trách mình
Mình trung đâu đấy, trách người trinh?
Áo dầy cơm nặng bao nhiêu đức
Chiếu cạnh giường bên, mấy hột tình?

Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh !
Cổ cong mặt lệch người đâu thế?
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình.
(Cô hầu trách quan lớn)

11


Câu chuyện tưởng như là riêng tư giữa hai người nhưng dưới ngòi bút sắc sảo của Tú
Xương, bài thơ không chỉ là chuyện bạc tình, bạc nghĩa thông thường mà phê phán
chuyện theo giặc, chuyện “giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh”. Một viên quan ăn bổng lộc
của triều đình phong kiến mà có thái độ thờ ơ trước giang sơn đang dần rơi vào tay giặc,
hơn nữa còn làm tay sai cho chúng. Những câu thơ sắc đanh trong bài thơ có thể coi là
tiêu biểu cho tinh thần phê phán nghiêm chỉnh của nhà thơ.
Nếu như Nguyễn Khuyến mượn lời vợ người hát chèo để tước đi vẻ uy nghiêm vốn
có của vị vua mang sứ mệnh “trị quốc an dân” nhưng hoá ra bọn quan này chỉ là những
tên rối, vai hề lố bịch:
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.
(Lời vợ anh phƣờng chèo – Nguyễn Khuyến)
Thì Tú Xương trong bài “Hát tuồng” đã lợi dụng đặc điểm của loại hình nghệ thuật
này khi diễn viên lên sân khấu phải vẽ mặt, đội mũ, nhà thơ đả kích tính chất bịp bợm,
giả dối làm tay sai của bọn quan lại trên sân khấu chính trị bấy giờ:
Nào có ra chi lũ hát tuồng
Cũng hò cũng hát cũng y uông
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn !
(Hát tuồng)
Đối với bọn quan lại, Tú Xương ghét và khinh bỉ. Ông ghét vì chúng chỉ giỏi luồn lót

Tây, bợ đỡ Tây để được làm quan mà bóp nặn nhân dân. Ông khinh vì chúng dốt nát, hèn
hạ. Quan lại thời Tú Xương là những quan lại lố lăng, bẩn thỉu, đê tiện. Tú Xương đã nói rõ
tình trạng ấy trong bài “Phố Hàng Song”:
Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn.
(Phố Hàng Song)

12


Tú Xương còn vạch trần thói tham ô, ăn hối lộ của đám quan lại “quan thấy kiện như
kiến thấy mỡ”; “tiền vào quan như than vào lò”. Nhà thơ Nguyễn Khuyến từng lợi dụng
một cuộc vịnh Kiều để đả kích kín đáo:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Ngày trước làm quan cũng thế a?
(Kiều bán mình)
Tú Xương không đả kích kín đáo như vậy, ông quyết liệt hơn nhiều, đã chửi là lôi
hẳn tên ra, chỉ đích danh kẻ bị đả kích mà không ngần ngại:
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên
Chữ “tra” chữ “cứu” không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ tiền.
(Bỡn tri phủ Xuân Trƣờng)
Làm “tri phủ” mà ông không quan tâm đến dân tình, không lo cho công việc “trị
quốc an dân” của mình mà chỉ quen phê một chữ “tiền”. Xã hội có sự biến chuyển mạnh
mẽ kéo theo đó là lối sống, cách sinh hoạt thị dân đã biến bọn quan lại thành những kẻ
loá mắt vì đồng tiền.
Quan đốc – ở thơ Tú Xương cũng không phải là một kẻ mô phạm đạo đức, xứng

đáng là bậc thầy của thiên hạ mà chỉ là một kẻ truỵ lạc, lấy ăn chơi làm mục đích sống
của cuộc đời:
Ông về đốc học đã bao lâu
Cờ bạc ăn chơi rặt một màu
Học trò chúng nó tội gì thế
Để đến cho ông vớ được đầu.
(Chế ông đốc học)
Phê phán quan lại ăn tiền thực ra không có gì mới, cái mới là ở cách phê phán của Tú
Xương có cá tính hơn, sắc sảo hơn.
Ngoài những đối tượng được chỉ mặt, đặt tên, Tú Xương còn đả kích một tên tri
huyện dốt chữ nghĩa, một ông ấm, một ông Hàn, những quý phu nhân, các cậu công tử có

13


quan hệ với quan lại. Với đối tượng này, nhà thơ không chỉ dừng lại ở những nét cá tính
bên ngoài mà dường như qua cá tính của chúng, ông muốn gọi tên một nét cá tính của
thời đại. Những cá tính chưa rõ nét nhưng nó không hoàn toàn là tính cách của bọn quan
lại trong xã hội phong kiến thuần tuý nữa mà có cái gì phảng phất hình bóng của bọn
quan lại sống dưới chế độ thực dân. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoàn “thơ
châm biếm đả kích của Tú Xương cứ như một ngọn roi quất thẳng vào mặt đối phương
không thương tiếc” .
Dựng lên bức chân dung của những kẻ thuộc giới quan lại mỗi người một vẻ, đầy sắc
cạnh. Tú Xương đã lột trần được bản chất làm tay sai của chúng. Đồng thời vạch ra bản
chất tham ô của những kẻ chuyên đi lừa lọc bóc lột nhân dân để “vinh thân phì gia”.
Không cần kín đáo, dè dặt Tú Xương vạch mặt, chỉ thẳng từng tên, từng đối tượng cụ thể,
rõ ràng đích danh để tố cáo. Qua hình tượng quan lại phong kiến chúng ta thấy được bức
tranh sinh động của xã hội Việt Nam trong cơn cựa mình, chuyển giao từ giai đoạn phong
kiến sang giai đoạn thực dân bán phong kiến. Tú Xương đã đem đến cho văn học dân tộc
những bức hí hoạ đầu tiên về đời sống của giới quan lại cuối thế kỉ XIX.

c. Hình tượng các bậc khoa bảng
Trong bức tranh chung về xã hội của nhà thơ thì hình tượng các bậc sĩ tử đi thi,
những ông Cử, ông Tú, cảnh trường thi hiện lên rõ nét với bộ mặt thảm hại. Hiện tượng
đó đã được Tú Xương phản ánh rõ nét trong bài “Đạo học”.
Đạo học ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học, chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè, gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh, đấm ăn xôi.
(Đạo học)
Đọc bài thơ ta cảm thấy xót xa trước sự suy vi của đạo học nước nhà. Đạo học ngày
xưa với những quy cách nho nhã, sự thông thạo thi, thư, lễ, nhạc thì đạo học ngày nay “đã
chán rồi”. Sự xuống dốc của đạo học tập trung ở hình ảnh cô hàng sách “lim dim ngủ” vì
không còn ai mua sách chữ Nho nữa. Thầy khoá tư lương thì “nhấp nhổm ngồi” vì không
còn ai thuê dạy học nữa.
d. Hình tượng các nhân vật khác

14


Bức tranh xã hội buổi giao thời mà Tú Xương phản ánh, đưa vào thơ ca không chỉ là
bọn thực dân Pháp, bọn vua quan phong kiến, các bậc khoa bảng mà còn là hàng loạt các
nhân vật mới, nó là con đẻ, sản phẩm của chủ nghĩa thực dân. Trong thơ Tú Xương, xuất
hiện hình ảnh những anh công chức thuộc địa, con buôn, sư sãi và những kẻ tha hoá, biến
chất (đĩ điếm, me Tây)… Ở mỗi đối tượng Tú Xương khéo léo bộc lộ thái độ mỉa mai,
chế giễu mang sắc thái riêng, thông qua đó, bức tranh hiện thực được mở rộng.
Tóm lại, bằng nghệ thuật xây dựng hình tượng khách thể, Tú Xương đã phản ánh
chân thực đời sống với bao bộn bề, phức tạp của xã hội Việt Nam trong buổi Tây, Tàu
nhố nhăng. Đó là bức tranh sinh động về tất cả các mặt, hiện tượng của đời sống, không

có thơ Tú Xương thực không tìm đâu thấy một cách cụ thể, sinh động hình bóng và
không khí buổi ban đầu của xã hội thực dân trên đất nước ta.
2. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng chủ thể:
Không chỉ cười cợt, phê phán người khác, Tú Xương còn lấy bản thân mình ra làm
đối tượng trào lộng. Tú Xương tự hoạ bức chân dung của mình từ ngoại hình đến tính
cách, lối sống. Trong cuộc sống ít ai đem vẻ bề ngoài của mình ra để khoe, nhất là những
người có ngoại hình có phần kém duyên, kém sắc. Vậy mà, Tú Xương đã tự hoạ bức chân
dung của mình bằng lối hí hoạ, bằng lời tự giễu bôi xấu mình:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời lơ láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất sứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.
(Tự cƣời mình)
Cũng có khi ta bắt gặp một Tú Xương hào hoa phong nhã trong dáng vẻ:
Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu,
khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh.
Ra phố nghênh ngang quần tố nữ,
bít tất tơ, giầy Gia Định bóng.
(Phú hỏng thi khoa Canh Tý)

15


Sinh ra và lớn lên trong thời đại nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu manh nha, Tú
Xương đã nếm trải mọi thói đời đen bạc. Nhà thơ không hề giấu giếm khi viết về sự ăn
chơi của mình:
Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương

Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
(Tự vịnh)
Vẫn giọng điệu ấy nhà thơ hài hước khi bộc lộ:
Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được cái gì hay cái đấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
(Ba cái lăng nhăng)
Cả cuộc đời Tú Xương 20 năm lận đận trên con đường cử nghiệp, tám năm “tấp
tểnh” đi thi nhà thơ chỉ may mắn đỗ một lần với học vị “tú tài”.
Ngoài việc thi cử, cuộc sống nghèo túng của gia đình cũng để lại dấu ấn rõ nét trong
thơ Tú Xương, ở đó nhà thơ bộc lộ chân thành cảnh ngộ của mình:
Cái khó theo nhau mãi thế thôi,
Có ai, hay chỉ một mình tôi?
Bạc đâu ra miệng mà mong được?
Tiền chưa vào tay đã hết rồi !.
(Than nghèo)
Dường như cái nghèo đã len lỏi, trở thành vấn đề thường trực trong cuộc sống gia
đình ông. Tú Xương phải “van nợ”, “chạy ăn” từng bữa:
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.
(Than nghèo)
Bởi vì nghèo nên nhà thơ chỉ có một chiếc áo bông “để diện”:

16


Bức sốt trong mình vẫn áo bông
Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không !

Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng.
(Mùa nực mặc áo bông)
Mặc dù nghèo nhưng với bản tính hay bông đùa, tếu táo, trào lộng Tú Xương vẫn lên
giọng tự đùa cợt cái nghèo của mình:
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
(Tự cƣời mình 2)
Tết đến không có gì, Tú Xương vẫn nói dóc:
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu.
(Cảm tết)
Nhà thơ đưa chính hình ảnh của mình vào trong thơ để mà cười với “mong muốn làm cho
cuộc sống ngặt nghèo này đỡ cay cực hơn, nhẹ nhàng thoải mái hơn”. Tiếng cười ấy là
tiếng cười nén nước mắt vào trong, càng đọc ta càng nhận thấy chất hiện thực thấm đẫm
trong từng câu thơ.
Tóm lại, qua những vần thơ tự trào, đã cho chúng ta thấy được nhân cách phẩm chất
của Tú Xương, đồng thời qua đó Tú Xương đã gián tiếp phản ánh được thực trạng xã hội
đương thời. Hiện lên trong thơ là bức chân dung một con người có vẻ ăn chơi, tài hoa
phóng khoáng nhưng ẩn đằng sau đó là một con người đời thường giản dị, gắn bó với
cuộc đời. Chính hai bức chân dung ấy đã tạo nên một Tú Xương tài năng đặc biệt của
thời đại.
II. NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRÀO PHÚNG:
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc
trưng của văn học, là yếu tố có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày. Nói như M.
Gorki “yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với sự
vật, hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học”.


17


Và theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoàn trong bài viết: “Nhà thơ Trần Tế Xương”
đã nhận định: “Sức mạnh của thơ Tú Xương là ở tài sử dụng ngôn ngữ… Tú Xương cùng
với Nguyễn Khuyến là bậc thầy về vận dụng ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ trong thơ văn
Tú Xương giản dị mà giàu hình ảnh, cảm xúc mà linh hoạt sắc bén…”.
Như vậy, việc sử dụng ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong thơ trào phúng
Tú Xương, bởi nó là chất liệu trong văn học, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.
1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đời sống:
Ngôn ngữ đời sống là ngôn ngữ được dùng để giao tiếp hàng ngày. Đối với một đất
nước có truyền thống nghìn năm văn hiến như Việt Nam thì ngôn ngữ đã có quá trình
biến đổi lâu dài để cuối cùng đạt được sự hoàn chỉnh như ngày nay. Vận dụng vốn ngôn
ngữ phong phú, đa dạng của dân tộc, Tú Xương đã sáng tạo nên những bài thơ trào phúng
đặc sắc.
a. Đại từ nhân xưng
Nếu như ở các tác giả văn học trung đại trước đó việc sử dụng đại từ nhân xưng
trong thơ còn ít thì đến Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến đại từ nhân xưng được sử dụng
nhiều hơn, và đã có sự phá cách, đưa vào trong thơ là hình ảnh tiếng nói của bản thân
mình. Tuy nhiên phải đến Tú Xương việc sử dụng đại từ nhân xưng mới trở nên phong
phú, đa dạng. Tú Xương sử dụng hầu như tối đa các đại từ nhân xưng, không chỉ sử dụng
đại từ nhân xưng ngôi một (ông, tớ, ta, anh, mình, em…) mà còn sử dụng đại từ nhân
xưng ngôi thứ ba (nó, đứa, thằng…). Với sự phong phú trong cách diễn đạt, tự xưng, Tú
Xương đã làm nổi bật một con người sống gắn bó với thời cuộc, gần gũi với quê hương,
gia đình và cuộc sống của những người xung quanh. Bên cạnh đó nhà thơ còn bộc lộ thái
độ giễu cợt, châm biếm, mỉa mai đối với các đối tượng trào lộng đương thời.
Tú Xương tự xưng là “ta” khi nói về cảnh ngộ của bản thân mình:
Người đói ta đây cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho.
(Thề với ngƣời ăn xin)

Bản thân Tú Xương cũng là một người nghèo, hơn ai hết nhà thơ thấu hiểu và đồng
cảm với cảnh ngộ của người ăn mày, không có gì để cho, bởi “người đói ta đây cũng
chẳng no”, nhà thơ bật ra tiếng chửi mà gói gọn cả tấm lòng của một người nghèo khi
đứng trước một người nghèo hơn mình nhưng không giúp gì được. Sống trong cảnh khốn
khó ấy, Tú Xương càng cố lăn vào trường ốc để thoát khỏi cảnh nghèo. Trong bài “Than
thân chưa đạt” nhà thơ xưng “ta”:

18


Ta phải trả xong cái nợ ta
Lẽ đâu chịu nợ mãi ru mà…
Đây là sự ý thức của bản thân nhà thơ về món nợ công danh. Phần lớn các bậc nhà
nho xưa thì lí tưởng gần như duy nhất là thi đỗ và làm quan, Tú Xương cũng không nằm
ngoài thông lệ ấy. Suốt cuộc đời ôm ấp giấc mộng đỗ đạt nhưng nhìn lại cả cuộc đời Tú
Xương là tấn bi kịch chốn trường thi. Tú Xương nhiều lần thi hỏng xong sự háo hức, lòng
quyết tâm vẫn thôi thúc ý chí của nhà thơ “ta phải trả xong cái nợ ta”.
Và mặc dù “tám năm chưa phạm khỏi trường quy” nhà thơ vẫn tiếp tục đi thi nhưng
không còn cái háo hức buổi ban đầu:
Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng đi thi.
(Đi thi)
Đấy là cái dáng mệt mỏi, chán nản của nhưng anh học trò đi thi với mong ước được
xướng danh khoa bảng. Tú Xương đi thi nhưng đi như một quán tính, mội thói quen
“người đi tớ cũng đi”. Thi mãi mà vẫn trượt, nhà thơ đau buồn nghĩ đến cái chết:
Hễ mai tớ hỏng tớ đi ngay
Giỗ chết từ đây nhớ lấy ngày.
(Hễ mai tớ thi hỏng)
Nhà thơ còn tự xưng mình là “ông” với nhiều cung bậc sắc thái khác nhau nhưng chủ
yếu là để đùa mình. Đó là cái cười “ngông nghênh” của buổi đầu hỏng thi:

Ông trông lên bảng thấy tên ông
Ông tớp rượu vào ông nói ngông.
(Đi thi nói ngông)
Là sự mỉa mai, phê phán đối với việc thi cử đương thời:
Ông có đi thi kí lục không?
Nghe ông quốc ngữ đọc chưa thông
Ví dù nhà nước cho ông đỗ
Mỗi tháng lương ông được mấy đồng.
(Hỏi đùa mình)

19


Có khi, nhà thơ bộc lộ sự bất bình của mình trước thói đời đen bạc. Giọng thơ gay
gắt, phê phán nhưng ẩn chứa nỗi xót xa, tủi cực:
Người bảo ông điên, ông chẳng điên
Ông thương, ông tiếc hoá ông phiền

Khi cười khi khóc khi than thở
Muốn bỏ văn chương học võ biền.
(Thói đời)
Một người như Tú Xương bước vào nghiệp văn chương để đi thi nhưng có lúc cũng
hối hận khi đi vào con đường này. Vì thói đời “đứa trọng thằng khinh chỉ vì tiền” nên có
lúc nhà thơ đau xót, gạt nước mắt vào trong, muốn phá bỏ nghiệp “văn chương” để theo
nghiệp “võ biền”. Tú Xương cười để rồi khóc, xót xa, tủi cực cho thân phận mình.
Bằng cách xưng hô là “bác”, “tôi”, “ta”, “tớ”, “mình”, “ông”…Tú Xương bộc lộ
một con người tếu táo, hài hước về bản thân mình. Bên cạnh đó, nhà thơ còn dùng đại từ
nhân xưng để hướng mũi nhọn vào những đối tượng khác. Đối tượng ấy là những “nó”,
“đứa”, “thằng”…Nhà thơ bộc lộ thái độ châm biếm, chế giễu chua cay:
- Một đàn thằng hỏng đứng mà trông

Nó đỗ khoa này có sướng không.
(Giễu ngƣời thi đỗ)
- Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa.
(Khoa Canh Tý)
- Ấm kỷ này đây tớ bảo mày
Cha con mày phải cái này cay.
(Chửi cậu Ấm)
Nói tóm lại, Tú Xương sử dụng gần như tối đa các đại từ nhân xưng. Có những đại
từ dùng để xưng danh, gọi tên mình một cách hài hước, hóm hỉnh của một con người tự
trào, lại có những đại từ dùng để chế giễu phê phán những đối tượng khác. Việc sử dụng
có hiệu quả đại từ nhân xưng đã giúp Tú Xương làm nổi bật lên các đối tượng trào lộng,
qua đó gián tiếp bày tỏ thái độ của tác giả trước hiện thực xã hội đương thời.
b. Từ tượng thanh, tượng hình

20


Trong thơ, Tú Xương đã sử dụng có hiệu quả hệ thống những từ láy tượng thanh,
tượng hình. Những từ ngữ này có tác dụng gợi ra những ấn tượng mạnh về hình dáng,
tính chất của sự vật, sự việc hoặc gợi ra những cảm giác vui đùa, trào lộng, chế giễu.
Tú Xương miêu tả không khí tết khi mùa xuân về với hàng loạt những âm thanh vui
nhộn:
Đì đẹt trước sân hàng pháo chuột
Loẹt lòe trên vách bức tranh gà
Chí cha chí chát khua giày dép
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
(Xuân)
Trong xã hội buổi giao thời ấy thì những kẻ “đạo đức giả” xuất hiện ngày càng
nhiều:
Hỏi lão đâu ta? Lão ở Liêm

Trông ra bóng dáng đã hom hem
Lắng tai non nước nghe chừng nặng
Chớp mắt trăng hoa, giả cách nhèm
Cũng đã sư mô cùng đứa trẻ
Lại còn tấp tểnh với đàn em.
(Đạo đức giả)
Sử dụng từ láy “hom hem”, “tấp tểnh” nhà thơ đã gợi ra bóng dáng của những kẻ
làm ra vẻ mô phạm, đạo đức nhưng thực chất lại là loại người đểu giả trăng hoa. Lão giả
vờ ốm yếu, nghễnh ngãng nhưng để “chớp mắt trăng hoa” nhìn gái. Giọng thơ của Tú
Xương tỏ ra đùa cợt, bông lơn, giễu nhại đối với loại người này.
Với những từ tượng thanh Tú Xương đã làm nổi bật được sự hỗn loạn, xô bồ của
thời cuộc trong buổi giao thời. Đặc biệt hơn, Tú Xương còn sử dụng hiệu quả những từ
ngữ tượng hình có tác dụng gợi ra những ấn tượng về hình dáng, tính chất của sự vật, sự
việc và con người, nhà thơ làm nổi bật lên đối tượng cần châm biếm, đả kích.
Một tên “bợm già” xảo quyệt nhìn bề ngoài có vẻ là người sang trọng khi ra phố
cũng “xênh xang” nhưng lại là một tên lừa đảo lúc đóng vai thầy số, thầy lang luồn lọt
vào các công sở để xui nguyên dục bị kiện cáo nhau. Nhà thơ mỉa mai:

21


Thầy thầy tớ tớ phố xênh xang
Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng
(Bợm già)
Đó còn là bóng dáng “thướt tha”, “thấp thoáng” của hạng đàn bà lẳng lơ, dâm đãng
chán “cái nợ chồng” để đi ve vãn sư ông. Với loại người này Tú Xương tỏ thái độ khinh
bỉ, chế giễu:
Thấp thoáng bên đèn bên bóng cậu
Thướt tha dưới án nguýt sư ông
(Sƣ ông và mấy ả lên đồng)

Miêu tả sự suy vi xuống dốc của đạo học, nhà thơ tập trung làm nổi bật bóng dáng
của cô hàng sách “lim dim” ngủ và thế đứng “nhấp nhổm” của thầy khoá khi không còn
người thuê dạy học nữa:
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
(Than đạo học)
Thái độ của Tú Xương càng kịch liệt hơn khi miêu tả bức tranh về cảnh trường thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
(Lễ xƣớng danh khoa Đinh Dậu)
Với từ láy tượng thanh “ậm oẹ”, từ tượng hình “lôi thôi” đã đủ vẽ ra trước mặt
chúng ta cảnh tượng nơi trường thi năm Đinh Dậu thật thảm hại. Sĩ tử thì nhếch nhác với
đủ mọi thứ gồng gánh trên vai còn quan trường thì “ậm oẹ” gào thét vừa như cố giương
uy với lũ học trò, vừa mang vẻ khúm núm e sợ trước bọn thực dân. Khung cảnh trường
thi phong kiến với uy nghiêm là thế nay trở thành nơi phường hội nhốn nháo.
Với việc sử dụng hàng loạt những từ láy tượng thanh, tượng hình giàu sức biểu cảm
Tú Xương đã làm nổi bật lên đối tượng trào lộng, khi thì đả kích, phê phán, khi thì đùa
vui, hóm hỉnh. “mỗi bài thơ của Tú Xương như một bức hí hoạ ông khéo vận dụng
những tiếng có sắc cạnh, có màu sắc âm thanh để diễn tả một sự vật, một hoàn cảnh” .
c. Khẩu ngữ

22


Khẩu ngữ là những lời ăn, tiếng nói trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Với
truyền thống lâu đời, trải qua biết bao thăng trầm biến cố của lịch sử nhân dân ta vẫn giữ
được những nét đặc sắc của vốn ngôn ngữ dân tộc.
Vận dụng vốn ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ của dân tộc, Tú Xương đã bày tỏ thái
độ mỉa mai, trào phúng của mình đối với những kẻ “vừa dốt lại vừa ngu”, những kẻ dốt
nát dựa vào bóng của người khác để đỗ đạt. Nhà thơ bật lên tiếng chửi:

- Văn chương nào phải là đơn thuốc
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu.
(Bác Cử Nhu)
- Thi thế mà cũng thi
Ới khỉ ơi là khỉ.
(Than sự thi)
- Trời dậy thì bay chết bỏ đời.
(Hót của trời)
Là một câu chửi thẳng xỏ xiên vào mặt cậu ấm:
-Thằng tiểu Phù Long nó “chửi” mày.
(Chửi cậu ấm)
Đó còn là tiếng chửi những kẻ có tiền mà keo kiệt không chịu giúp người khác:
-Cha thằng nào có tiếc không cho.
(Thề với ngƣời ăn xin)
Có lúc nhà thơ tự “hỏi mình” và thương cho bản thân mình:
No ấm chưa qua vành mẹ đĩ
Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu
Phen này có dễ trời xoay lại
Thằng bé con con đã chán cù.
(Hỏi mình)
2. Sử dụng ngôn ngữ văn học dân gian (thành ngữ, tục ngữ, ca dao)
Có thể nói “sức mạnh của thơ Tú Xương là ở tài sử dụng ngôn ngữ… Tú Xương
cùng với Nguyễn Khuyến là bậc thầy về việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ

23


trong thơ văn Tú Xương, giản dị mà giàu hình ảnh, chính xác mà linh hoạt, sắc bén…
ngôn ngữ trong thơ văn Tú Xương bắt nguồn từ ngôn ngữ quần chúng, ngôn ngữ của ca
dao tục ngữ”.

Để phê phán thực trạng xã hội đương thời đã đẻ ra loại người gian ngoan, xảo quyệt
ông mượn những câu mang ý nghĩa triết lí, răn dạy. Từ hai câu tục ngữ, “ai giàu ba họ, ai
khó ba đời” và “đười ươi giữ ống” thành:
- Ai đấy ai ơi khéo hợm mình
Giàu thì ai trọng, khó ai khinh.
(Con buôn)
- Thả quýt nhiều anh mong mắm ngấu
Lên rừng mà hỏi chú đười ươi.
(Nƣớc buôn)
Trong xã hội lai căng thì chuyện mẹ vợ và chàng rể tư tình với nhau để xảy ra
chuyện “ẵm con so” là điều có thể xảy ra:
Chép miệng bà nuôi to cái dại
Phờ râu ông rể ẵm con so
Cắm sào sâu quá nên thêm khổ
Néo chặt dây vào hoá phải lo.
(Mẹ vợ và chàng rể)
Nếu như đặc điểm của tục ngữ là sự diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử của nhân dân lao động thì tục ngữ trong thơ trào phúng
Tú Xương đã tạo nên tiếng cười mang ý nghĩa răn dạy, phê phán. Tú Xương đã góp thêm
tiếng nói của mình vào sự phát triển chung của thơ ca tiếng Việt và sự phát triển của dòng
văn học phê phán Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Thành ngữ, tục ngữ được dùng trong nghệ thuật trào phúng đã đem lại cho văn
chương Tú Xương những tiếng cười lúc thâm thuý, sâu cay, lúc nhẹ nhàng khuyên bảo
với nhiều sắc thái. Bên cạnh đó là những âm điệu trữ tình ngọt ngào say đắm.
Tú Xương đã đạt đến đỉnh cao trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Nếu như ở giai
đoạn trước Nguyễn Du là mốc lớn trong sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc bằng cách
hướng sự phát triển của ngôn ngữ văn học vào ngôn ngữ bình dân, vào lời ăn tiếng nói
hàng ngày, vào ca dao, tục ngữ tạo ra sự kết hợp hài hoà giữa dòng bác học và dòng bình

24



dân trong ngôn ngữ thơ ca thì ở giai đoạn này Tú Xương là cái mốc quan trọng trong sự
phát triển của ngôn ngữ dân tộc. “Ngự trị trong thơ ông là cái ngôn ngữ hoạt bát mà sắc
cạnh, uyển chuyển mà chính xác đa dạng trong cách nói, phong phú trong cách thể hiện,
một ngôn ngữ hằng ngàu nhiều ví von, nhiều tục ngữ, thành ngữ, một ngôn ngữ đầy sức
sống của dân tộc, của thời đại” .
Với Tú Xương, nhà thơ có rất nhiều dụng ý nghệ thuật trong việc sử dụng ngôn ngữ
để đạt được hiệu quả trào phúng nhưng tiếng cười của ông không đơn thuần là do ngôn
ngữ tạo nên mà nó toát lên từ bản thân hình tượng trào phúng. Ngôn ngữ trào phúng
chính là công cụ giúp nhà thơ xây dựng nên những hình tượng độc đáo. Sử dụng ngôn
ngữ dân tộc vào trong thơ Tú Xương đã thực sự thoát ly tính chất gò bó, ước lệ của văn
chương thời trung đại để tiến gần đến giai đoạn văn học cận đại hơn.
III.CÁC THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT KHÁC:
1. Phép đối
Trong thơ Tú Xương, ông sử dụng phép đối một cách mềm dẻo, tự nhiên và nhiều
lúc rất táo bạo. Nhà thơ đã tạo nên sự đối lập giữa sự vật này với sự vật khác làm nổi bật
bức chân dung đối tượng trào phúng tạo nên tiếng cười đả kích, sâu cay:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngỏng đầu rồng.
(Giễu ngƣời thi đỗ)
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
(Lễ Xƣớng danh khoa Đinh Dậu)
Đối lập giữa trạng thái của đối tượng này với đối tượng khác làm nổi bật sự xuống
dốc của cái học nhà nho buổi suy vi:
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi.
(Than đạo học)
2. Chơi chữ

Với nụ cười hài hước, hóm hỉnh, Tú Xương đã “đùa bạn ở tù”:
…Một ngày hai bữa cơm kề cửa
Nửa bước ra đi, lính phải hầu

25


×