Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Chế Lan Viên đã thốt lên những lời thiết tha ấy trong bài thơ có tên “ Tiếng hát con tàu “ .
Thế nhưng miền rừng núi xa xôi ấy không chỉ là nguồn cảm hứng riêng cho những tác
phẩm thi ca. Từ khá lâu trước “ Tiếng hát con tàu”, mảnh đất Tây Bắc cũng đã từng sinh
thành cho văn xuôi một tác phẩm vào loại xuất sắc nhất trong số những truyện kí được viết
vào thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Và người có côn đem lại Tây Bắc cho nền văn
xuôi kháng chiến, không thể là ai khác ngoài Tô Hoài , và tác phẩm mà chúng ta đang nói
tới cũng không thể là tác phẩm nào khác ngoài tập truyện mà trong đó truyện ngắn “ Vợ
chồng A Phủ “ vẫn được coi là xuất sắc nhất, tiêu biểu nhất. Và như mọi tác phẩm ưu tú
khác, “ Vợ chồng A Phủ” vẫn mang trong đó hai trong số những giá trò vẫn được coi là vónh
hằng của văn chương : giá trò hiện thực và giá trò nhân đạo. Và góp phần nhiều nhất làm
nên sức lôi cuốn của “ Vợ chồng A Phủ “ khó có gì khác hơn là sức sống tiềm tàng của
nhân vật chính- cô Mò, được thể hiện trong hai đêm đáng ghi nhớ nhất của đời cô- đêm tình
mùa xuân và đêm mùa đông mà Mò đã cởi trói cho A Phủ rồi cùng nhau thoát khỏi Hồng
Ngài.
* Giá trò hiện thực của VCAP:
1.Có thể nói “ Vợ chồng A Phủ “ là thành công đầu tiên của văn xuôi cách mạng Việt Nam.
Về phương diện ấy, nhà văn đã có thể vượt qua những thành kiến cố hữu đã dai dẳng bám
lấy tâm trí của người miền xuôi khi nhìn vào miền núi, thành kiến vốn được nuôi dưỡng
bằng ấn tượng của những câu chuyện đường rừng. Nhà văn đã không để cho sự lạ lùng,
khác thường của một miền đất xa xôi ngăn trở mình đi vào bản chất của sự sống. Từ đó mà
Tô Hoài đã tiếp cận, nhận ra và biểu hiện thành công hình ảnh miền núi Tây Bắc, nơi mà
cuộc sống vẫn diễn ra như một qui luật, tồn tại trên cơ sở những mâu thuẫn và xung đột
giữa một bên là những người giàu và một bên là những con người nghèo khổ. Kẻ thống trò
luôn đè nén, cướp đoạt và những người dân luôn chòu bóc lột, áp bức. Từ đó mà “ Vợ chồng
A Phủ” hiện lên như một bức tranh về cảnh sống khổ cực của những người dân dưới ách
thống trò của phong kiến miền núi. Và Tô Hoài đã cho thấy đó là một điều tất yếu.
Mặc khác ,tác giả còn cho thấy đó là một xã hội tàn bạo bởi sức mạnh của cường quyền và
thần quyền. Khi đã rơi vào tay bọn thống trò, cuộc đời của con người cũng chỉ có thể là khổ
sở, là ngựa trâu. Con người luôn luôn phải đối mặt với sự đe doạ, hành hạ của bọn giàu
sang và luôn luôn bò ám ảnh bởi cảm giác “ ma đã nhận mặt mình “.
Sự chân thực còn thể hiện ở chỗ nhà văn đã thấy trong xã hội đó, những con người nghèo
khổ đã phải nhẫn nại chòu đựng nhưng sự đè nén nặng nề, những sự cướp đoạt tàn bạo đã
khiến họ không thể chòu đựng được. Nhà văn cũng đã diễn tả những sự phản kháng của
những con người bò bóc lột, xảy ra khá thường xuyên trong tác phẩm dưới những dạng khác
nhau, mức độ khác nhau. Về mặt này, “ Vợ chồng A Phủ” đã có thể vượt lên trên tất cả các
tác phẩm văn xuôi viết về đề tài này trước đó.
2. Tuy nhiên, những điều nói trên không có nghóa là Tô Hoài đã bỏ qua những nét riêng của
những con người, những thế hệ trong tác phẩm. Những chi tiết rất phù hợp về lòch sử, đòa lý,
phong tục của những người H’mông vùng Tây Bắc đã hiện lên qua ngòi bút miêu tả chân
thực của tác giả. Tô Hoài đã không sa vào những tưởng tượng dễ dãi về miền núi mà
ngược lại, những nét đặc sắc mà nhà văn miêu tả đã được đổi lấy bằng những lao động
công phu, bằng xâm nhập thực tế. Tác phẩm chân thực với những chi tiết mà nhà văn nói :
“...đã đánh đổi bằng những năm tháng lăn lộn với những con người như vợ chồng A Phủ ở
những xứ sở rất xa xôi... “ Phải công phu như vậy, chúng ta mới được thưởng thức những
trang viết về mảnh đất có những loài hoa đổi màu kì ảo. Tô Hoài cũng làm giàu có vốn
sống người đọc bằng những trang viết rất sinh động và gợi cảm về ngôn ngữ, phong tục,
tính cách của những con người miền núi: tiếng sáo trong những đêm tình mùa xuân, những
câu hát trong cuộc ném pao, bữa rượu ngày tết, không khí ghê rợn của những buổi hút
thuốc phiện, hay lối đánh đập dã man những ngøi phạt vạ, tục khấn trình ma những người
vay nợ,...Chính những chi tiết ấy đã giúp chúng ta sống rộng hơn cuộc sống mà mình đang
có, gặp gỡ những người chưa hề quen thân và nhìn lại một thời kì đã trôi qua lâu lắm rồi,
những điều mà không thể nào có được nếu không phải qua những áng văn giàu tính chân
thực như “ Vợ chồng A Phủ”.
3. Nhưng không nên quên rằng “ Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm viết trong thời kì kháng
chiến, vì thế phải khác hẳn với những tác phẩm viết trước Cách Mạng và bởi những nhà
văn không phải nhà văn Cách mạng. Tác giả đã thấy cuộc sống của “ Vợ chồng A Phủ”
cũng có những phát triển, diễn biến, nhưng là sự phát triển có tính chất Cách Mạng. Bởi
trong những tác phẩm như “ Tắt đèn” hay “ Chí Phèo” thì sự biến đổi vẫn nằm trong khuôn
khổ cố đònh của xã hội thực dân- phong kiến, còn trong “ Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thấy
Mò và A Phủ sẽ được trở thành những con người mới, từ bóng tối bước ra ánh sáng, cũng
như toàn bộ những người dân Tây Bắc sẽ được đổi đời nhờ kháng chiến và Cách Mạng và
cũng sẽ được tác giả miêu tả như một qui luật của cuộc sống. Và như thế, tất cả những chi
tiết ấy đã làm nên giá trò hiện thực sâu sắc của những áng văn “ Vợ chồng A Phủ”.
*Giá trò nhân đạo trong VCAP:
1.“ Vợ chồng A Phủ “ của Tô Hoài, bên cạnh giá trò hiện thực và có phần lớn hơn giá trò hiện
thực vẫn là giá trò nhân đạo, là tình yêu thương con người mà nhà văn đã kí thác vào tác
phẩm. Biểu hiện đầu tiên và cũng là cái gốc của tấm lòng nhân đạo sẽ được tìm thấy ở sự
q trọng mà nhà văn đã dành cho con người. Đó là những con người ở miền rừng núi rất xa
xôi, những con người mà không ít khi được nhìn như là một cộng đồng dân cư thấp kém,
không thể sánh ngang với những người văn minh, có học thức ở chốn thò thành. Tô Hoài đã
vượt qua tất cả những thành kiến ấy để nhìn thấy ở Mò và A Phủ những phẩm chất không
kém gì những người con trai, con gái đẹp ở các dân tộc khác. Tô Hoài đã viết về Mò như là
một người có đủ các phẩm chất của một người con gái, có nhan sắc được nhiều con trai
ngưỡng mộ, một cô Mò rất có tài, mà lại là tài năng âm nhạc.” Ngày trước, Mò thổi sáo giỏi.
Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mò.” Có vẻ như cách nhà văn
miêu tả nhân vật không khác gì mấy so với Nguyễn Du nói đến Thuý Kiều, cũng trân trọng
như thế. Tài năng âm nhạc ấy cũng là cách để nhà văn biểu hiện Mò như một con ngøi có
tâm hồn đẹp đẽ, phong phú. Mò cũng biết yêu thương và đã được yêu thương, đã có những
phút rung động, hồi hộp trong đêm tình mùa xuân khi mong chờ người yêu tới. Và cũng như
nhiều nhân vật khác trong văn chương, Mò cũng có đức hi sinh. Bởi về một mặt nào đó có
thể coi như Mò đã bán mình để cứu gia đình thoát khỏi cơn nguy biến. Như vậy có nghóa là
trong con mắt của Tô Hoài, người con gái nghèo ở chốn heo hút , cheo leo trên triền núi
cao cũng là một con người đẹp đẽ, đáng sống và có đầy đủ phẩm chất để xứng đáng được
hưởng hạnh phúc. Phải có một tình cảm say mê làm gốc rễ cho tấm lòng nhân đạo, Tô
Hoài hẳn mới có thể xây dựng nên một nhân vật Mò như thế.
Chúng ta còn có thể nhìn thấy vẻ đẹp ấy không chỉ ở Mò mà còn ở nhân vật thứ hai - chàng
A Phủ. Tô Hoài đã không tiếc công sức khi xây dựng nhân vật A Phủ như một chàng trai lý
tưởng, và đã làm hiện lên một A Phủ trong dáng vẻ đẹp đẽ mà chúng ta vẫn thường gặp ở
những chàng mồ côi trong các tác phẩm dân gian. Chàng trai ấy đẹp trong vóc dáng to
lớn,khoẻ mạnh. Anh cũng là một người lao động giỏi, thể hiện ở chi tiết “biết đúc lưỡi cày,
biết đục cuốc “, một kó thuật khó nhất của những người miền núi lúc ấy. A Phủ còn giỏi qua
những lời nhận xét của những cô gái trong làng : “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được
con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng cũng không thể hình dung một A
Phủ sinh ra từ lòng yêu q những người miền núi của nhà văn mà thiếu đi một phẩm chất
cao q của một chàng trai. Đó là lòng hào hiệp, dám phản kháng, đấu tranh và đủ sức đấu
tranh, phản kháng. Tô Hoài đã xây dựng nên một A Phủ như thế với tất cả sự yêu mến và
tự hào, thể hiện rõ nhất trong đoạn nhà văn miêu tả A Phủ đánh A Sử. “ Một người to lớn
chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa
mặt “. Người trai ấy đã không ngần ngại “ nắm cái vòng cổ “ có tua ngũ sắc, biểu hiện của
con quan thống lý mà “đánh tới tấp”, “ một trận đánh rất hả hê”. Và A Phủ cũng như Mò,
cũng là những nhân vật mà nhà văn mong muốn cho họ có một cuộc sống tốt đẹp như họ
đáng có.
2. Chính vì thế khi Mò và A Phủ lần lượt rơi vào tay thống lý Pá Tra và chòu đựng sự hành
hạ, đè nén , đoạ đày thì nhà văn đã thật sự cảm thương và đã tìm mọi cách gợi sự cùng
cảm thương trong người đọc. Tô Hoài đã nói đến cả hai nỗi khổ mà những người như Mò và
A Phủ phải chòu. Nhà văn không quên nói đến những nỗi cực về phương diện vật chất và
lại càng không quên nói đến những nỗi khổ về phương diện tinh thần. Nhưng Tô Hoài
không chỉ nói đến một cô Mò lúc nào cũng phải vùi đầu vào công việc suốt đêm ngày. Nhà
văn còn cho ta thấy một người con gái hết lên nương lấy củi rồi lại xuống suối cõng nước,
trong tay lúc nào cũng “ gài một bó đay để tước thành sợi”, một người con gái bò sự cực khổ
làm cho giá trò con người bò hạ thấp xuống. Tấm lòng nhân đạo đã làm Tô Hoài hiểu rằng
cuộc sống cực khổ làm cho những người như Mò và A Phủ phải sống một kiếp sống thậm
chí không bằng con trâu, con ngựa.” Con ngựa , con trâu làm còn có lúc , đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
Chính vì thế, ngay từ vào truyện, chúng ta đã bắt gặp một cô gái có khuôn mặt “ buồn rười
rượi ngồi quay sợi”. Nhưng không chỉ vậy, nhà văn còn khiến người đọc thấm thía hơn khi
viết về một Mò “ ngồi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa “. Những vật ấy vốn là những
vật vô tri. Và như thế, Mò cũng hiện lên như thể một trong số những thứ vô tri trong nhà
thống lý, một con người với kiếp sống khổ sở thậm chí còn hơn con vật. Tuy nhiên, sự
thương cảm của Tô Hoài còn thấm thía nhiều hơn khi nhà văn nói đến nỗi khổ về phương
diện tinh thần. Chính tấm lòng nhân đạo ấy đã khiến Tô Hoài khi nghó đến cuộc sống tinh
thần của những người miền núi đã tạo ra những hình ảnh rất cảm động không thể nào
quên. Thiếu một tấm lòng thương cảm về những con người đáng sống mà không được
sống, Tô Hoài hẳn đã không thể sáng tạo ra chi tiết về “con rùa nuôi trong xó cửa” câm
lặng, lùi lũi như sự câm lặng của một người mất đi quyền sống. Hay nhà văn đã viết nên
hình ảnh căn buồng của Mò đầy ám ảnh, căn buồng cách xa cuộc đời, được miêu tả như
một nhà ngục, không phải của thể xác mà là như một nhà tù cầm cố người con gái về mặt
tinh thần. “Ở cái buồng Mò nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay.
Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.” Căn buồng -
nhà ngục ấy đã giam hãm tuổi xuân, làm lạnh lẽo, héo mòn khao khát sống của người con
gái ấy. Và có lẽ thấm thía hơn cả là hình ảnh cô Mò trong đêm mùa đông trên núi cao ngồi
thổi lửa hơ tay, một cô Mò hoàn toàn cô đơn mà bầu bạn duy nhất chỉ còn là ngọn lửa. Đó
còn là một cô Mò tê dại đến mức bò A Sử đánh ngã bên bếp lửa cũng không cảm thấy đau
đớn gì, để hôm say lại lặng lẽ như một cái bóng, lại đến hơ tay bên ngọn lửa. Một con người
chỉ biết sống với những thói quen mà dường như chai sạn với mọi sự đớn đau về thể xác.
Cái khổ ấy nhà văn đã cho thấy là cái khổ của người không thiết sống đến mức không thiết
đến cả việc chết đi. Hay như A Phủ, cũng là một người khỏe khoắn, mạnh mẽ, tràn đầy
niềm vui sống, sự ham thích tự do, nhưng sau khi vào nhà thống lý Pá Tra làm người ở thì
lại trở thành lầm lụi. Một con người bò mất đi rất nhiều sức mạnh đến mức mà chúng ta có
thể thấy một A Phủ nhẫn nhục trong lần bò phạt vạ hay lần bò Pá Tra trói lại, cứ cung cúc
hệt như một con vật trung thành. A Phủ “lẳng lặng vác cuộn dây mây, tự tay đóng cái cọc
gỗ xuống bên cột” để cho Pá Tra trói lại. Đau xót cho con người làm sao. Những chi tiết ấy
cứ như xoáy vào tâm can, làm cho những người đọc có tâm không khỏi quặn lòng đau xót.
3. Đi liền với những xót thương ấy là sự căm giận, phẫn nộ đối với những kẻ đã hành hạ
con người, cho dù đã được nhà văn nói đến một cách kín đáo. Đọc “ Vợ chồng A Phủ”,
không thể không thấy bộ mặt bất nhân của những kẻ thống trò. Một thống lý Pá Tra lợi dụng
việc con trai bò A Phủ đánh kể kiếm thêm một người ở đợ. Vì vậy Pá Tra đã chẳng thèm hỏi
han xem A Sử bò đánh ra sao mà chỉ chăm chăm xử kiện và gạt nợ A Phủ. Hay như A Sử
cũng vậy, có thể hãm hại đến chết những người trong nhà, bắt những người con dâu gạt nợ
phải làm như trâu ngựa. Chúng, tội ác ấy còn thể hiện ở sự dửng dưng, không một chút
động lòng nào khi hãm hại con người. A Sử trói Mò bình thản như trói một đồ vật nào đó,
đánh ngã Mò xuống bếp lửa như một hành động do ngứa ngáy chân tay. Rõ ràng tình người
đã hoàn toàn đông cứng trong trái tim của kẻ thống trò vốn coi con người không bằng loài
vật, nếu như bọn chúng còn có một trái tim. Đó hoàn toàn là một tình cảm đầy ý nghóa nhân
đạo mà Tô Hoài đã thể hiện trong tác phẩm.
* Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mò :
Tô Hoài đã xây dựng Mò như một con người dào dạt sức sống, khao khát sống. Nhưng sự
sống ấy đã tưởng như bò dập vùi, lụi tắt, đã không còn nữa kể từ khi Mò bò bắt vào nhà thống
lý Pá Tra để làm con dâu gạt nợ. Sau nhiều năm cô đã trở thành một “con rùa” lùi lũi nơi xó
cửa, một người tù trong căn nhà, một con người câm lặng, một con người chính vì không
thiết sống nên dường như đã không còn thiết chết. Hình ảnh của những đêm trên núi cao
gợi ta nghó đến một tâm hồn vô cảm. Ngọn lửa sống đã leo lét dần và dường như đang tắt
hẳn trong tâm hồn Mò. Nhưng Tô Hoài cũng như nhiều những nhà văn nhân đạo kháccho
rằng : sức sống của con người đẹp như Mò sẽ không bao giờ bò mất đi. Nó chỉ lặn sâu vào
bên trong, ẩn giấu vào một góc khuất tăm tối nào của tâm hồn, và như thế vẫn cứ âm thầm
tồn tại, âm ỉ cháy ở bên dưới lớp tro buồn. Không thể có cách nào khác hơn là cách Tô
Hoài sử dụng trong tác phẩm này để nhận ra sức tiềm tàng ấy trong lòng người con gái.
Nhà văn cho ta thấy sức sống bình thường đang lặn sâu, giấu dưới đáy tâm hồn bằng cách
chứng tỏ cho chúng ta thấy sức sống ấy, vẻ đẹp tâm hồn ấy trong hoàn cảnh đặc biệt nào
đó sẽ lại cháy lên trong con người Mò. Bằng cách đó, ta thấy sức sống ở Mò không mất đi
mà chỉ bò che lấp đi, lẩn khuất đi. Và niềm tin vào sức sống không mất đi ấy,mong muốn
được biểu hiện sự cháy lên, thắp sáng trở lại nguồn sức sống trong tâm hồn Mò đã đưa ta
đến những trang văn đẹp nhất của “Vợ chồng A Phủ” : đoạn văn viết về đêm tình mùa xuân
Mò muốn đi chơi và đêm mùa đông Mò cởi trói cho A Phủ. Trong những đoạn văn ấy, Tô
Hoài đã làm cho người đọc cùng tin và cùng mến yêu cái sức sống tiềm tàng ấy của Mò
thông qua ngôn từ đẹp và tinh tế. Và như thế, Tô Hoài thực sự đã nắm được phép biện
chứng của tâm hồn.
Tô Hoài đã thấy trong Mò nỗi tê tái của một tâm hồn đã lặng câm đi, vẫn còn đâu đó một cô
Mò của ngày xưa. Và cô Mò trong ngày xưa ấy sẽ thức dậy trong hôm nay nếu có một hoàn
cảnh thích hợp. Và hoàn cảnh ấy đã đến trong đêm tình mùa xuân. Bắt đầu bằng một tác
động kì lạ của hơi rượu. “Mò cứ uống ừng ực từng bát”, như thể muốn nuốt trôi đi mọi đau
khổ, cùng cực trong cuộc sống vào tận sâu trong lòng, dìm tắt hẳn đi một cái gì như thể
khát khao đang muốn vùng dậy. Hơi rượu và tiếng sáo tạo trong Mò hai trạng thái đối lập
nhau.Hơi rượu ấy vừa gây quên, vừa gợi nhớ. Quên đi hiện tại và Mò bắt đầu phảng phất
nhớ về ngày xưa. Trong những đêm như thế này, Mò cũng đã từng đi chơi. Đến đây, nỗi nhớ
của Mò được trợ lực bằng tiếng sáo, và Tô Hoài đã viết rất hay về tác động của tiếng sáo
đối với tâm hồn Mò. Lúc đầu tiếng sáo ấy ở xa Mò, ở ngoài Mò, của một người khác. “Mò nghe
tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy cứ dần dần trở nên gần lại, nhiều tình ý
hơn, hoà nhập với lòng Mò nhiều hơn. Một tiếng sáo “lửng lơ bay ngoài đường” như chờ đợi.
Dần dần tiếng hát trở thành tiếng hát của chính Mò. Nỗi nhớ cứ nồng nàn dần lên nhưng sự
thay đổi không dễ gì diễn ra ngay vì khi Mò đứng lên chỉ để về buồng, và ý nghó đến với Mò
chưa phải là cảm giác muốn đi chơi mà là cảm giác muốn ăn lá ngón tự tử ngay để chết.
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mò sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại
nữa”. Có thể Mò chưa biết nhưng rõ ràng là Mò đã muốn sống, sống cuộc sống của ngày
xưa. “Mò ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”, như một sự
chủ động của tâm hồn đang hướng về phía ánh sáng. Và ngay sau đó, tiếng sáo không còn
ở bên ngoài mà hoà nhập vào trong Mò, biến Mò trở thành một con người khác, một con
người của thời còn đang đầy ắp sức sống trong tâm hồn. “Mò đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
một miếng bỏ thêm vào đóa đèn cho sáng”. Dường như Mò đang khơi sáng lên ngọn lửa tình
yêu, ngọn lửa của tâm hồn tuổi trẻ vốn từ lâu đã lụi tắt. Việc lấy áo chuẩn bò đi chơi cũng là
một hành động ngày xưa trong cô Mò ngày hôm nay. Hành động ấy giống như một người
sống trong giấc mộng. Và như vậy, sự sống được bộc lộ ra, như để chứng tỏ sự sống trước
đó đã tiềm tàng trong lòng người đàn bà đau khổ. Sự nổi loạn của tâm hồn đã diễn ra
không lâu vì rồi Mò sẽ bò A Sử trói, để rồi dần quay trở lại với hiện tại. Sức sống lại lắng
xuống, thiếp đi trong một trái tim tê tái. Nhưng ngay cả sự chuyển biến ấy Tô Hoài cũng
miêu tả cho thấy nó không đơn giản. Đầu tiên Mò không nhận ra là mình bò trói mà vùng
chạy theo tiếng gọi của mùa xuân. Nhưng dây trói đã siết chặt, “tay chân đau không cựa
được”, Mò mới nhận ra là mình bò trói. Nhưng cái quá trình diễn biến nhớ-quên ấy cũng đan
xen lẫn lộn, lúc thấy hơi rượu toả ra trong tiếng sáo nhưng rồi lại thấy “tiếng chân ngựa đạp
vào vách”, đưa Mò trở lại làm một người con dâu gạt nợ. Mò dường như còn tê dại hơn trước
đó.
Nhưng Tô Hoài một lần nữa cứ tin rằng ngay cả trong cô Mò vô cảm ấy, sức sống tiềm tàng
vẫn không thể mất đi. Sức sống ấy sẽ cháy lên, mãnh liệt hơn, tha thiết hơn và bất ngờ
hơn. Và đoạn nhà văn viết về đêm mùa đông trên núi cao ấy có thể nói là mẫu mực tuyệt
vời của sự phân tích tâm lý theo đúng tinh thần biện chứng. Người phụ nữ đã thể hiện
những mâu thuẫn nội tâm quyết liệt, những chuyển biến dồn dập, nhanh chóng, bất ngờ với
không ít người đọc những vẫn hợp lí, vì đó là diễn biến theo đúng qui luật của phép biện
chúng tâm hồn. Tô Hoài đã không dễ dãi cho Mò cảm thấy thương A Phủ ngay từ phút đầu
tiên. Tô Hoài đã để cho nhân vật Mò nhìn A Phủ suốt mấy đêm mà không mảy may xúc
động. Vào cái đêm đau khổ nhất của đời A Phủ thì Mò lại sống gần như trong trạng thái vô