Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tổng quan du lịch việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.58 KB, 19 trang )

TỔNG QUAN DU LỊCH VIỆT NAM


Phần mở đầu
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020, tầm nhìn 2030 thể hiện
sự kỳ vọng phấn đấu của toàn ngành Du lịch đó là: “Đến năm 2020, du lịch cơ
bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng
cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh
được với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, Việt
Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển”. Mục tiêu cụ thể là đến
năm 2020 là đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có đẳng cấp trong khu
vực; ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên
nghiệp, hiện đại, có chất lượng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh, mang đậm
bản sắc văn hóa Việt Nam và thân thiện môi trường. Phấn đấu đón 11-12 triệu
lượt khách quốc tế; 45-48 triệu lượt khách nội địa; thu nhập trực tiếp từ du lịch
đạt 18-19 tỷ USD/năm, đóng góp 6,5 -7% GDP, tạo ra 3 triệu việc làm, trong đó
870.000 việc làm trực tiếp.
Để đạt được những mục tiêu trên, chiến lược phát triển du lịch giai đoạn
này hướng tới bám sát xu hướng hội nhập, hợp tác và cạnh tranh toàn cầu, giao
lưu mở rộng và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong bối
cảnh kinh tế tri thức đồng thời đưa ra những giải pháp mang tính đột phá trên cơ
sở thực trạng và nguồn lực phát triển của đất nước. Chiến lược đặt nhiệm vụ
phát triển thương hiệu trở thành yếu tố then chốt trong cạnh tranh quốc tế và
nâng cao hiệu quả; phấn đấu hình thành và phát triển một số thương hiệu nổi bật
của du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Điểm đột phá quan trọng
nhất phải kể đến đó là việc chuẩn hóa nguồn lao động du lịch, đặc biệt là nguồn
nhân lực du lịch chất lượng cao, đội ngũ quản lý các doanh nghiệp du lịch. Theo
đó, nguồn nhân lực du lịch cần được chuyên nghiệp hóa, là yếu tố quyết định
chất lượng dịch vụ. Ưu tiên đào tạo nhân lực bậc cao, đội ngũ quản lý, lực
lượng “máy cái” để thúc đẩy chuyển giao, đào tạo, huấn luyện tại chỗ theo yêu


cầu công việc. Tuy nhiên, trên thực tế chất lượng quản trị DNDL vẫn chưa đủ


mạnh để thực hiện vai trò then chốt này. Hơn nữa, trong những năm gần đây
nền kinh tế Việt Nam đã tham gia sâu vào quá trình hội nhập với các nước
trong khu vực và trên thế giới nhất là khi chúng ta gia nhập Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Điều này
càng đòi đòi hỏi lao động du lịch Việt Nam phải nhanh chóng chuẩn bị những
kiến thức và kỹ năng cần thiết đáp ứng được nhu cầu hội nhập, nhất là đối với
nguồn nhân lực là các cấp quản trị trong doanh nghiệp du lịch.
Trên căn cứ chiến lược mục tiêu phát triển du lịch, Chính phủ đã có rất nhiêu
các quyết định, văn bản chi đạo phát triển như sau.
- Luật Du lịch số 44/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005;
- Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ về việc Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch;
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính
phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội;
- Thông tư số 05/2013/TT-BKHĐT ngày 31/10/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư hướng dẫn tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và công bố quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm
chủ yếu;
- Quyết định số 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành du lịch giai
đoạn 2011-2020;


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DU LỊCH
1. Khái niệm Du lịch


Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourist Organization) thì:
Du lịch là đi đến một nơi khác xa nơi thường trú, để giải trí, nghỉ dưỡng... trong
thời gian rỗi. Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,
tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc
trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và
những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở
bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích
chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi
trường sống khác hẳn nơi định cư.
2. Vai trò của du lịch

Vai trò quan trọng của du lịch là giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người, giúp con người nhanh chóng hồi phục sức khỏe và chữa bệnh. Du lịch
giúp nâng cao trình độ hiểu biết, khả năng học hỏi của mỗi người. Khi đi du
lịch, các nhu cầu thường ngày: ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, học tập, chữa bệnh,
làm đẹp,… đều gia tăng và có sự biến đổi cấu trúc chung của các nhu cầu. Đó là
cơ hội làm giàu cho một lãnh thổ và một quốc gia. Ví dụ, bóng đá thế giới ở Mỹ
(1994) tạo ra các dòng người du lịch tới Mỹ, đem về cho quốc gia này tới 4 tỉ
USD lợi nhuận. Du lịch không những làm thay đổi cấu trúc chung của các nhu
cầu, nó còn làm thay đổi cấu trúc thời gian của các nhu cầu. Nó tạo ra các mùa,
vụ, sự tăng giảm khác nhau của nhu cầu theo thời gian trong năm. Nắm bắt
được cấu trúc thời gian mà nhu cầu du lịch tạo ra cũng sẽ là cơ hội cho các nhà
kinh doanh du lịch làm giàu. Sự mua hàng hóa trực tiếp của du khách đã tạo ra
khả năng xuất hàng tại chỗ của du lịch. Điều này kích thích sự phát triển của
nhiều ngành sản xuất trong nước, nhất là đối với hàng hóa thủ công mỹ nghệ:
đan lát, thêu, mộc, gốm sứ, tranh, ảnh, khảm, xà cừ,… Du lịch giúp tạo ra các
lãnh thổ nghỉ ngơi, các vườn quốc gia, công viên du lịch,… đẩy mạnh việc bảo



vệ môi sinh, môi trường; là cơ sở giúp người ta bảo tồn các nền văn hóa, tôn tạo
lại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, phục hồi các khu phố cổ, phục chế
các di phẩm văn hóa,… đồng thời giúp giải quyết việc làm cho đa số lao động
phụ ở các thành phố, thị trấn. Du lịch là “con gà đẻ trứng vàng”, nó là chất xúc
tác cho sự phát triển và đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế.
Các loại hình du lịch chủ yếu
- Du lịch làm ăn - Du lịch giải trí, năng động và đặc biệt - Du lịch nội quốc, quá
biên - Du lịch tham quan trong thành phố - Du lịch sinh thái - Du lịch mạo
hiểm, khám phá, trải nghiệm - Du lịch hội thảo, triển lãm MICE - Du lịch giảm
stress, du lịch balo, tự túc khám phá.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
1. Tiềm năng phát triển du lịch Việt nam

Việt Nam không phải là một quốc gia nằm sâu trong nội lục mà nước ta tựa
lưngvào một khối lục địa lớn nhất thế giới, ngoảnh ra một đại dương rộng lớn
nhất hoàn cầu, khách du lịch từ nước ngoài có thể tới Việt Nam từ nhiều phía
với nhiều

phương tiện khác nhau.

Lịch sử kiến tạo địa chất qua nhiều niên đại đã chạm khắc nên bộ mặt lãnh thổ
nước ta nhiều đường nét hình khối độc đáo
và không đơn điệu: núi trẻ và núi già, núi đất và núi đá, cao nguyên cổ, đồng
bằng phù sa mới, các vết đứt gãy và hang động, thềm lục địa và hải đảo. Đặc
biệt địa hình Việt Nam là những tài nguyên có giá trị. Địa hình đá vôi phân bố
rộng khắp từ vĩ tuyến 160 trở lên với nhiều hệ thống hang động như: Phong Nha
Hương tích,
Đặc biệt hơn cả là địa hình núi và hang động ngập nước nhiệt đới điển hình ở

Vịnh
Hạ Long mà giá trị của nó đã góp phần làm cho địa danh này được ghi tên vào
danh sách các di sản thiên nhiên thế giới. với 3/4 là đồi núi và địa hình bờ nước
Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí hậu ổn định, chênh lệch
nhiệt độ trong ngày và giữa các mùa không cao, dồi dào tiềm năng về du lịch
chữa bệnh nên được du khách rất ưa thích. Đặc biệt những du khách đến từ xứ
lạnh hay đến Việt Nam để tránh rét, những du khách đến từ xứ nóng tìm đến
các phòng lạnh như: Đà Lạt, SaPa, Tam Đảo,…
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 27 trong số 106 quốc gia có biển trên thế giới
với 125 bãi tắm biển, trong đó hầu hết là các bãi tắm đẹp và thuận lợi cho khai
thác du lịch.
Ngoài ra, theo các nhà địa chất thủy văn Việt Nam, ở nước ta có trên 400
điểm nước khoáng có giá trị du lịch như Kim Bôi (Hòa Bình), Quang Hanh (Qu
ảng


Ninh), suối nước nóng Bình Châu (Bà Rịa – Vũng Tàu), Tháp Bà (Nha Trang),..
. Việt Nam có hơn 40000 di sản văn hóa vật thể và bất động sản (đình chùa,
miếu đền, thành quách, lăng mộ,…). Tính đến tháng 4/2004, VN có 2741 di
tích, thắng
cảnh được xếp hạng quốc gia (trong đó có 1322 di tích lịch sử, 1263 di tích kiến
trúc nghệ thuật, 54 di tích khảo cổ và 102 di tích thắng cảnh). Đặc biệt, Việt Na
m có 6 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới, đó là:
Vịnh Hạ Long (Quảng
Ninh, 2 lần công nhận), vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), cố
đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn (Quảng
Nam).
Tính đến năm 2007, Việt Nam được UNESCO công nhận 6 “khu dự trữ sinh qu
yển
thế giới” đó là: Cát Bà (Hải Phòng), khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng

trên địa bàn 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Giao Thủy (Nam
Định), Cần Giờ (TPHCM), vườn quốc gia Cát Tiên thuộc địa bàn tỉnh Đồng
Nai, biển Kiên Giang và khu vực Tây Nghệ An. Việt Nam là 1 trong hơn 20
quốc gia có vịnh “đẹp nhất thế giới”, đó là: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và
vịnh Nha Trang (Khánh Hòa).
Ngoài các tiềm năng có sẵn, du lịch Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để t
hu hút khách quốc tế: Việt Nam được xem là
một trong những nước có điều kiện an
ninh chính trị và an toàn xã hội được đảm
bảo. Hơn nữa, đồng USD cũng như các
ngoại tệ khác đang tăng giá so với tiền đồng Việt Nam.
2. Thực trạng phát triển du lịch Việt Nam

Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách
quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam
ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước


được bình chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế. Du lịch đang ngày
càng nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Chất lượng và tính cạnh tranh của
du lịch là những vấn đề nhận được nhiều sự chú ý và thảo luận rộng rãi. Một
cách tiếp cận đa chiều về đánh giá chất lượng du lịch sẽ góp phần hình thành
các giải pháp đúng đắn nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch Việt
Nam.
Một số ý kiến cho rằng tỷ lệ khách quay trở lại cho thấy tính cạnh tranh của du
lịch. Tuy nhiên, do du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành,
liên vùng và xã hội hóa cao, nên tính cạnh tranh của du lịch phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Dưới góc độ kinh tế du lịch, tỷ lệ khách quay trở lại không phải là chỉ
tiêu nghiên cứu phục vụ xây dựng chính sách phát triển ngành. Hiệu quả của
ngành Du lịch thường được đánh giá qua các chỉ số chính như: tốc độ tăng

trưởng khách, độ dài lưu trú bình quân của khách, chi tiêu bình quân của khách,
đóng góp của du lịch vào cơ cấu GDP.
Nhìn từ kinh nghiệm bên ngoài, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD), các chỉ số cơ bản đo lường tính cạnh tranh của ngành du lịch một quốc
gia gồm có: đóng góp của du lịch vào GDP, thu nhập từ khách du lịch inbound
theo từng thị trường, thời gian lưu trú qua đêm, giá trị xuất khẩu dịch vụ du lịch,
năng suất lao động, sức mua và giá cả dịch vụ du lịch, thủ tục thị thực nhập
cảnh, tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, tài nguyên văn hóa, mức độ
thỏa mãn của du khách, và chương trình hành động của ngành Du lịch. Ngoài ra
còn có một số chỉ số phụ như: mức độ đa dạng hóa thị trường, nguồn nhân lực,
mức độ kết nối hàng không và các phương tiện khác, phân bổ ngân sách chính
phủ dành cho ngành Du lịch, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong du
lịch... Tham khảo những chỉ số này có thể thấy tỷ lệ khách quay trở lại không
nằm trong các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của ngành du lịch.
Mặt khác, về bản chất hoạt động du lịch là sự khám phá, trải nghiệm. Nhìn
chung, khách du lịch luôn muốn đi đến những vùng đất mới lạ, tìm hiểu những
nền văn hóa độc đáo, trải nghiệm những lối sống khác nhau. Đối với khách du


lịch ở nhiều nền kinh tế phát triển, du lịch là một phần thiết yếu trong cuộc sống
bên cạnh quá trình lao động, làm việc. Họ có điều kiện dành thời gian và nguồn
tài chính để thực hiện nhiều chuyến du lịch trong đời và coi đây là cơ hội vừa để
nghỉ ngơi, tái tạo sức lao động, vừa để khám phá những nền văn hóa mới và bồi
đắp kiến thức cho mình. Việc lựa chọn một điểm đến cũ có thể sẽ không phải là
ưu tiên của họ nếu không có một nhu cầu đặc biệt nào đó hoặc sự cảm mến, gắn
kết đặc biệt.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ khách quốc tế đến Việt Nam
lần đầu và khách đến từ hai lần trở lên lần lượt là 72% và 28% (năm 2003);
65,3% và 24,7% (năm 2005), 56,3% và 43,7% (năm 2006); 60,4% và 39,6%
(năm 2009); 61,1% và 38,9% (năm 2011); 66,1% và 33,9% (năm 2013). Có thể

thấy tỷ lệ này không biến động lớn qua các năm và duy trì ở mức độ khá hài
hòa.
Xét về tổng thể, điều quan trọng là các chỉ số về lượng khách và tổng thu của
Du lịch Việt Nam đạt tăng trưởng tốt qua các năm. Nếu năm 2000, chúng ta mới
đón được 2,1 triệu lượt khách quốc tế thì năm 2005 đón được 3,4 triệu lượt,
năm 2010 đón được 5 triệu lượt và năm 2013 vừa qua là 7,5 triệu lượt. Đồng
thời, lượng khách du lịch nội địa cũng ngày càng tăng: năm 2000 là 11,2 triệu
lượt, 2005 là 16,1 triệu lượt, năm 2010 là 28 triệu lượt và năm 2013 là 35 triệu
lượt. Đặc biệt, tổng thu từ du lịch những năm gần đây có sự tăng trưởng vượt
bậc khi năm 2013 đạt tới 200 nghìn tỷ đồng, trong khi năm 2010 mới đạt 96
nghìn tỷ, năm 2005 đạt 30 nghìn tỷ và năm 2000 chỉ đạt 17,4 nghìn tỷ. Tốc độ
tăng trưởng của tổng thu từ khách du lịch đang tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng khách du lịch, đóng góp của ngành Du lịch vào cơ cấu GDP đất nước
ngày càng lớn trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn.
Ngành Du lịch cũng đang góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết an sinh xã
hội. Đến năm 2013, ước tính đã có trên 1,7 triệu lao động làm việc trong lĩnh
vực du lịch, trong đó 550 nghìn lao động trực tiếp và 1,2 triệu lao động gián
tiếp.


Cùng với đó, hình ảnh du lịch quốc gia ngày càng được nâng cao. Hệ thống di
sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận
ngày càng phong phú. Nhiều điểm du lịch được các tổ chức uy tín bình chọn là
địa chỉ yêu thích của đông đảo du khách quốc tế. Trong đó, điển hình như Vịnh
Hạ Long được trang web BuzzFeed của Mỹ bình chọn là 1 trong 25 địa danh có
vẻ đẹp khó tin nhất trên thế giới; Hà Nội được TripAdvisor bình chọn là 1 trong
10 thành phố thu hút khách du lịch hàng đầu trên thế giới năm 2014; Việt Nam
được Tạp chí du lịch Travel & Leisure của Mỹ bình chọn đứng thứ 6 trong số
20 điểm đến tốt nhất dựa trên độ an toàn và thân thiện của người dân dành cho
khách du lịch lẻ; Hang Sơn Đoòng được Tạp chí du lịch Business Insider của

Mỹ bình chọn là 1 trong 12 hang động ấn tượng nhất thế giới và Tạp chí
National Geographic phiên bản tiếng Nga bình chọn là tour du lịch mạo hiểm
đẳng cấp nhất thế giới của năm 2014; Tuyến du lịch trên sông Mê Kông (đoạn
Việt Nam-Campuchia) được báo Telegraph (Anh) xếp thứ 4/5 tuyến du lịch trên
sông hàng đầu châu Á... Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lữ hành, khách sạn của
Việt Nam cũng đã được các tổ chức, website tiêu dùng vinh danh do chất lượng
dịch vụ xuất sắc của mình.
Điều này cho thấy chất lượng du lịch Việt Nam đang dần tốt lên, đi vào chiều
sâu thay vì chiều rộng theo đúng định hướng trong Chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch chiếm
tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng
tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất lượng và
hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh”.
Nâng cao chất lượng du lịch để thu hút khách, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao
của khách là một định hướng quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch
nước ta. Một điều tất nhiên, trong quá trình phát triển ngành du lịch nói riêng và
kinh tế - xã hội đất nước nói chung, sẽ phát sinh nhiều vấn đề bất cập cần giải
quyết. Mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi sự


vật, hiện tượng là nguồn gốc và động lực của quá trình vận động, phát triển.
Sự phát triển của du lịch phụ thuộc rất nhiều vào quyết tâm chính trị của chính
quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, sự phối kết hợp chặt chẽ của các
bộ, ngành liên quan, sự quan tâm hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế,
sự năng động tích cực của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, sự đồng cảm và
tham gia của cộng đồng dân cư, du khách và sự quan tâm khích lệ của các cơ
quan thông tin truyền thông – một kênh quan trọng tuyên truyền, quảng bá hình
ảnh du lịch đất nước cũng như phát hiện những bất cập cần khắc phục để du lịch
Việt Nam trở thành một thương hiệu được mỗi người chúng ta cũng như bạn bè

quốc tế ngày càng quý mến.
3. Những khó khăn thách thức đối với du lịch Việt Nam

Đã có những tháng cuối năm 2012 và giai đoạn đầu năm 2013, những người
làm du lịch không khỏi lo lắng khi lượng khách quốc tế tạm chững lại với nhiều
nguyên nhân. Dù bất ổn về chính trị - xã hội, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, tài
chính buộc du khách ở các thị trường truyền thống phải giảm chi tiêu và chọn
lựa điểm đến phù hợp, chúng ta cũng nhìn nhận một cách thẳng thắn về yếu
kém, hạn chế của du lịch Việt Nam. Đó là công tác quản lý điểm đến chưa được
triển khai đồng bộ, hiệu quả; tình trạng mất vệ sinh, an ninh, trật tự tại các điểm
du lịch vẫn thường xảy ra bên cạnh các tệ nạn ta-xi dù "chém khách", hàng rong
chèo kéo, đeo bám; Một số dịch vụ lữ hành, khách sạn ở các địa phương vẫn
diễn ra việc núp bóng, lừa đảo, ép giá khách, nhất là vào mùa cao điểm. Đây là
hệ quả của tình trạng tăng trưởng du lịch nóng, phát triển không đồng đều ở một
số địa phương, tạo ra sự mất cân đối cục bộ. Môi trường du lịch nhiều nơi bị ô
nhiễm, quá tải, thiếu quản lý do khai thác quá mức tài nguyên du lịch hoặc bị
hủy hoại nghiêm trọng.
Công tác quản lý môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở các điểm đến còn
yếu kém và chưa được coi trọng. Gần đây, sự biến đổi khí hậu cũng dẫn đến
thiên tai, bão lũ bất thường, tác động tiêu cực đến cơ sở hạ tầng du lịch và hoạt
động du lịch ở nhiều địa phương.


Bên cạnh đó là những trở ngại từ tính thiếu chuyên nghiệp khi xây dựng sản
phẩm du lịch, xúc tiến quảng bá. Sản phẩm du lịch đơn điệu, chậm đổi mới,
thiếu sáng tạo và còn trùng lặp giữa các vùng miền, thiếu tính liên kết. Công tác
xúc tiến quảng bá du lịch còn hạn chế, nghiên cứu thị trường còn thụ động, yếu
kém. So với các nước trong khu vực, kinh phí Nhà nước đầu tư cho công tác
xúc tiến, quảng bá du lịch điểm đến còn rất hạn chế cho nên chưa tạo được hiệu
ứng kích cầu du lịch Việt Nam ở các thị trường mục tiêu. Hoạt động phối hợp

liên ngành cũng như giữa các địa phương không thường xuyên và chưa đem lại
hiệu quả mong muốn. Các doanh nghiệp du lịch chưa chủ động trong công tác
phát triển thị trường, xây dựng sản phẩm còn hạn chế, chất lượng dịch vụ yếu.
Nhiều doanh nghiệp lữ hành chưa đủ khả năng vươn ra thị trường quốc tế để
khai thác khách. Một số thị trường còn có hiện tượng người nước ngoài thao
túng, trực tiếp điều hành, còn các doanh nghiệp trong nước thì cạnh tranh không
lành mạnh, hạ giá, trốn thuế, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sản
phẩm và hình ảnh điểm đến Việt Nam. Nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp
nước ta cũng còn thiếu và yếu. Trong khi đó, sức ép cạnh tranh giá thành sản
phẩm, chất lượng nhân lực, dịch vụ và năng lực doanh nghiệp với du lịch các
nước trong khu vực ngày càng lớn. Việt Nam luôn luôn phải cạnh tranh với các
điểm đến du lịch hàng đầu trong khu vực như Ma-lai-xi-a, Thái-lan, Xin-ga-po.
Đây là những quốc gia được đầu tư nhiều kinh phí, có trình độ chuyên nghiệp
cao trong hoạt động du lịch và liên tục đổi mới về sản phẩm, thương hiệu du
lịch. Đặc biệt là sau năm 2015 khi các nước ASEAN đồng loạt loại bỏ hàng rào
phi thuế quan và thuế suất trong ASEAN chỉ còn từ 0 đến 5%.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
1. Nhận xét chung

Theo Báo cáo thường niên Travel & Tourism Economic Impact 2016 Viet Nam
(WTTC) của Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới công bố hồi tháng 3/2016,
tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam, bao gồm cả đóng góp trực tiếp,


gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP). Trong
đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương
6,6% GDP).
Tổng đóng góp của du lịch vào lĩnh vực việc làm toàn quốc (gồm cả việc làm
gián tiếp) là hơn 6.035 triệu việc làm, chiếm 11,2%. Trong đó, số việc làm trực

tiếp do ngành Du lịch tạo ra là 2.783 triệu (chiếm 5,2% tổng số việc làm). Đầu
tư vào lĩnh vực du lịch năm 2015 đạt 113.497 tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng đầu tư
cả nước...
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, không chỉ mang đến doanh thu trực tiếp từ
các lĩnh vực dịch vụ như khách sạn, tour tuyến, điểm tham quan mà còn tạo
nguồn thu, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề liên
quan khác như giao thông, ăn uống, giải trí, thương mại và một số dịch vụ phụ
trợ khác (thông tin liên lạc, ngân hàng...).
Tuy nhiên, theo đánh giá của giới chuyên gia, đến nay khả năng cạnh tranh của
ngành Du lịch nước ta vẫn còn thấp, thiếu những sản phẩm du lịch khác biệt;
đầu tư phát triển thiếu đồng bộ, chắp vá kể cả những địa bàn trọng điểm.
Việt Nam cũng chưa có khu du lịch quốc gia, chưa có điểm du lịch quốc gia
theo đúng nghĩa và chưa có khu đô thị du lịch quốc gia theo tiêu chí của Luật
Du lịch. Việc xây dựng và quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam còn rất hạn chế
về cả kinh phí và nhất là cách thức tổ chức thực hiện…
2. Giải pháp

Nhằm giải quyết hiệu quả vấn đề trên, trung tuần tháng 7/2016 vừa qua, Đề án
định hướng phát triển ngành Du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn đã được Chính phủ đưa ra bàn thảo, để hoàn chỉnh trình Bộ Chính trị phê
duyệt vào quý III/2016. Sau khi được phê duyệt, Đề án sẽ tạo ra một cơ hội rất
lớn cho ngành Du lịch Việt Nam phát triển; huy động mọi nguồn lực, liên kết;
nâng cao chất lượng, đẳng cấp, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam.
Nhằm tạo nền tảng cũng như chuẩn bị nội lực để đưa ngành Du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, trước mắt chúng ta cần tập trung giải quyết tình trạng


trên thông qua một số nhóm giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển du lịch
i) Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và hoàn chỉnh những nội dung quy định; hoàn

thiện các cơ chế, chính sách và các điều khoản của pháp luật nhằm thúc đẩy
phát triển du lịch.
ii) Xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ xúc tiến quảng bá trong và ngoài
nước; cơ chế tham gia và xã hội hoá trong xúc tiến quảng bá và đào tạo du lịch;
chính sách huy động cộng đồng người Việt ở nước ngoài tham gia quảng bá cho
du lịch Việt Nam.
iii) Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào các vùng trọng điểm du lịch;
tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút nhiều nguồn đầu tư trong và ngoài nước;
chính sách mở rộng các loại hình dịch vụ giải trí mới.
iv) Xây dựng cơ chế hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư; phân định rõ vai
trò, trách nhiệm, lợi ích của các bên. Nhà nước phân cấp mạnh cho cơ sở doanh
nghiệp; tạo môi trường thông thoáng, hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp chủ
động phát huy vai trò động lực thúc đẩy phát triển du lịch.
v) Xây dựng và thực thi cơ chế khuyến khích chất lượng và hiệu quả du lịch
thông qua hệ thống đánh giá, thừa nhận và tôn vinh thương hiệu, nhãn hiệu,
danh hiệu, địa danh.
vi) Xây dựng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích du lịch như: Tạo điều
kiện thuận lợi cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam; tăng cường năng lực,
ứng dụng công nghệ cao, đơn giản hóa thủ tục xuất, nhập cảnh, miễn thị thực;
khuyến khích đầu tư khu vực tư nhân vào các lĩnh vực, ngành nghề du lịch;
khuyến khích phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc thù, hình thành quỹ thời
gian nghỉ ngơi khuyến khích du lịch.
vii) Đẩy mạnh chính sách về xúc tiến quảng bá tại các thị trường trọng điểm sẽ
tạo bước chuyển biến tích cực căn bản về thị phần; góp phần chủ động thu hút
khách có chọn lọc; làm nổi bật hình ảnh du lịch Việt Nam, thương hiệu du lịch
Việt Nam tại các thị trường mục tiêu.


Các chính sách phát triển du lịch mang tính ưu tiên, có mối liên quan hữu cơ với
nhau, cần được ban hành và thực hiện đồng bộ gắn với những điều kiện tiên

quyết. Chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển du lịch là
các bước thực hiện chính sách do vậy cần hội đủ những điều kiện cần thiết để
chính sách được thực thi hiệu quả. Sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, sự phối
hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các địa phương quyết định đến sự thành
công của các chính sách.
Thứ hai, tổ chức và quản lý phát triển du lịch
(i) Tăng cường năng lực cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương
đến địa phương đủ mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Du lịch thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
(ii) Phát huy vai trò của Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch, Ban Chỉ đạo phát
triển du lịch cấp tỉnh, hiệp hội nghề nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và
phối hợp liên ngành.
(iii) Thực hiện quản lý theo quy hoạch gồm quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch cả nước, quy hoạch phát triển du lịch theo các vùng, địa phương, quy hoạch
các khu du lịch tổng hợp và khu du lịch chuyên đề để tập trung thu hút đầu tư
phát triển.
(iv) Xây dựng năng lực tập trung cho cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia; phân
định rõ chức năng quản lý nhà nước về du lịch với chức năng tổ chức thực hiện
hoạt động xúc tiến du lịch quốc gia.
(v) Khuyến khích, hỗ trợ phát triển các loại hình du lịch dựa vào cộng đồng, du
lịch nông thôn, nông nghiệp, làng nghề truyền thống, du lịch sinh thái dựa vào
cộng đồng...
(vi) Tăng cường năng lực quản lý và tổ chức du lịch trên cơ sở phát triển nguồn
nhân lực du lịch; khuyến khích đào tạo và chuyển giao kỹ năng tại chỗ; thu hút
chuyên gia, nhân tài, nghệ nhân trong và ngoài nước phục vụ cho đào tạo du
lịch.
(vii) Hỗ trợ và tạo điều kiện hình thành các tổ chức phát triển du lịch vùng theo


nguyên tắc tự nguyện với sự tham gia của doanh nghiệp du lịch và hội nghề

nghiệp du lịch. Tăng cường chấn chỉnh và quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh
doanh du lịch đối với tất cả các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch.
(viii) Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp (DN) du lịch nâng cao năng lực
cạnh tranh thông qua tạo môi trường kinh doanh du lịch thuận lợi, cạnh tranh
lành mạnh, hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng du lịch, đẩy mạnh cải cách hành
chính... Tăng cường hoạt động của Hiệp hội Du lịch Việt Nam để thực hiện
chức năng là cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các DN.
(ix) Từng bước thiết lập hệ thống thông tin du lịch cho các đối tác nước ngoài.
Tạo kênh thông tin thường xuyên giữa cơ quan quản lý nhà nước các cấp và các
hiệp hội, các DN về tình hình hội nhập của ngành, nhu cầu, khả năng và yêu cầu
đối với các DN để đảm bảo hiệu quả công tác chuẩn bị và tham gia các tổ chức
khu vực và quốc tế.
Thứ ba, kiểm soát chất lượng hoạt động du lịch
(i) Hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng trong ngành du lịch, đảm bảo duy
trì chất lượng và sức cạnh tranh cho sản phẩm, dịch vụ du lịch thể hiện qua
thương hiệu du lịch.
(ii) Tăng cường kiểm tra, giám sát về chất lượng hoạt động du lịch, hình thành
các tổ thức giám sát chất lượng. Nâng cao nhận thức, kiến thức về quản lý chất
lượng, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, hệ thống kiểm định, công nhận
chất lượng; phát triển, tôn vinh thương hiệu, thúc đẩy nhượng quyền thương
hiệu; hình thành và tôn vinh hệ thống danh hiệu, nhãn hiệu.
(iii) Kiểm soát chất lượng và nâng cao chất lượng du lịch là thực thi chính sách
phát triển du lịch bền vững sẽ tác động lâu dài tới duy trì các điều kiện phát
triển trong tương lai, tạo ra sự công bằng giữa các nhóm xã hội, bảo vệ nhóm
yếu thế.
(iv) Tăng cường chính sách bảo vệ môi trường tại các khu, tuyến điểm, cơ sở
dịch vụ du lịch, đảm bảo chất lượng môi trường văn minh, sạch, đẹp, góp phần
bảo vệ môi trường chung, phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.



Thứ tư, huy động và sử dụng nguồn lực cho phát triển du lịch
(i) Nhà nước đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ ngân sách cho các lĩnh vực then chốt tạo
là tiền đề cho phát triển du lịch. Chính sách đầu tư tập trung cho các khu du lịch
trọng điểm quốc gia có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế sẽ tạo ra
những khu du lịch có tầm cỡ là đầu tầu của ngành, đảm bảo hiện đại có sức
cạnh tranh và tạo nền tảng cho thương hiệu du lịch Việt Nam.
(ii) Huy động nguồn lực tài chính địa phương, chú trọng thu hút nguồn vốn từ
khu vực tư nhân; cải thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài; mở rộng thu hút đầu tư gián tiếp thông qua thị trường vốn.
(iii) Tăng cường nghiên cứu thị trường, phân đoạn các thị trường mục tiêu; hỗ
trợ về tài chính đối với thị trường trọng điểm; liên kết, tập trung nguồn lực trong
và ngoài nước cho xúc tiến quảng bá tại thị trường trọng điểm; quảng bá những
thương hiệu mạnh theo phân đoạn thị trường trọng điểm; hình thành các kênh
quảng bá toàn cầu đối với những thị trường trọng điểm, chiến dịch quảng bá tại
các thị trường trọng điểm.
(iv) Phát triển và khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn nhân lực lao động du lịch
Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng trong tiến trình phát triển du
lịch. Yếu tố con người kết hợp với các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, tài
nguyên nhân văn sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển du lịch thành
ngành kinh tế mũi nhọn.
(v) Phát huy sức mạnh đoàn kết, tinh thần tự tôn dân tộc, yêu quê hương, đất
nước, vẻ đẹp văn minh thành lịch của người Việt, hình thành ý thức ứng xử
quốc gia góp phần tạo dựng hình ảnh Việt Nam ngày càng được yêu mến, ưa
chuộng trên thế giới.
Thứ năm, tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và hợp tác
quốc tế về du lịch
(i) Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực du lịch;
Nhà nước hỗ trợ hoạt động nghiên cứu thị trường và ứng dụng công nghệ trong
xúc tiến quảng bá.



(ii) Thực hiện nghiêm túc quy định về quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền; bảo
đảm quyền lợi và tôn vinh các danh hiệu, thương hiệu, nhãn hiệu, chứng chỉ
chất lượng; Đẩy nhanh chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thông qua
liên doanh, liên kết, thu hút nguồn chất xám, tri thức, kinh nghiệm người Việt
Nam ở nước ngoài thông qua con đường du lịch.
(iii) Khuyến khích DN du lịch đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng, đặc biệt coi
trọng ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ mới; thực hiện cơ chế góp vốn trong
hoạt động nghiên cứu và phát triển; Tăng cường năng lực các tổ chức nghiên
cứu và phát triển về du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác với nước
ngoài về nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ.
(iv) Tích cực, chủ động đa phương hóa, đa dạng hóa hợp tác quốc tế về du lịch
nhằm bảo đảm cân bằng trong các mối quan hệ hợp tác du lịch nhằm tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và thị trường, tránh lệ thuộc một chiều vào một hoặc một
số đối tác, thị trường, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập du lịch.
(v) Đa phương hóa, đa dạng hóa hợp tác du lịch đi đôi với chủ động xây dựng
nội dung hợp tác, nghiên cứu và đề xuất sáng kiến trong các khuôn khổ hợp tác
du lịch; Xây dựng và mở rộng các quan hệ hợp tác với cơ quan quản lý du lịch,
tổ chức và hiệp hội du lịch trong và ngoài khu vực; Đẩy mạnh liên kết với các
nước trong khu vực, khai thác triệt để tuyến hành lang đông tây, hình thành các
tour tuyến du lịch chung như chương trình giữa Việt Nam - Campuchia, Lào;
tuyến đường bộ 3 nước Việt Nam - Lào - Thái Lan để đa dạng hoá sản phẩm,
nâng cao sức hấp dẫn, thu hút mạnh khách từ các nước ASEAN và khách du
lịch từ nước thứ ba vào ASEAN nối tour sang Việt Nam.
Tóm lại, du lịch Việt Nam thời gian qua đã tăng trưởng nhanh, thực sự là ngành
kinh tế quan trọng, góp phần tích cực trong sự phát triển kinh tế- xã hội đất
nước… Tuy nhiên, để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm, các giải
pháp vĩ mô cần hướng tới trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế nhằm
thực hiện được mục tiêu đã đề ra, đồng thời, cần triển khai rà soát, xây dựng văn



bản quy phạm pháp luật để khi triển khai đề án sẽ tạo bước chuyển biến trong
quản lý về môi trường xã hội, môi trường du lịch.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Văn Hoan (2003), Để du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, Tạp chí Du lịch Việt Nam;
2. Tổng cục Du lịch (2012), Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020 và tầm nhìn đến 2030, Hà Nội;
3. Thủ tướng Chính phủ (2013), “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
Website
1. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030; />2. />


×