Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TÂM LÝ HỌC TRONG CÔNG TÁC DÂN VẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.44 KB, 21 trang )

Vấn đề 1: Nhu cầu trong công tác dân vận
CTDV là toàn bộ những hoạt động của cả hệ thống chính trị nhằm tuyên truyền, vận
động, thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức các phong trào nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và để chăm lo, bảo vệ lợi ích của
nhân dân.
Để hoạt động vận động quần chúng đạt kết quả tốt, người làm công tác dân vận cần nắm bắt
những nhu cầu chính đáng trong quần chúng mà mình cần tác động. Từ những nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng đó, giúp cho cán bộ dân vận có cách thức tác động phù hợp vừa tuyên truyền
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến người dân vừa tham
mưu, đề xuất chủ trương, chính sách phù hợp để Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ và đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng từ phía người dân.
Khái niệm:Nhu cầu là sự đòi hỏi của cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau, muốn có
những điều kiện nhất định để sống và phát triển.
Con người được thỏa mãn nhu cầu thì dễ chịu, thiếu hụt thì khó chịu, căng thẳng, ấm ức. Có
nhu cầu của cá nhân, có nhu cầu của tập thể, có nhu cầu cơ bản, thiết yếu, có nhu cầu thứ yếu,
giả tạo. Nhu cầu thể hiện xu hướng có sự lựa chọn của con người. Nhu cầu là động lực thúc đẩy
hành động của con người. Nhu cầu này được thỏa mãn, kích thích bị dập tắt, đồng thời xuất
hiện nhu cầu mới với những kích thích mới. Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu là yếu tố kích
thích bên trong, là nguồn gốc của tính tích cực và óc sáng tạo, là động cơ thúc đẩy con người
hành động.
Nhu cầu thường có những đặt trưng sau đây:Không ổn định, biến đổi; Năng động;
Biến đổi theo quy luật; Không bao giờ thỏa mãn cùng một lúc mọi nhu cầu; Ham muốn không
có giới hạn.
Phân loại nhu cầu:
Nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội.Nhu cầu cá nhân là một hiện tượng tâm lý cá nhân, nó xuất
hiện khi cá nhân cảm thấy cần phải có những điều kiện nhất định nào đó để đảm bảo sự tồn tại
và phát triển cho bản thân mình.Nhu cầu cá nhân có thể khác biệt và đối lập với nhu cầu của
nhóm và xã hội nhưng nhu cầu cá nhân đều có tính xã hội.
Nhu cầu xã hội là hiện tượng tâm lý xã hội, tồn tại ở nhiều con người cụ thể khác nhau nhưng
có tính phổ biến và đồng nhất. Đó là nhu cầu chung của nhóm có nhiều cá nhân là thành viên,
trở thành của cả nhóm về những điều kiện nhất định, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của nhóm.


Nhu cầu xã hội không đơn thuần là tập hợp các nhu cầu cá nhân. Nhu cầu xã hội bao gồm cả
nhu cầu cá nhân và trên cơ sở nhu cầu cá nhân, song không phải nhu cầu cá nhân nào củng trở
thành nhu cầu xã hội, chỉ những nhu cầu cá nhân chính đáng, phản ánh nhu cầu của nhóm, đồng
nhất với nhu cầu nhóm, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của nhóm khi đó nhu cầu cá nhân
trở thành nhu cầu nhóm.
Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất là những đòi hỏi về điều kiện vật
chất tự nhiên chính đáng, tất yếu như các điều kiện ngoại cảnh, địa lý, các cơ sở và yếu tố vật
chất đảm bảo cho con người và xã hội có thể tồn tại và phát triển được.Nhu cầu tinh thần là
sựđòi hỏi các giá trị tinh thần làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Quan hệ giữa nhu cẩu tự nhiên, vật chất và nhu cầu tinh thần của con người là quan hệ sinh tồn,
hữu cơ, không được xem nhẹ mặt nào. Trong công tác dân vận việc phát hiện và làm thỏa mãn
nhu cầu cả về đời sống vật chất và tinh thần của con người, định hướng và giáo dục nhu cầu
(vật chất và tinh thần) là nhiệm vụ quan trọng. Nó không những tạo động lực cho sự phát triển
1


mà còn là sự thể hiện tính nhất quán của mục tiêu về con người, do con người và được con
người.
Về nhu cầu có các thang bậc khác nhau:
Theo Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người
vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con
người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích
cả về thể chất lẫn tinh thần.
Lý thuyết của ông giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu cầu của con người
bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem các loại nhu cầu khác nhau
của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự phát sinh trước sau của chúng để quy
về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con người từ thấp đến cao. Cụ thể:
Thứ nhất, nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như
nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục.
Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu

những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ
thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này.Ông quan niệm
rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì
những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.
Thứ hai, nhu cầu về an toàn hoặc an ninh:An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường
không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người.
An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao
động, an toàn môi trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm
lý, an toàn nhân sự,…
Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn con người tất
yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. Nhu cầu an toàn nếu không được đảm bảo
thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ không
thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người phạm pháp và vi phạm các quy
tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác.
Thứ 3, những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp nhận). Do con
người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận. Nhu
cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị
buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con người với nhau.
Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn đề tâm lý như:
Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa
nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng
thương, tình bạn, tình yêu, tình thân ái là nội dung lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được
thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình
phát triển của nhân loại.
Thứ tư, nhu cầu được tôn trọng: Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng
và được người khác tôn trọng. Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin,
có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự
hoàn thiện. Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín, được thừa
nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,…Tôn trọng là được người khác coi trọng, ngưỡng
mộ.Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do

đó nhu cầu được tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con người.
2


Thứ năm, nhu cầu phát huy bản ngã (tự khẳng định): Maslow xem đây là nhu cầu cao
nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm
năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó. Nội dung nhu
cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái
đẹp, cái bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.
Một số nhu cầu cơ bản của người lao động hiện nay: Có công ăn việc làm phù hợp; Được sống
và làm việc trong môi trường an toàn, sức khỏe được đảm bảo, được tự do hoạt động trong
phạm vi trách nhiệm; Có thu nhập xứng đáng với công sức bỏ ra, được đối xử công bằng về
quyền lợi và nghĩa vụ; Có nhu cầu được tôn trọng, đời sống tinh thần được đảm bảo; Có cơ hội
thăng tiến, được học tập nâng cao trình độ, có điều kiện thể hiện tài năng.
Vận dụng thuyết "nhu cầu" trong công tác dân vận:
Sự hiểu biết về thứ bậc nhu cầu của Maslow giúp người làm công tác dân vận xác định được
những nhu cầu nào trong hệ thống thứ bậc nhu cầu còn chưa được thỏa mãn tại thời điểm hiện
tại, đặc biệt là các nhu cầu tâm lý của người dân, nhận ra khi nào thì những nhu cầu cụ thể của
người dân chưa được thỏa mãn và cần đáp ứng.
Qua lý thuyết nhu cầu của Maslow, người làm công tác dân vận đã hiểu được con người
có nhiều nhu cầu khác nhau bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Ai cũng cần
được yêu thương, được thừa nhận, được tôn trọng, cảm giác an toàn, được phát huy bản ngã,…
Do đó trong việc trợ giúp cho cộng đồng, người dân, người làm công tác dân vận không chỉ trợ
giúp họ thỏa mãn nhu cầu sinh lý cơ bản mà cao hơn nũa phải tập trung trợ giúp cho họ nhằm
giúp thân chủ thỏa mãn các nhau cầu tinh thần để sống lành mạnh hơn.
Trong một số trường hợp, người dân không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, việc kết
nối họ với các nguồn lực là hoàn toàn hợp lý. Bên cạnh đó, người làm công tác dân vậncần tăng
cường năng lực cho người dân bằng cách lắng nghe họ, chú ý đến các nhu cầu tinh thần của họ
và giúp họ hiểu được các tiềm năng của mình, sử dụng các tiềm năng đó để vượt lên nấc thang
nhu cầu cao hơn.

Vấn đề giáo dục nhu cầu cho quần chúng nhân dân, trong công tác dân vận cần quan tâm
tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân trên cơ sở đó đề ra những chính sách
hợp với lòng dân, đáp ứng những nhu cầu cơ bản, cấp thiết của người dân. Để vận động quần
chúng thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thì phải tác động, giải quyết
tốt các nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu tất yếu và nhu cầu hợp lý. Người cán bộ dân vận trong công
tác dân vận biết giáo dục nhu cầu cho quần chúng, để họ hiểu được những nhu cầu nào là chính
đáng cần được thỏa mãn, những nhu cầu nào chưa hợp lý, chưa thể thỏa mãn được,… Người
cán bộ dân vận phải quan tâm thường xuyên đến việc phát hiện và đáp ứng nhu cầu của cá nhân
và của nhóm một cách kịp thời, đúng mực, hợp lý để nhu cầu và lợi ích thực sự là động lực
thúc đẩy các hoạt động của con người và các nhóm xã hội.
Liên hệ thực tế (Nêu một hay nhiều chính sách ở địa phương để làm rõ: Xem chính sách
đó có xuất phát từ nhu cầu bức thiết, chính đáng từ phía người dân hay chính sách đó chỉ xuất
phát từ chủ quan (hay lợi ích nhóm) của chính quyền - chính sách đó có đáp ứng được nhu cầu
người dân hay không?)

3


Vấn đề 2: DƯ LUẬN XÃ HỘI
Khái niệm dư luận xã hội
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm
xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự có liên quan đến lợi ích
chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định và hành
động thực tiễn của họ.
Đối tượng của dư luận xã hội
Đối tượng của dư luận xã hội không phải là mọi thực tế xã hội nói chung mà chỉ là những
vấn đề được cộng đồng xã hội quan tâm tới vì nó có liên quan tới các nhu cầu lợi ích về vật chất
hay về tinh thần của họ. Không phải bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào cũng trở thành dư luận
xã hội mà chỉ có các sự kiện hiện tượng xã hội có tính thời sự, cập nhật trình độ hiểu biết của
công chúng, được công chúng quan tâm mới có khả năng trở thành đối tượng của dư luận xã

hội. Dư luận xã hội chỉ nảy sinh khi có những vấn đề có ý nghĩa xã hội đụng chạm đến lợi ích
chung của cộng đồng xã hội, có tầm quan trọng và có tính cấp bách, đòi hỏi phải có ý kiến phán
xét, đánh giá và đưa ra những phương hướng cụ thể. Đó có thể là vấn đề chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, hay đạo đức.
Chủ thể của dư luận xã hội
Chủ thể của dư luận xã hội là cộng đồng người hay nhóm người mang dư luận xã hội. Dư
luận xã hội bao gồm mọi luồng ý kiến của đa số cũng như ý kiến của thiểu số. Chủ thể của dư
luận xã hội có thể là tập hợp những người thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau, thậm chí đối
lập nhau về lợi ích mà nền tảng gắn kết họ lại với nhau lại là những đặc điểm tâm lí, nhận thức
chung giữa họ.
Phân biệt dư luận xã hội với tin đồn
Tin đồn cũng là một hiện tượng tâm lý xã hội. Nhưng tin đồn khác với dư luận xã hội, tin
đồn “chỉ là tin tức về sự việc, sự kiện, hay hiện tượng có thể có thật, có thể không có thật hoặc
chỉ có một phần sự thật được lan truyền từ người này sang người khác”. Tin đồn là dạng thông
tin không chính thức, chưa được kiểm chứng về sự trung thực và do đó chủ thể của tin đồn
không được rõ ràng. Ngược lại, dư luận xã hội là sản phẩm của tư duy phán xét của cá nhân
mang nó. Tin đồn có thể chuyển hóa thành dư luận xã hội khi trên cơ sở của tin đồn người ta
đưa ra những phán xét bày tỏ thái độ của mình; khi thông tin được kiểm chứng và các nhóm xã
hội có thể được tiếp cận với nguồn thông tin, trao đổi, bày tỏ ý kiến của mình thông qua con
đường công khai.
ĐẶC ĐIỂM CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI
Thông thường, khi nghiên cứu về dư luận xã hội, chúng ta thấy nổi lên các đặc điểm sau:
1. Tính khuynh hướng: Dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ
mang tính chất phán xét, đánh giá của nhiều người trước thực tế xã hội nhất định.
4


Hình thức thể hiện chính của dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá, thẩm bình, kiến
nghị. Khuynh hướng chung trong các ý kiến đánh giá và thái độ của công chúng đối với mỗi sự
kiện, hiện tượng, quá trình xã hội bao gồm tán thành, phản đối hay lưỡng lự. Cũng có thể phân

chia dư luận xã hội theo các khuynh hướng như tích cực, tiêu cực; tiến bộ hoặc lạc hậu… Ở mỗi
khuynh hướng, thái độ tán thành hoặc phản đối lại có thể phân chia theo các mức độ cụ thể như
rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối. Tính khuynh hướng cũng biểu thị sự
thống nhất hay xung đột của dư luận xã hội.
2. Tính lợi ích: Sự phán xét, đánh giá chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những vấn đề
mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung của nhóm xã hội, cộng đồng xã hội.
Để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, các sự kiện, hiện tương xã hội đang diễn ra
phải được xem xét từ góc độ chúng có mối quan hệ mật thiết với lợi ích của các nhóm xã hội
khác nhau trong xã hội. Tính lợi ích của dư luận xã hội được nhìn nhận trên hai phương diện là
lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng
diễn ra trong xã hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của
đông đảo người dân.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện đang diễn ra đụng chạm đến hệ
thống các giá trị, chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán, khuôn mẫu hành vi ứng xử văn hóa của
cộng đồng xã hội hoặc của cả dân tộc. Lợi ích là điều kiện cần để thúc đẩy việc tạo ra dư luận
xã hội nhưng quan trọng chính là sự nhận thức của các nhóm xã hội về lợi ích của mình và mối
quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội đang diễn ra. Bản thân nhận
thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát triển giữa tính cá nhân và tính xã hội, giữa tính
vật chất và tính tinh thần, giữa tính trước mắt và tính lâu dài. Đồng thời, quá trình trao đổi, thảo
luận ý kiến để dẫn đến dư luận xã hội là một quá trình giải quyết mâu thuẫn lợi ích. Khi các
luồng thông tin ảnh hưởng đến các hành động quan tâm của công chúng, dư luận xã hội sẽ hình
thành mạnh mẽ và lan truyền nhanh chóng. Chẳng hạn hiện nay, chương trình phát triển vũ khí
hạt nhân của một số cường quốc trên thế giới như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đang
gặp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ của dư luận thế giới vì nhân loại nhận thức được mối nguy
hiểm tiềm tàng, nguy cơ chiến tranh tiêu diệt loài người.
3. Tính lan truyền: Vấn đề dư luận xã hội thường thu hút được sự quan tâm, chú ý
và lan truyền của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội.
Dư luận xã hội được coi như biểu hiện của hành vi tập thể do đó cơ sở của nó là hiệu ứng
phản xạ quay vòng, mà khởi điểm từ cá nhân hay nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên các chuỗi kích
thích của các cá nhân khác, nhóm xã hội khác. Để duy trì chuỗi kích thích này luôn cần các

nhân tố tác động lên cơ chế hoạt động tâm lý của các cá nhân hay nhóm xã hội. Đối với dư luận
xã hội, các nhân tố tác động đó có thể được coi là các thông tin bằng hình ảnh, âm thanh sống
động, trực tiếp và có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin này, các nhóm công
chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ quan tâm của mình thông qua hoạt
động trao đổi bàn bạc, tìm kiếm thông tin, cùng chia sẻ trạng hái tâm lý của mình với người
xung quanh.
4. Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi: Dư luận xã hội phản ánh một cách
tổng hợp ý thức xã hội nhưng dễ thay đổi. Nó luôn gắn liền với quyền lợi cá nhân và các
nhóm xã hội.
5


Dư luận có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến đổi, phụ thuộc vào nhiều yếu
tố. Đối với những sự kiện, hiện tượng hay quá trình quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền
vững. Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương diện sau:
Thứ nhất, biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa. Hệ thống các giá trị, chuẩn
mực xã hội đang tồn tại trong nền văn hóa của cộng đồng người quyết định sự phán xét, đánh
giá của dư luận xã hội về các sự kiện, hiện tượng hay quá trình xã hội. Với cùng một sự việc, sự
kiện xảy ra, dư luận xã hội ở các cộng đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét đánh giá
khác nhau. Ví dụ ở Việt Nam, bò được xem là một con vật nuôi, cung cấp sức kéo, lấy sữa, thịt
bò là một món ăn được nhiều người ưa thích. Nhưng đối với người Ấn Độ theo đạo Hin đu thì
bò là một loài vật thiêng, những tín đồ ăn thịt bò sẽ bị dư luận lên án một cách gay gắt.
Thứ hai, biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều giá trị văn hóa,
chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán có thể bị biến đổi ngay trong cùng một nền văn hóa-xã
hội dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá của dư luận xã hội. Chẳng hạn như thời
phong kiến, chế độ đa thê-người đàn ông cùng lúc có thể có nhiều vợ được dư luận xã hội dễ
dàng chấp nhận, nhưng thời đại ngày nay thì không. Hôn nhân hiện đại là chế độ một vợ một
chồng, người đàn ông nào cùng lúc có nhiều vợ là vi phạm pháp luật và bị xã hội lên án.
5. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội
Sự phản ánh của dư luận xã hội có thể đúng hoặc sai do đó không nên tuyệt đối hóa khả

năng nhận thức từ dư luận xã hội. Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc vào tính chất
phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng đúng hơn của thiểu số. Cái mới lúc
đầu thường chỉ có một số người nhận thấy, do đó dễ bị đa số phản đối. Đối với những vấn đề
trừu tượng, phức tạp, dư luận của giới trí thức, của những người có trình độ học vấn cao thường
chín chắn hơn so với những người có trình độ học vấn thấp.
Liên hệ thực tiễn
Hiểu rõ bản chất, đặt điểm cũng như nắm bắt được dư luận xã hội sẽ giúp:
- Tham mưu cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý trong việc soạn thảo, ban hành, tổ
chức thực hiện quyết định; thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã hội
Nhờ phản ánh khách quan, trung thực và khả năng dự báo chính xác tình hình tâm trạng,
tư tưởng, thái độ, nguyện vọng của các tầng lớp xã hội trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã
hội, nhất là các vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo, quản lý đất nước, các báo cáo tổng hợp,
phân tích tình hình dư luận xã hội là căn cứ thông tin quan trọng phục vụ quá trình soạn thảo,
ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, quyết sách của các cơ quan lãnh đạo, quản lý đất nước.
Các cơ quan lãnh đạo, quản lý đất nước khó có thể ban hành được các chủ trương, quyết sách
sát thực, có sức sống, có tính khả thi nếu không nắm chắc được tâm trạng, tư tưởng của đối
tượng có liên quan đến các chủ trương, quyết sách đó. Công tác nghiên cứu dư luận xã hội giúp
các cơ quan lãnh đạo, quản lý giải đáp các câu hỏi như: các vấn đề bức xúc mà thực tiễn đất
nước (hoặc ở địa phương, ngành) đòi hỏi phải giải quyết là gì? Các chủ trương, quyết sách dự
định được ban hành (của cơ quan lãnh đạo, quản lý) có được người dân ủng hộ không? Nếu
không thì tại sao? Có cần dừng việc thông qua không? Nếu không dừng thì cần có các biện
pháp thông tin, tuyên truyền cụ thể gì để tạo sự ủng hộ của nhân dân?..
6


Trên cơ sở lý luận về cơ chế hình thành dư luận xã hội và các thông tin cụ thể về các băn khoăn,
thắc mắc của nhân dân, công tác nghiên cứu dư luận xã hội có khả năng đề xuất các giải pháp
thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội có hiệu quả.
- Góp phần củng cố và mở rộng nền dân chủ trong Đảng, trong xã hội.
Tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp ý kiến, tham gia vào các công

việc của Đảng, Nhà nước: việc tiếp xúc của các cộng tác viên nghiên cứu dư luận xã hội với
người dân để nắm bắt ý kiến của họ, nhất là các cuộc điều tra, thăm dò dư luận xã hội là cơ hội
để người dân bày tỏ chính kiến, tham gia ý kiến đối với các công việc điều hành, quản lý đất
nước của các cấp ủy đảng và chính quyền, nâng cao ý thức làm chủ đất nước, làm chủ xã hội
của họ.
Phát huy vai trò phản biện xã hội, vai trò kiểm tra, giám sát của cán bộ, đảng viên và
nhân dân: khi người dân cảm thấy ý kiến của mình được lắng nghe, được coi trọng thì trách
nhiệm phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của họ cũng được nâng cao. Nhân dân có “trăm tai,
nghìn mắt” nên có thể nhìn rõ mọi vấn đề, sự vật dưới nhiều góc độ. Sự phản biện, kiểm tra,
giám sát xã hội của nhân dân giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý kịp thời phát hiện những sơ hở,
hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các
giải pháp khắc phục.
- Góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nắm bắt tâm trạng, tư tưởng cán
bộ, đảng viên và nhân dân của các cấp ủy đảng
Cách nắm bắt tâm trạng, tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân mang tính truyền thống
lâu nay của các cấp ủy đảng thường là: tổng hợp phản ánh của cấp dưới, các tổ chức chính trị xã hội; trao đổi, tọa đàm, đối thoại trực tiếp với các đối tượng; hội thảo...). Cách thức này có ưu
điểm là dễ làm, ít tốn kém về thời gian, nhân lực và tài chính, nhưng cũng có những hạn chế
như: các thông tin thu được thường không rõ về mặt định lượng, dễ mang tính chủ quan, nhất là
trong bối cảnh bệnh thành tích phát triển như hiện nay (các báo cáo dễ bị “vo tròn”, biểu hiện
tâm trạng, tư tưởng tích cực dễ bị “thổi phồng”, những vấn đề gai góc, phức tạp trong tâm trạng,
tư tưởng xã hội dễ bị bỏ qua).
* Liên hệ thực tiễn ( cách thức nắm bắt dư luận xã hội, tác động định hướng DLXH
phục vụ cho công tác dân vận)
- Cách thức nắm bắt dư luận xã hội
Làm tốt công tác nắm bắt dư luận, đặt biệt là DLXH ở cơ sở có vai trò vô cùng quan
trọng, một mặt, có thể phát huy quyền làm chủ và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; mặt
khác, giúp cho cấp uỷ Đảng, chính quyền nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để
có hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách một cách thích hợp. Đó cũng chính là điều
kiện tiên quyết để có thể sử dụng sức mạnh dư luận quần chúng vào việc quản lý xã hội.
Để nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội, người ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.

Có thể sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
+ Phương pháp phân tích nội dung: thường được sử dụng để thu thập dư luận xã hội từ
báo chí, đơn, thư khiếu tố,…(gọi chung là tài liệu). Những nét cơ bản của phương pháp này có
7


thể được trình bày như sau: trên cơ sở các vấn đề mà tài liệu đề cập đến, hình thành những
phạm trù nhất định mà chúng ta quan tâm. Sau đó tiến hành một công việc giống như kiểm
phiếu. Mỗi đơn vị tài liệu (bức thư, số báo,…) được xem như một phiếu. Tiếp theo, đếm xem
mỗi phạm trù được bao nhiêu "phiếu" đề cập đến. Trên cơ sở tần suất được đề cập, chúng ta rút
ra kết luận phạm trù nào được đề cập nhiều nhất, phạm trù nào được đề cập ít nhất
+ Phương pháp thăm dò dư luận xã hội theo phiếu: Đây là phương pháp chủ yếu mà các
trung tâm, viện nghiên cứu dư luận xã hội thường sử dụng. Các công việc chính của một cuộc
thăm dò dư luận xã hội theo phiếu là:
- Xác định chủ đề, mục đích nghiên cứu;
- Xây dựng phiếu câu hỏi;
- Chọn mẫu thăm dò;
- Triển khai cuộc điều tra;
- Xử lý các cứ liệu thu được;
- Viết báo cáo.
+ Phương pháp nắm bắt dư luận xã hội thông qua phản ánh của hệ thống mạng lưới cộng
tác viên: thành lập mạng lưới cộng tác viên đảm bảo tính đại diện về độ tuổi, nghề nghiệp, trình
độ, giới tính,… và đảm bảo các tiêu chuẩn như có ý thức chính trị, trung thực; có giao tiếp rộng
rãi và có uy tín với quần chúng; có khả năng tổng hợp ý kiến của quần chúng. Sản phẩm của
phương pháp nắm bắt dư luận xã hội qua mạng lưới cộng tác viên là báo cáo nhanh về dư luận
xã hội. Trong báo cáo nhanh (thường là hằng tuần), điều quan trọng là phải phản ánh đầy đủ các
luồng ý kiến khác nhau, dư luận của đa số cũng như thiểu số.
Tác động định hướng DLXH phục vụ cho công tác dân vận
Công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội là một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng
trong công tác tư tưởng của Đảng, góp phần rất quan trọng phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo

của Đảng nói chung và nhiệm vụ công tác Dân vận nói riêng, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Để giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, chúng ta
phải thật sự gần dân, thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phải chủ
động nắm bắt thông tin trước khi để xảy ra những “điểm nóng” chính trị xã hội. Các ngành, các
cấp nói chung, cơ quan dân vận nói riêng phải thường xuyên tổ chức nghiên cứu, điều tra dư
luận xã hội để nắm bắt, phân tích tổng hợp những diễn biến tư tưởng và dư luận trong cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và những vấn
đề chính trị, xã hội mang tính thời sự, bức xúc trên địa bàn, từ đó đề xuất các giải pháp, biện
pháp nhằm định hướng dư luận xã hội một cách đúng đắn, kịp thời. Đây cũng là một trong
những biện pháp phát huy tối đa hiệu quả của công tác dân vận, xây dựng, củng cố niềm tin của
nhân dân với Đảng, Nhà nước, về sự phát triển của đất nước.
Trong công tác dân vận hiện nay, việc nâng cao hiệu quả công tác thông tin, định hướng dư
luận xã hội là rất quan trọng và cần thiết. Để làm được điều đó,công tác định hướng dư luận
cần phải chú trọng đến những vấn đề sau:
Thứ nhất: Lãnh đạo các tổ chức, đơn vị trước hết phải nắm bắt kịp thời các sự kiện, hiện
tượng mang tính thời sự liên quan đến tổ chức, đơn vị mình, các sự kiện, hiện tương liên quan
đến lợi ích của giai cấp, quốc gia dân tộc cũng như nắm bắt và làm chủ được dư luận xã hội về
sự kiện, hiện tượng đó để làm cơ sở cho việc định hướng dư luận xã hội.
8


Thứ hai: Đánh giá khách quan hệ quả và sự tác động của báo chí, các phương tiện truyền
thông đại chúng đối với các nhóm công chúng và dự báo được những phát sinh từ hệ quả tác
động của báo chí. Những tình huống có thể phát sinh bao gồm cả những phản ánh tích cực hay
phản ánh tiêu cực, đồng thuận hay không đồng thuận, ủng hộ hay phản đối … về một nôi dung
thông tin nào đó được cung cấp đến công chúng .
Thứ 3: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội, trong đó việc nghiên cứu
cần phải làm rõ tính quy luật và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh các luồng ý

kiến khác nhau cũng như cơ sở khoa học để đánh giá, phán xét một luồng ý kiến nào đó, nâng
cao vai trò chức năng dự báo, chức năng phản biện xã hội trong các nghiên cứu dư luận xã hội.
Việc nắm bắt dư luận xã hội cần tuân thủ chặt chẽ các khâu, các công đoạn, các yêu cầu kỹ
thuật và phương pháp nghiên cứu đảm bảo tính khách quan và khoa học trong quá trình thu thập
thông tin.
Thứ 4: Định hướng dư luận xã hội cũng là việc minh bạch hoá các nguồn thông tin, hạn
chế nhận thức sai lệch và loại bỏ tin đồn thất thiệt trong xã hội. Điều này cũng đòi hỏi đội ngũ
công tác viên, thông tin viên, tuyên truyền viên, báo cáo viên và những người có uy tín trong
cộng đồng phải có năng lực nhất định trong việc phân tích đánh giá, phán xét các sự kiện xã
hội, phân biệt rõ giữa DLXH và tin đồn cũng như những tác động tiêu cực của tin đồn trong đời
sống xã hội. Nâng cao khả năng dự báo, tham mưu trong quá trình nghiên cứu nắm bắt dư luận
xã hội./.
Vấn đề 3: Tâm lý dân tộc, tâm lý vùng miền tác động đến công tác dân vận như thế
nào ( Khái niệm, đặc điểm, liên hệ thực tiễn)
Trả lời:
Khái niệm: Tâm lý học trong công tác dân vận là khoa học về sự vận dụng tâm lý học
nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện công tác vận động quần chúng, trong đó
nghiên cứu các hiện tượng, đặc điểm tâm lý cá nhân, các nhóm xã hội trong các cộng đồng xã
hội; nghiên cứu các phẩm chất tâm lý chủ thể thực hiện công tác dân vận và các yếu tố tâm lý
vận dụng vào công tác dân vận.
Tâm lý học dân tộc:
Tâm lý học dân tộc phát triển trong lịch sử loài người nhiều nhà khoa học sáng lập ra là
như: M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal (1823 - 1893). Tư tưởng được
phát triển chủ yếu vào năm 1900 trong tập đầu tiên của bộ sách mười tập Tâm lý học các dân
tộc…
- Ở nước ta Tâm lý học dân tộc là một lĩnh vực còn mới mẻ trong mấy năm gần đây. Chẳng
hạn, ‘‘Những yếu tố tâm lý dân tộc ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện
nay’’ (dự án điều tra cơ bản từ tháng 6/2002 đến 6/2004 do GS.TS Vũ Dũng làm chủ nhiệm),
‘‘Tìm hiểu tâm trạng và nguyện vọng của các dân tộc ở Tây Nam Bộ’’ (đề tài NCKH cấp Bộ từ
2004 đến 2005 do GS. TS Đỗ Long làm chủ nhiệm), ‘‘Những đặc điểm tâm lý cơ bản của cộng

đồng người ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển kinh tế xã
hội ở các khu vực này’’ …Chúng ta tự hỏi tại sao tâm lý con người ở mỗi vùng miền địa
phương, mỗi quốc gia, mỗi thời đại lại có nhiều đặc điểm khác nhau. Tâm lý con người là một
lãnh vực vô cùng tinh tế, đa dạng và phức tạp.
Quy luật này cho chúng ta rút ra một kết luận tổng quát cho tất cả:
Mỗi cá nhân nên quan tâm đến cộng đồng, vì dù chúng ta bưng tai bịt mắt không cần biết,
không quan tâm, không quan hệ, thì cái cộng đồng mà chúng ta đang sống “trong vòng tay bảo
9


bọc” của nó chắc chắn cũng sẽ liên hệ, dính líu đến chúng ta cách này hay cách khác, trực tiếp
hay gián tiếp. Định mệnh của chúng ta là không bao giờ có thể trốn thoát, không bao giờ cắt
đứt được mối quan hệ với cộng đồng, ngay cả khi ta lìa bỏ xác thân vật chất. Vì vậy, chúng ta
hãy tìm hiểu cái tiểu xã hội nho nhỏ của chúng ta (là cái gia đình nhiều thế hệ của mình và
những người mà mình quan hệ trong môi trường sống và làm việc, như bạn bè, hàng xóm, đồng
nghiệp…)
Mỗi con người mà chúng ta tiếp xúc có hai phần tâm lý : Tâm lý cá nhân họ và tâm lý xã
hội. Nó điều khiển, chi phối toàn bộ mọi hoạt động và ứng xử của người ta trong cuộc sống rắc
rối, phiền hà, phức tạp, khó hiểu… Người ta hay nói “chín người, mười ý”, Phật giáo nói rằng
“Tâm viên, ý mã’ (tâm như con khỉ, ý như con ngựa) tâm và ý chuyển động lăng xăng liên tục Ở
đây, chúng ta đề cập đến Tâm Lý Căn Bản trong cuộc sống hiện tại của con người mỗi cá nhân
là một đơn vị đặc thù, không ai giống ai, bởi vì bản thân của mỗi người cũng chuyển biến liên
tục trong giòng sống. Nhưng điều này con người thường chỉ có thể tìm thấy ở tình mẫu tử và
một số trường hợp rất hiếm hoi ngoài xã hội.
- Hệ quả của ý thức này là Tính ích Kỷ, Ganh Tị, ghen ghét, hơn thua…Chúng ta cảm
thấy sự hữu lý của quan điểm trên nếu ta quan sát các trẻ em mới sinh hay ở những lứa tuổi
chưa có nhu cầu tự mình bon chen vào cuộc sống. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào việc quan sát một
số hiện tượng nhìn thấy mà quy kết đó là bản chất thì e rằng không chính xác.
Tác động đến công tác dân vận:
Việc năm bắt tốt tâm lý dân tộc, tâm lý vùng miền cùng với thực tiễn sinh động trong đời

sống xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc, việc nghiên cứu, vận dụng vào hoạt động của công tác
dân vận đã đảm bảo thực hiện có hiệu quả các chương trình, mục tiêu, chỉ thị Nghị quyết đã đề
ra về phát triển đất nước Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh là đa số, chiếm khoảng
86% dân số; 53 tộc người thiểu số chiếm khoảng 14% dân số cả nước. Trong số 63 tỉnh, thành
phố hiện nay có tới 54 tỉnh thuộc địa bàn vùng miền núi và dân tộc thiểu số: 12 tỉnh vùng cao; 9
tỉnh miền núi; 23 tỉnh có huyện, xã miền núi và 10 tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là
nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống.
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương (Khoá IX) đã ra Nghị quyết “Về công
tác dân tộc”. Quan điểm của Nghị quyết được thể hiện nhất quán và có những bước phát triển
trong văn kiện Đại hội X, XI của Đảng. Về công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số
trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi phải quán triệt
và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có
trách nhiệm với dân”.
1. Nội dung vận động đồng bào các dân tộc thiểu số:
- Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng: Đảng viên là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, là lực
lượng nòng cốt trong tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng ở cơ sở, tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội, xóa đói giảm nghèo của địa phương. Các tổ chức Đảng phải
lấy việc vận động và chăm lo lợi ích của nhân dân đưa được đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước đến với mọi người dân.
- Nắm vững tâm tư nguyện vọng của đồng bào: Cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở
phải đi sâu, đi sát, tìm hiểu, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng, những vấn đề bức xúc của các
dân tộc thiểu số.
- Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân: Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với các cơ quan của Nhà nước sát cơ sở, đứng chân trên
địa bàn, vận động nhân dân phát triển kinh tế. Phát huy nhân rộng mô hình, sáng kiến tích cực,
10


tuyên truyền, giáo dục, tâm bảo vệ lợi ích nhân dân. Xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân vững mạnh, thu hút được nhiều người tham gia, đáp ứng lợi ích thành viên, đoàn viên, hội

viên. Người có uy tín trong cộng đồng có thể là cán bộ xã, trưởng bản, già làng, thầy cúng...
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở: Thực sự bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” những việc có quan hệ đến lợi ích nhân dân. Đại diện cho mình tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, không chỉ đảm bảo mà còn
phải tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện các quyền đó; đề phòng và khắc phục các việc làm vi
phạm quy chế dân chủ, sống xa dân, quan liêu, mệnh lệnh với dân.
- Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước: Thực hiện tốt các cuộc vận động về từng
lĩnh vực cụ thể và cuộc vận động chung “Toàn dân đoàn kết phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. cần tổ chức cho phù hợp với từng dân tộc,
từng địa phương.
- Thực hiện tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ: Đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức thuộc các tộc người thiểu số, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực, bảo đảm về tiêu chuẩn, cơ cấu dân tộc, trình độ,
tính kế thừa giữa các thế hệ; nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ… góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
- Phổ biến pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số: Các tộc người thiểu số chủ yếu
sinh sống ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, đời sống kinh tế xã hội còn nhiều khó
khăn, lạc hậu nên ít có điều kiện để cập nhật thông tin, nhất là thông tin về pháp luật.
- Về vấn đề dân tộc, tôn giáo: Vấn đề dân tộc, tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm, do đó
các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể cần phối hợp giải quyết kịp thời những
vấn đề nảy sinh mâu thuẫn, không để diễn biến kéo dài.
2. Phương châm công tác dân vận:
- Chân thành: Đồng bào các dân tộc thiểu số có bản tính chất phác, thật thà; ghét sự dối trá
lừa lọc ích kỷ. Khi đồng bào đã tin thì lòng tin giữ lại lâu dài, bền vững, nhưng khi đã mất lòng
tin thì khó lấy lại.
- Tích cực: Địa bàn miền núi hiểm trở, giao thông khó khăn, kinh tế - xã hội còn thấp nên
đòi hỏi cán bộ dân vận có trách nhiệm cao, tích cực trong công việc. Hơn nữa, sự giao lưu văn
hóa giữa các vùng, các dân tộc còn hạn hẹp, thiếu tri thức… Do vậy, cán bộ dân vận phải tích
cực mới có thể đạt hiệu quả.

- Thận trọng: Làm bất kỳ việc gì cũng cần cân nhắc, thận trọng có ý nghĩa sâu sắc đối với
công tác dân vận, đừng để “sai một ly, đi một dặm”, “cải sẩy nảy cái ung”... gây ra hậu quả xấu,
khó lường.
- Kiên trì: Đối tượng vận động là đồng bào các dân tộc thiểu số, trình độ phát triển nhiều
mặt còn thấp; kiên trì không phải là cứ ngồi đấy chờ đợi.
- Tế nhị: Cán bộ làm công tác ở vùng đồng bào các tộc người thiểu số phải am hiểu văn
hóa, phong tục tập quán của đồng bào
- Vững chắc: Làm việc gì được việc đó, làm đến đâu được đến đấy. Chắc chắn là đòi hỏi
hiệu quả công tác đạt được phải tạo cơ sở để phát triển bền vững.
3. Phương pháp công tác dân vận:
- Trọng dân: Sức mạnh của Đảng nằm ngay trong mối quan hệ giữa Đảng với dân và dân
với Đảng, trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng… có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân phù hợp với điểm
11


kinh tế - xã hội, văn hóa từng vùng, từng tộc người.
Trọng dân là coi việc “làm đầy tớ” của nhân dân, phục vụ nhân dân, chăm lo cuộc sống
vật chất, tinh thần của nhân dân là trách nhiệm, là vinh dự và niềm hạnh phúc. Tôn trọng và tin
tưởng nhân dân là tôn trọng và tin tưởng những người sáng tạo ra của cải, vật chất; những người
làm ra lịch sử.
- Gần dân: Cán bộ dân vận phải sát cơ sở, tuyệt đối không được quan liêu, chỉ ngồi nghe
điện thoại, nhận báo cáo rồi nhận định, phán xét. Từ đó tham mưu, đề xuất cho Đảng, Nhà nước
xây dựng, ban hành được các chủ trương, đường lối, chính sách hợp lòng dân, đóng góp thiết
thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hiểu dân: Người làm công tác dân vận phải nắm bắt kịp thời các thông tin quần chúng,
phải biết nghe dân nói, phải hiểu được nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đồng thời phải
biểu thị thái độ vừa cầu thị vừa định hướng được quần chúng.
- Học dân: Người cán bộ dân vận phải dành thời gian đi cơ sở để khảo sát tình hình thực tế,
lắng nghe ý kiến của dân và trực tiếp tháo gỡ những khó khăn nảy sinh trong dân. Phải học

ngôn ngữ, tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hóa của dân tộc để hòa mình vào cuộc sống của
người dân.
- Có trách nhiệm với dân: Cán bộ dân vận phải có sự hiểu biết về lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; Nói với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực và cụ thể; phải bằng tấm gương sống và
làm việc của mình.
Tóm lại, để công tác dân vận vùng miền núi và tộc người thiểu số đạt được tác dụng tốt,
hiệu qủa cao trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi không chỉ có quyết tâm, nhận thức đúng mà còn
phải xây dựng được những cách làm có hiệu quả, các hình thức và bước đi thích hợp với từng
địa phương, từng dân tộc; đồng thời, cần có cơ chế, chính sách và giải pháp đồng bộ nhằm xoá
đói giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Nâng cao dân trí,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các tộc người và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Về
phía những người trực tiếp làm công tác dân vận, dân tộc cần phải được củng cố, nâng cao chất
lượng để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, biết cách hướng dẫn bà con nhân
rộng những mô hình mới, cách làm hay nhằm thực hiện mục tiêu chung “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Liên hệ thực tiễn:
Ví dụ như Tâm lý nông dân Miền Bắc Việt Nam
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ buổi đầu dựng nước đến nay, vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Trong công cuộc đổi mới hiện nay,
vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân càng có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ đối với
phát triển kinh tế- xã hội mà còn đối với việc ổn định chính trị đất nước.
Thực tiễn đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
giai cấp nông dân thực sự là một lực lượng hùng hậu, cùng với giai cấp công nhân và toàn thể
nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Hiện nay, giai cấp nông dân nước ta
chiếm 80% dân số cả nước, chiếm 71,7% tổng lao động toàn xã hội. Đây là giai cấp có tiềm
năng rất to lớn của đất nước, đặc biệt tiềm năng về lao động, con người. Họ không chỉ là lực
lượng lao động có vai trò quyết định đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói
riêng mà còn là lực lượng cách mạng hùng hậu, góp phần quan trọng vào sự thành bại trong sự
nghiệp xây dựng CNXH của cả dân tộc; tạo ra cơ sở vững chắc để nhanh chóng thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
12


Những biến đổi trong tâm lý nông dân vừa là nhân tố tác động điều chỉnh hành vi hoạt động,
quan hệ của người nông dân với tư cách là chủ thể của những biến đổi Êy vừa là sự phản ánh
quá trình biến đổi kinh tế nông nghiệp và xã hội nông thôn.
Thực tế, khi chúng ta đã xác định rõ, trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn
bằng con đường CNH, HĐH thì nguồn lực lớn nhất vẫn là nội lực từ mỗi người nông dân và
toàn thể giai cấp nông dân; và trong nguồn lực ấy, trước hết phải kể đến tâm lý, ý thức của nông
dân - động lực tinh thần trực tiếp nhất. Hơn nữa, ở nước ta, mỗi vùng, miền đều có các đặc điểm
tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau đã tạo nên tâm lý người nông dân ở mỗi vùng, miền không
giống nhau, tâm lý nông dân miền Bắc khác với tâm lý nông dân ở miền Nam.
Miền Bắc Việt Nam là nơi có lịch sử phát triển lâu đời, dân cư tập trung đông đúc, là cái nôi của
lịch sử trồng lúa nước, trình độ thâm canh lúa nước của người nông dân ở đây cao hơn nhiều so
với các vùng, miền khác trong cả nước. Hiểu được nông dân, nông thôn miền Bắc tức là chúng
ta đã có cơ sở cơ bản và cần thiết để hiểu người nông dân Việt Nam nói riêng và xã hội Việt
Nam nói chung, không chỉ trong việc ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của người nông dân
mà còn trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chính vì vậy, vấn đề
đặt ra hiện nay là những biến đổi tâm lý của nông dân miền Bắc xét từ cả hai góc độ tích cực và
tiêu cực, tiên tiến và lạc hậu, cách mạng và bảo thủ rất cần quan tâm nghiên cứu để nhận diện
chính xác, phát hiện những xu hướng chủ yếu
Tâm lý nông dân thực chất là tâm lý xã hội nông dân. Đó là các hiện tượng ý thức
như tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán, động cơ, thái độ, hứng thú, sở
thích, nhu cầu, xu hướng... của tầng lớp nông dân, được hình thành dưới ảnh hưởng trực
tiếp của đời sống hàng ngày của họ và chi phối thái độ, hành vi, cách ứng xử của họ.
Tâm lý truyền thống của nông dân miền Bắc được hình thành dưới tác động trực tiếp của những
điều kiện hoàn cảnh sau:
Một là: Điều kiện tự nhiên vừa ưu đãi, vừa khắc nghiệt.
Hai là: Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước và đấu tranh chống giặc ngoại

xâm. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hầu hết các cuộc
đấu tranh giữ nước, bảo vệ chủ quyền dân tộc đều diễn ra tập trung chủ yếu ở khu vực miền
Bắc Việt Nam.
Ba là:Chính sách công điền, công thổ về ruộng đất.
Bốn là:Lệ làng (hương ước). Lệ làng (hương ước) là những quy định chặt chẽ về tổ chức
tự quản của làng xã, về các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, về mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng. Chính sách công điền, công thổ về ruộng đất chặt chẽ, ngặt nghèo dưới các triều
đại phong kiến Việt Nam cộng với những quy định rất cụ thể, ngặt nghèo được ghi trong lệ
làng mà mỗi cá nhân trong làng xã không thể hành động ngược lại với những điều khoản quy
định trong lệ làng mà cả cộng đồng đã đề ra đã làm cho tâm lý cố kết cộng đồng của người
nông dân miền Bắc vốn đã chặt chẽ do phải cùng nhau lao động, sản xuất trong điều kiện
thên nhiên, khí hậu khắc nghiệt và trong đấu tranh mét mất, một còn chống giặc ngoại xâm
càng thêm bền chặt hơn. Đây là cơ sở tạo nên sự khác biệt căn bản trong tâm lý cộng đồng
của người nông dân miền Bắc so với tâm lý cộng đồng của người nông dân miền Nam. từ đó
làm nảy sinh và hình thành tâm lý truyền thống của nông dân miền Bắc khác biệt với tâm lý
nông dân miền Nam.
Truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc: Đây là mét trong những giá trị
tinh thần lớn nhất, bền vững và trường tồn, chi phối ý thức, hành vi, lối ứng xử của người nông
13


dân; là nét tâm lý truyền thống đặc trưng tiêu biểu của người nông dân miền Bắc cũng đồng thời
là của con người Việt Nam, nông dân Việt Nam.
Tinh thần đoàn kết, tính cố kết cộng đồng: Đặc điểm địa lý, khí hậu khắc nghiệt, thất
thường đã khiến người nông dân miền Bắc luôn phải vất vả, vật lộn với thiên tai để sinh tồn,
mặt khác, trong lịch sử dân tộc, hầu hết các cuộc chiến tranh giữ nước đều diễn ra ở khu vực
miền Bắc do vậy đã hun đúc nên “truyền thống đoàn kết”, tính “cố kết cộng đồng”. Người nông
dân miền Bắc ý thức rất rõ mối liên kết Nhà - Làng - Nước gắn bó chặt chẽ với nhau, nước mất
thì nhà tan nên họ rất có ý thức chăm lo, bảo vệ, xây dựng và phát triển mối liên kết cộng đồng.
Do vậy, tinh thần đoàn kết, tính cố kết cộng đồng là đặc trưng “nổi trội” trong tâm lý người dân

miền Bắc so với các vùng nông thôn khác trên đất nước ta.
Tình yêu lao động, cần cù trong cuộc sống: Yêu lao động, cần cù trong cuộc sống là nét
bản chất nhất, là thước đo giá trị cao nhất người nông dân miền Bắc. Bởi lẽ nông thôn miền Bắc
có đặc thù riêng: là vùng đất chật, người đông, vì kế sinh tồn mà họ gắn trực tiếp với lao động
và rất cần cù chịu khó trong cuộc sống.
Trọng đạo đức, trọng danh dự và tình cảm: Coi trọng đạo đức, sống có tình nghĩa là lối
ứng xử của người nông dân miền Bắc cũng là tiêu biểu cho con người Việt Nam. Truyền thống
tốt đẹp Êy góp phần tạo dựng văn hóa, văn hiến đặc sắc, tạo nên sự bình yên, duyên dáng của
nông dân Việt Nam, làng quê Việt Nam. Sự phân tích trên đây chưa thật đầy đủ, song những đặc
trưng tâm lý nói trên của người nông dân miền Bắc được hun đúc, chọn lọc, kế thừa từ đời này
qua đời khác, góp phần tạo nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của người nông dân tình yêu nước,
tinh thần tự tôn dân tộc, nếp sống cộng đồng tình nghĩa, lối sống giản dị, nhân hậu... Đó là
những yếu tố tâm lý tích cực có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Những đặc trưng tâm lý tiêu cực
Tâm lý sản xuất nhá, manh món, phân tán, tù tóc, tù cấp: Đây là nét tâm lý đặc trưng
của người nông dân miền Bắc bắt nguồn từ nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. Đặc trưng tâm lý này
trở thành truyền thống cố hữu trong nông dân miền Bắc Việt Nam.
Bảo thủ, thiên về tư duy kinh nghiệm, trực giác, hạn chế sự phát triển của tư duy lô gíc,
khoa học: Cách sản xuất riêng rẽ, manh món đã dẫn đến phong cách tư duy còng bảo thủ, thiển
cận, kinh nghiệm chủ nghĩa, kém tổ chức kỷ luật, nên nhận thức cảm tính, tư duy kinh nghiệm đã
trở thành thói quen trong đời sống của người nông dân miền Bắc. Họ thực sự xa lạ với lối tư duy
duy lý, tư duy thực nghiệm khoa học. Đây là hạn chế lớn trong tâm lý nông dân Việt Nam, nã cản
trở họ trong quá trình giao lưu, hội nhập để phát triển.
Tâm lý hẹp hòi, vị kỷ, phường hội, bè phái, cục bộ địa phương: Tâm lý hẹp hòi, vị kỷ,
phường hội, bè phái, cục bộ địa phương một mặt là kết quả tất yếu của sản xuất tư hữu nhá,
manh món, kỹ thuật thủ công, lạc hậu, nền kinh tế tiểu nông khép kín, phân công lao động chưa
phát triển; mặt khác, nó là mặt trái của tâm lý cố kết cộng đồng làm cho tầm nhìn của nông dân
hạn hẹp, thiển cận.
Tổng quan có thể thấy, diện mạo tâm lý truyền thống của người nông dân miền Bắc tựa
như một bức tranh đa diện, đa màu sắc mà ở đó có sự đan xen, hòa quyện giữa những mảng

sáng, tối; xấu, tốt; tích cực, tiêu cực. Đó là tính lưỡng diện trong đời sống tinh thần ở làng xã
nông thôn miền Bắc Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Diễn biến tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến
trước năm đổi mới đất nước (1945 - 1986)
Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam từ khi nước nhà độc lập đến năm 1954
14


Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã làm thay đổi thực sự thân phận của người nông
dân: từ địa vị nô lệ, người nông dân miền Bắc vươn lên địa vị người làm chủ chân chính của
đất nước, trở thành công dân một nước độc lập. Sau Cách mạng tháng Tám, ý thức rõ vấn đề
“dân muốn ăn no thì phải trồng trọt nhiều. Nước muốn mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt tiếp tục chính sách đấu tranh chống thù trong giặc
ngoài để bảo vệ nền độc lập dân tộc, mặt khác luôn chú trọng phát triển nông nghiệp, mở
rộng sản xuất, triệt để thi hành giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của địa chủ, thực dân
cấp cho dân nghèo. Bối cảnh đó đã tác động không nhỏ đến tâm lý, lối sống của người nông
dân. Tâm lý nông dân có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Song, do sức ỳ của tâm
lý, vẫn tồn tại những biểu hiện tâm lý truyền thống tiêu cực. Nhiều hủ tục cũ lạc hậu vẫn còn
tồn tại và ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống thôn quê miền Bắc.
Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam từ khi có hợp tác xã nông nghiệp đến trước năm
đổi mới đất nước: Nhờ có nhiều chính sách đúng đắn của Đảng như khuyến khích sản xuất,
giảm thuế nông nghiệp, đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp, sửa chữa, mở mang, tu bổ hệ
thống thủy lợi. Thêm vào đó là các phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa từng bước xóa
nạn mù chữ, nâng cao dân trí đã phát huy được nhiều tiềm năng, sức mạnh của nông dân miền
Bắc. Tâm lý nông dân miền Bắc được phát triển tích cực, lành mạnh: một lòng tin theo Đảng,
tâm lý cộng đồng được củng cố, tình làng, nghĩa xóm gắn kết hơn, tinh thần tương thân, tương
ái được đề cao, mê tín dị đoan được hạn chế.
Tuy nhiên, trên thực tế, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến ở nông thôn miền Bắc nên
những đặc trưng tâm lý tiêu cực vẫn còn tồn tại và chi phối đời sống hàng ngày của người nông
dân và cộng đồng làng xã. Thêm vào đó, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp cùng

những hạn chế, thiếu sót trong xây dựng mô hình HTX nông nghiệp không chỉ làm triệt tiêu
động lực mà còn làm cho mặt tiêu cực trong tâm lý người nông dân miền Bắc phát triển.
Tóm lại, Tâm lý truyền thống của nông dân miền Bắc Việt Nam được hình thành, phát
triển dưới sự tác động của hàng loạt nhân tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn kết với nhau
qua hàng ngàn năm lịch sử nên khá bền vững. Chính vì vậy, cho đến trước năm 1986, những
đặc trưng tâm lý truyền thống mặc dù có những biến đổi nhưng còn chậm chạp, thường đan xen
giữa những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Nghiên cứu tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam phải
xem xét toàn diện cả hai mặt đó để có cơ sở khách quan đưa ra những giải pháp đúng đắn nhằm
xây dựng đời sống mới cho nông dân, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới nông nghiệp và
nông thôn hiện nay
TÂM LÝ NÔNG DÂN MIỀN BẮC VIỆT NAM KHI CHUYỂN SANG KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
Từ sau Đại hội VI (1986) của Đảng, nông nghiệp tiếp tục được xem là mặt trận quan
trọng hàng đầu. Đặc biệt từ khi có “Chỉ thị 100”, Nghị quyết 10 (khoán 10), Nghị quyết của Hội
nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) của Đảng kinh tế nông nghiệp từng bước vận hành theo
đúng quy luật khách quan, chuyển từ tình trạng tự cấp, tù tóc sang sản xuất hàng hóa, tạo nên
một bước ngoặt căn bản trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn nhằm đổi mới quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp, tạo động lực to lớn thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Do đó đã
giải phóng đáng kể sức sản xuất trong nông nghiệp, bước đầu khôi phục lại động lực lao động
thật sự cho người nông dân, khơi dậy những tiềm năng vốn có của con người và đất đai, quan
hệ sản xuất có những bước tiến quan trọng, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, nên đưa lại sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ tăng, tư liệu sản xuất và người lao động đã có những gắn kết trực tiếp
15


với nhau, sù bình quân trong phân phối bị loại bỏ, lợi Ých gắn với quyền lợi và nghĩa vụ. Chính
vì vậy đã khơi dậy sự nhiệt tình, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực của các hộ nông dân.
Các đối tượng lao động nông nghiệp được khai thác có hiệu quả hơn. Máy móc được đưa vào
sản xuất nông nghiệp, giải phóng một phần lao động thủ công, tạo ra nhiều lao động dôi dư, di

chuyển sang ngành nghề khác. Sự phân công và hiệp tác trong lao động được thực hiện và ngày
càng đi vào chiều sâu. Hàm lượng khoa học kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm lao động tăng.
Nhiều ngành nghề mới xuất hiện bước đầu phá vỡ tính độc canh trong sản xuất nông nghiệp từ
lâu đời ở miền Bắc.
Thực tế hơn 15 năm qua cho thấy, sù quan tâm của người nông dân đối với sản xuất càng
ngày càng tăng. Họ gắn bó với ruộng đất, trăn trở tìm tòi những giải pháp để tăng cường hiệu
quả sản xuất, tự nguyện đầu tư vốn và lao động nhiều hơn... Dưới tác động của kinh tế thị
trường, dưới sức Ðp của lực lượng lao động và sự có hạn của đất đai, người nông dân đã chủ
động hơn, năng động hơn trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề theo
hướng sản xuất hàng hóa. Vai trò tự chủ của kinh tế hé gia đình nông dân được khẳng định.
Trình độ, tri thức, kỹ năng sản xuất và kinh doanh của nông dân ngày càng cao hơn.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường cũng tạo cho kinh tế - xã hội nông thôn miền
Bắc xuất hiện những biến đổi theo hướng tiêu cực. Phân hóa giàu - nghèo xảy ra khá mạnh mẽ,
khoảng cách giàu -nghèo ngày một lớn. Mét sè giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp bị xáo trộn
hoặc phai nhạt. Những tiêu cực về mặt xã hội phát sinh và có nguy cơ trầm trọng.
Những thay đổi kinh tế - xã hội đó là cơ sở khách quan làm xuất hiện những biến đổi tâm lý của
nông dân Việt Nam nói chung và nông dân miền Bắc nói riêng.
Diễn biến tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam dưới tác động của nền kinh tế thị
trường
15 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, cũng là thời gian chúng ta dần đoạn tuyệt
với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, do đặc
điểm nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, tõ mét nước có nền kinh
tế tiểu nông, lạc hậu là phổ biến, do đó nền kinh tế chúng ta đang xây dựng chưa phải là nền
kinh tế thị trường XHCN với đầy đủ ý nghĩa đích thực của nó, mà là một nền kinh tế thị trường
còn sơ khai, chưa đồng bộ.Đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tính chất quá độ
này thể hiện trên hai khía cạnh: a) nền kinh tế thị trường chưa thoát thai khỏi những đặc điểm
của kinh tế thị trường TBCN; b) nền kinh tế này bước đầu đã mang những yếu tố XHCN. Chính
đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp tới bộ mặt nông thôn, kéo theo những biến đổi trong đời sống
tâm lý của người nông dân miền Bắc theo hai khuynh hướng tích cực và tiêu cực.
Những biến đổi tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam theo hướng tích cực

Có thể khái quát các biến đổi đó từ những góc độ sau:
Thứ nhất: Những biến đổi tích cực về nhu cầu và định hướng giá trị.
Nếu như trong thời bao cấp, hay trong thời chiến tranh, nhu cầu của người nông dân còn khá
đơn giản thì nay do tác động của kinh tế thị trường mà chúng trở nên đa dạng, phong phó cả về
số lượng và chất lượng như:
- Nhu cầu điều chỉnh và tăng thêm diện tích ruộng đất.
- Nhu cầu đầu tư cho sản xuất.
- Nhu cầu về đời sống vật chất và đời sống tinh thần ngày càng tăng.
- Nhu cầu về thẩm mỹ và nhu cầu về tâm linh còng có sù thay đổi.
Ngoài ra, từ khi đổi mới, người nông dân miền Bắc còn có những thay đổi khác về mặt định
hướng giá trị. Họ đã định hướng mạnh hơn đến giá trị sở hữu cá thể. Đây là nét rất mới trong
16


tâm lý người nông dân miền Bắc, vì trước đó, trong cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao
cấp, sở hữu cá thể không được coi trọng, việc chăm lo tới lợi Ých cá nhân người nông dân Ýt có
điều kiện thực hiện, thêm vào đó chủ nghĩa bình quân đã thủ tiêu mọi khả năng vươn lên làm
giàu của mỗi người nông dân.
Chính vì vậy, trong thang bậc giá trị truyền thống đã có sự xáo trộn, người nông dân miền
Bắc ưu tiên giá trị biết cách làm giàu, đề cao các giá trị kinh tế.
Thứ hai:Những biến đổi tích cực về tâm trạng và niềm tin.
Dưới sự tác động của kinh tế thị trường, trong khu vực cư dân nông thôn miền Bắc đã xuất hiện
những biến đổi tích cực ở phương diện tâm trạng và niềm tin của người nông dân. Có thể được
khái quát trên mét số điểm cơ bản sau:
Một là: NÒn kinh tế thị trường với tính chất cạnh tranh đã huy động được nhiều tiềm
năng trí tuệ, năng lực của con người mà trước đây trong thời bao cấp nú dường như bị bỏ quên.
Nông dân có tâm trạng phấn khởi, yên tâm đầu tư, tiến hành sản xuất, kinh doanh có hiệu quả
hơn. Ởnông thôn miền Bắc ngày càng xuất hiện nhiều triệu phú biết làm kinh tế giái.
Hai là: Các thiết chế chính trị được đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ khiến cho sù
dịch chuyển của các định hướng giá trị ngày càng hoàn thiện. Truyền thống yêu quê hương, đất

nước, yêu lao động được củng cố và phát huy mạnh mẽ. Những khái niệm yêu nước, yêu lao
động, cần cù trong cuộc sống được mở rộng và thêm vào những nội dung mới như có ý chí tự
lực, tự cường, vươn lên trong cuộc sống, ham học tập, tìm tòi, thử nghiệm, năng động sáng tạo,
quyết tâm vượt khó, dám nghĩ, dám làm, biết làm giàu cho bản thân, cho quê hương, cho đất
nước.
Nhìn chung, tâm lý của người tiểu nông sản xuất nhá, tù tóc, tù cấp đã và đang chuyển
dần thành tâm lý của người nông dân sản xuất hàng hóa cho thị trường. đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện
nay.
Những biến đổi tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam theo hướng tiêu cực
Bên cạnh sự biến đổi và xuất hiện những trạng thái và thuộc tính tâm lý của người nông
dân miền Bắc có ý nghĩa tích cực đã nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực, đã ảnh hưởng đáng kể đến
suy nghĩ và hành vi của họ. Có thể khái quát những biến đổi tâm lý nông dân theo hướng tiêu
cực trên các phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất: Những tiêu cực phản ánh qua nhu cầu và định hướng giá trị
Kinh tế thị trường đã làm nhu cầu của người nông dân miền Bắc biến đổi theo hướng đa dạng
phong phó hơn. Bên cạnh những nhu cầu tiến bộ, lành mạnh cũng nảy sinh tâm lý thích phụ
trương hình thức, đặc biệt trong cưới xin, ma chay, hội hè, đình đám. kinh tế thị trường hay là
sù lai căng những giá trị ngoại lai, xa lạ với văn hóa, tập quán của nông dân và điều kiện kinh tế
còn nghèo của đất nước.
Bên cạnh đó, kinh tế thị trường không chỉ góp phần làm rạn nứt sự bền vững của mét sè giá trị
truyền thống đã tỏ ra bất cập với thời đại, mà còn làm nảy sinh sự lựa chọn giá trị theo những
khuynh hướng phức tạp. Luận án đề cập tới hai khuynh hướng khác nhau sau:
Một là:Tìm cách quay lưng lại với những giá trị hiện đại, trở về tìm cách bảo lưu giá trị
truyền thống theo lối " nệ cổ", "bảo thủ".
Hai là:Đối lập với khuynh hướng thứ nhất là chạy theo những giá trị của thị trường một
cách cực đoan
Thứ hai:Những tiêu cực trên phương diện tâm trạng và niềm tin.
17



Mặt trái của kinh tế thị trường cùng với những sai lầm chủ quan trong mét sè chủ trương chính
sách của nhà nước là nguyên nhân xuất hiện tâm trạng thờ ơ chính trị, thờ ơ với thời cuộc, chỉ lo
vun vén cá nhân. Rõ ràng, quy luật cạnh tranh cùng những nhân tố khác của nền kinh tế thị
trường đã khiến cho chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi vị kỷ, cục bộ địa phương trong tâm lý nông dân
phát triển.
Những vấn đề đặt ra trong quá trình biến đổi tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam
và mét sè dự báo
minh hơn, hiện đại hơn, đáp ứng yêu cầu của cách mạng hơn. Một đời sống tâm lý mà ở đó
truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, kinh tế
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng các mô
được tiềm năng sáng tạo của mọi lực lượng xã hội, mọi thành phần kinh tế mà đông đảo nhất là
lực lượng nông dân.
Chuyển sang kinh tế thị trường cũng có nghĩa là xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung quan liêu
bao cấp, xác lập cơ chế mới. Đây là một cuộc
- Thống kê, phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục và đào tạo của tỉnh nói chung và các
vùng dân tộc thiểu số nói riêng.
-Điều tra, khảo sát và phân tích một số nét tâm lý tác động đến quá trình dạy và học.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo góp phần nâng cao dân trí ở các vùng dân tộc thiểu số của tỉnh.
Qua nghiên cứu, phân tích, đánh giá từ 477 học sinh dân tộc thiểu số bậc học Tiểu học và THCS
chủ yếu tại địa bàn các huyện Thạch An, Thông Nông, Nguyên Bình cho thấy:
- Học sinh dân tộc thiểu số còn tồn tại quan điểm học chỉ để không thua kém bạn bè, học
để vui lòng cha mẹ chiếm 46,5%, điều đó cho thấy một bộ phận không nhỏ học sinh vùng cao
chưa có động cơ đúng đắn, chưa xác định được rõ mục tiêu học tập, còn nặng tính hình thức,
phô trương.
- Học sinh học vì yêu mến thầy, cô giáo chiếm 70,5%, thể hiện rõ bản chất, nét tính cách,
tâm lý đặc biệt của các em học sinh dân tộc thiểu số là hiền lành, chất phác, thật thà, gần gũi…
Cùng với sự đổi mới của đất nước, nhận thức của học sinh dân tộc vùng cao cũng đã có sự
chuyển biến tích cực, mặc dù đời sống vật chất, tinh thần, điều kiện học tập còn khó khăn, song

đã có nhận thức phải nâng cao trình độ tri thức và lợi ích lâu dài của nó. Tuy nhiên, một số học
sinh dân tộc vùng cao hiện nay khi đi học về lại không muốn công tác phục vụ tại địa phương,
vì vậy, việc tìm giải pháp từng bước hạn chế và xoá bỏ sự chênh lệch giữa các vùng miền là
việc làm cấp bách của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội.
Sau khi nghiên cứu thực trạng tâm lý học sinh vùng cao, nhóm thực hiện đề tài đã đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đối với học sinh vùng cao:
- Tăng cường vai trò của cha mẹ trong giáo dục con cái: Cha mẹ là những người thấy, cô
giáo đầu tiên và quan trọng nhất trong cuộc đời của trẻ. Vì vậy, cha mẹ cần có thái độ định
hướng, ân cần, kiên nhẫn trong nuôi, dạy trẻ.
- Giáo viên cần nhận biết đầy đủ những thay đổi tâm, sinh lý của học sinh trong quá trình
phát triển, như vậy giáo viên mới có những tác động tích cực, phù hợp để khuyến khích trẻ học
tập.
- Giúp học sinh tự ý thức về năng lực và khả năng học tập: Giáo viên, cha mẹ, bạn bè cần
có những đánh giá khách quan về khả năng học tập của trẻ trong các mặt tư duy ngôn ngữ và
18


toán học, văn nghệ, thể dục, thể thao … giúp trẻ tự tin vào khả năng của mình, đồng thời nỗ lực
để học tập ngày càng tốt hơn.
- Giúp học sinh hiểu rõ mức độ khó của nhiệm vụ học tập: Giáo viên cần đa dạng hoá các
phương pháp giảng dậy để học sinh thấy được ý nghĩa và mức độ khó của việc học tập.
- Tạo cơ hội cho học sinh chủ động trong học tập: Giáo viên cần hình thành cho học sinh
các kỹ năng xây dựng mục tiêu và thông qua các việc làm cụ thể để học sinh có thể chủ động
kiểm soát thời gian và cách thức hoạt động. Hướng dẫn cho học sinh cách tự đánh giá quá trình
học tập để củng cố và điều chỉnh cách học cho phù hợp với bản thân.
- Tạo cho học sinh có sự gắn bó với tập thể lớp trong quá trình học tập: Giáo viên cần làm
cho học sinh hiểu và ý thức được rằng mỗi học sinh là một thành viên trong tập thể lớn. Điều đó
sẽ tạo điều kiện cho các em học sinh tham gia vào các hoạt động tập thể.
- Cần bộc lộ sự quan tâm và kỳ vọng cao đối với học sinh: Giáo viên, cha mẹ cần quan
tâm ủng hộ học sinh để học sinh phát huy và mạnh dạn hơn trong học tập cũgn như các mối

quan hệ công tác. Quan tâm đến tâm tư, tình cảm của học sinh là nền tảng thúc đẩy động cơ và
sự tham gia học tập của học sinh một cách thuận lợi.
Vấn đề 4: Uy tín của người làm công tác dân vận:
1. Khái niệm: Theo từ điển Tiếng Việt thì uy tín bao gồm uy và tín. Trong đó, uy là oai,
oai phong, uy quyền; tín là tín nhiệm, sự thừa nhận.
Uy tín là ảnh hưởng của một cá nhân hay một nhóm người đến một cá nhân hay một nhóm
người khác. Uy tín cũng còn là sự tín nhiệm của mọi người đến một cá nhân hay một nhóm xã
hội về một lĩnh vực nào đó. Như vậy, uy tín là sự thừa nhận chung có ý nghĩa xã hội về quyền
uy và sự ảnh hưởng của một cá nhân, một nhóm hay một thiết chế xã hội nào đó trong một lĩnh
vực nhất định của xã hội. Uy tín là một hiện tượng tâm lý xã hội được hình thành và phát triển
trong các mối quan hệ xã hội. Chính vì uy tín nảy sinh trong mối quan hệ người - người cho nên
khi nói đến uy tín phải nói đến chủ thể uy tín và khách thể uy tín. Chủ thể uy tín là một cá nhân,
một nhóm, một tập thể. Chủ thể uy tín có sức mạnh tác động, có ảnh hưởng tới người khác về
một vấn đề gì đó. Chủ thể này buộc người khác phải làm theo, nghe theo. Khách thể uy tín là
những người chịu ảnh hưởng của uy tín này, chịu sự thu hút, sự cảm hóa, sự tác động của chủ
thể uy tín.
Uy tín người cán bộ dân vận là một hiện tượng tâm lý xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa
người cán bộ dân vận với các cá nhân, các nhóm xã hội có tiếp nhận sự ảnh hưởng tác động. Uy
tín người cán bộ dân vận là quyền uy được hình thành và thể hiện trong sự thống nhất giữa chức
vụ, chức nghiệp của người cán bộ dân vận biểu hiện qua quá trình ảnh hưởng đến mọi người và
được sự thừa nhận.
Cấu trúc uy tín người cán bộ dân vận bao gồm: quyền lực và sự tín nhiệm.
Yếu tố quyền lực trong uy tín người cán bộ dân vận được hiểu là khả năng kiểm soát, thuyết
phục, ảnh hưởng hoặc lôi kéo những người khác. Yếu tố quyền lực trong uy tín người cán bộ
dân vận có được hoặc từ địa vị - do tổ chức trao cho, được xác định bởi chức năng theo luật
định, hoặc từ phẩm chất và năng lực cá nhân của họ. Theo đó quyền lực của người cán bộ dân
vận bao gồm quyền lực vị trí và quyền lực cá nhân . Quyền lực vị trí là điều kiện khách quan
với nghĩa là đại diện cho quyền lực của tổ chức và xã hội trong thực hiện chức trách chuyên
môn. Quyền lực cá nhân là nhân tố chủ quan có vai trò trọng yếu trong gây dựng, cũng cố và
nâng cao uy tín người cán bộ dân vận được biểu hiện cụ thể ở năng lực, phẩm chất và phong

cách. Với chức năng vận động , tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ quần chúng nhân dân thì sự
19


ảnh hưởng của người cán bộ dân vận có được từ đạo đức, học vấn, kinh nghiệm, các ưu thế là
quan trọng hơn cả. Yếu tố sự tín nhiệm trong uy tín người cán bộ dân vận là sự tín nhiệm, nghe
theo làm theo một cách tự nguyện, tự giác của quần chúng nhân dân trên cơ sở tin tưởng vào
đạo đức và năng lực công tác của họ.
2. Điều kiện tao dựng uy tín cho người cán bộ dân vận:
- Nhóm các điều kiện khách quan tác động đến uy tín của người cán bộ dân vận, trước
tiên phải kể đến là người cán bộ dân vận phải có quyền lực. Quyền lực này là do chức vụ được
giao, được bổ nhiệm hay bầu cử hợp pháp quy định. Yếu tố này là cơ sở để phân biệt uy tín
người cán bộ dân vận với tư cách là người lãnh đạo quản lý (chức vụ) và người cán bộ dân vận
với vai trò là người làm công tác dân vận (chức nghiệp). Điều kiện này khẳng định uy quyền
của người cán bộ dân vận trước tập thể, trước nhân dân. Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện quan
trọng, chứ nó không quyết định trực tiếp đến việc tạo ra uy tín của người cán bộ dân vận. Bởi có
những người có quyền lực vị trí nhưng không biết sử dụng quyền lực (hoặc bị lấn quyền, hoặc
bị lạm quyền) thì cũng không tạo ra sự ảnh hưởng, không có uy tín đích thực.
Điều kiện khách quan khác ảnh hưởng đến uy tín người can bộ dân vận là uy tín của tổ
chức mà người cán bộ dân vận là thành viên. Uy tín của tổ chức ở đây trước tiên là uy tín của
Đảng, của Nhà nước, của tổ chức có năng lực dân vận. Đay là chỗ dựa vững chắc, là tiền đề tạo
dựng uy tín người cán bộ dân vận. Ngược lại, uy tín người cán bộ dân vận cũng sẽ góp phần
nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước và tổ chức. Mặc khác, uy tín của người cán bộ dân vận
còn chịu tác động của công tác tổ chức cán bộ, của cơ chế quản lý xã hội , môi trường xã hội ,
các điều kiện hoạt động, chịu ảnh hưởng bởi trình độ nhận thức , tâm trạng, thái độ lòng tin của
nhân dân.
- Nhóm các điều kiện chủ quan tác dộng, ảnh hưởng đến uy tín người cán bộ dân vận thì
việc người cán bộ dân vận có phẩm chất, năng lực tương xứng với chức vụ và công việc được
giao là quan trọng nhất. Vì uy tín của người cán bộ dân vận phụ thuộc chủ yếu vào nhân cách
của họ. Bên cạnh đó thì phong cách lãnh đạo, phong cách giao tiếp phù hợp sẽ tạo điều kiện tốt

cho cũng cố uy tín . Uy tín người cán bộ dân vận còn chịu ảnh hưởng của tác phong, dáng vẻ,
ngôn ngữ để thu hút cảm hóa người khác.
Như vậy, uy tín người cán bộ dân vận là sự tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành. Để giữ
vững và nâng cao uy tín thì người cán bộ dân vận phải chú ý vai trò của cả những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Trong đó những nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định,
những điều kiện khách quan chỉ thực hiện được vai trò của mình thông qua nhân tố chủ quan.
3. Con đườnghình thành uy tín của người làm công tác dân vận:
- Uy tín của người cán bộ dân vận được gây dựng, nâng cao trong suốt quá trình hoạt
động thực tiễn. Những phẩm chất và năng lực của người cán bộ dân vận đóng vai trò quyết định
trong việc tạo dựng uy tín, các phẩm chất và năng lực được hình thành và hoàn thiện thông qua
hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, việc tham gia tích cực vào hoạt động thực tiễn công tác có ý
nghĩa quan trọng để cũng cố và nâng cao uy tín người cán bộ dân vận. Trong hoạt động thực
tiễn người cán bộ dân vận phải rèn luyện cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong
sáng, năng lực và kỹ năng công tác, trình độ chuyên môn tương xứng. Mặc khác, những tính
xấu sau thường gây mất uy tín của người cán bộ dân vận: nói không đi đôi với làm, hách dịch,
cửa quyền, trình độ chuyên môn yếu kém, lạm dụng quyền lực, lối sống xa rời dân, xa hoa, lãng
phí…
- Biết chăm lo, bảo vệ uy tín của tổ chức, tập thể và quần chúng nhân dân trong quá trình
công tác. Uy tín của tổ chức có ý nghĩa đáng kể đối với việc cũng cố và nâng cao uy tín người
20


cán bộ dân vận. Uy tín của tổ chức được xác lập bởi ảnh hưởng của tổ chức đó với xã hội, với
các tổ chức khác, với người dân, bởi việc hoàn thành tốt nhiệm vụ cơ bản của mình. Chính vì
vậy, trong việc gây dựng và cũng cố uy tín của tổ chức, cần tiến hành có kết quả sự đổi mới tổ
chức bộ máy và đổi mới đội ngũ cán bộ. Điều này sẽ làm cho tổ chức đạt được hiệu quả hoạt
động cao, thỏa mãn được các nhu cầu và lợi ích cơ bản nhân viên, phục vụ tốt cho xã hội.
- Thực hiện tốt các mối quan hệ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ dân
vận. Uy tín là một hiện tượng tâm lý xã hội được hình thành trong mối quan hệ giữa người người. Người cán bộ dân vận khi thực hiện nhiệm vụ của mình thường tham gia vào các mối
quan hệ với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, người dân, các tổ chức xã hội…Để cũng cố và

nâng cao uy tín, người cán bộ dân vận thông qua quá trình giao tiếp cần tạo ra các mối quan hệ
tốt, bằng cách: thể hiện thiện chí của mình, thể hiện khả năng chuyên môn cao, biết cách thuyết
phục, cảm hóa mọi người, bằng đạo đức và tính trung thực của mình, thể hiện tác phong, dáng
vẽ phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
- Vận dụng các hiện tượng tâm lý xã hội nhằm cũng cố và nâng cao uy tín.
Dư luận tập thể, dư luận xã hội là nhân tố rất quan trọng trong cũng cố và nâng cao uy tín
người cán bộ dân vận. Dư luận tập thể, dư luận xẫ hội là sự đánh giá, phán xét của mọi người về
một sự kiện, hiện tượng nào đó. Người cán bộ dân vận có thể thông qua dư luận để biết những
đòi hỏi của tập thể của quần chúng nhân dân về những phẩm chất, năng lực, phong cách cần có.
Cũng qua dư luận, người cán bộ dân vận cũng có thể tạo ra những ảnh hưởng tới tập thể, tới
người khác.
Xây dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh trong tập thể, tạo dựng không khí tích cực
trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân cũng là cách thức hiệu quả để cũng
cố và nâng cao uy tín. Bản thân người cán bộ dân vận cần trở thành hạt nhân của đoàn kết trong
tập thể, trở thành nhân tố tích cực để lan truyền tâm trạng tích cực. Người cán bộ dân vận có thể
sử dụng các cơ chế tâm lý: lây lan, bắt chước, ám thị… để gây dựng bầu không khí tâm lý tích
cực.
Liên hệ thực tiễn:
Các đ/c dựa vào điều kiện khách quan và chủ quan để liên hệ với bản thân trong quá trình thực
hiện công tác dân vận ở cơ sở cũng như thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao tại cơ quan
mình đang công tác.
Kết luận: Mỗi tập thể, mỗi cộng đồng đều có định hướng, giá trị riêng của mình. Định
hướng giá trị đó có thể đúng đắn hoặc sai lệch. Do vậy người cán bộ dân vận cần biết xá định
các hệ giá trị của xã hội để có những nội dung và cách thức tuyên truyền phù hợp, đề cao các
giá trị chân chính. Mặc khác trong tổ chức người cán bộ dân vận cũng cần xác lập và đề cao các
định hướng giá trị đúng đắ, khắc phục, xóa bỏ các định hướng giá trị sai lệch qua đó tạo dựng
được uy tín bền chắc.

21




×