Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Bài điều kiện môn Văn hóa nông thôn:Nhân tố xã hội và nhân tố con người liên quan đến xã hội của nông thôn truyền thống ảnh hưởng như thế nào đến phát triển xã hội và quản lý xã hội trong điều kiện hiện nay ở nước ta?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.51 KB, 32 trang )

MÔN VĂN HÓA NÔNG THÔN
Câu 1: Nhân tố xã hội và nhân tố con người liên quan đến xã hội của nông
thôn truyền thống ảnh hưởng như thế nào đến phát triển xã hội và quản lý xã
hội trong điều kiện hiện nay ở nước ta?
Trả lời
Để hiểu một cách rõ ràng nhân tố xã hội và nhân tố con người liên quan đến
xã hội của nông thôn truyền thống ảnh hưởng như thế nào đến phát triển xã hội và
quản lý xã hội trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam chúng ta cùng tìm hiểu một số
thuật ngữ cơ bản.
Xã hội
Ở Việt Nam, thuật ngữ “xã hội” là để chỉ chung về xã hội theo cả nghĩa hẹp
và nghĩa rộng. Còn trong ngôn ngữ nhiều nước châu Âu, mỗi nghĩa hẹp và rộng
như vậy có riêng một thuật ngữ để xác định; thí dụ trong tiếng Anh “sociality” là xã
hội theo nghĩa hẹp, còn “society” là xã hội theo nghĩa rộng.
Dù theo nghĩa hẹp hay rộng thì đối với C.Mác, “xã hội không phải gồm các
cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân đối với nhau”.
Phát triển xã hội
Phát triển xã hội không chỉ thuần túy là sự phát triển của riêng lĩnh vực xã
hội, mà là sự phát triển đồng thời của phương diện xã hội thuộc các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa, y tế, môi trường, an
ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế,...) nhằm bảo đảm cho con người được phát
triển toàn diện và xã hội phát triển bền vững. Chỉ báo đánh giá sự phát triển xã hội
cơ bản là sự vận động lên một chất lượng mới cao hơn của nền sản xuất xã hội, mà
theo quan niệm C.Mác và Ph. Ăngghen trong Hệ tư tưởng Đức (1845), gồm: sản
xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sự tái sản sinh các thế hệ người, sự phát triển nhu
cầu và phát triển ý thức (kiến thức) của con người. Đây là một phức hợp 5 loại chỉ
báo, cho nên để đạt được sự phát triển xã hội, không thể không quản lý quá trình
phát triển này.
Về “quản lý phát triển xã hội”
Quản lý xã hội cũng như quản lý các lĩnh vực khác, nhìn chung đều gồm hai


thành tố: hệ thống tổ chức bộ máy quản lý và cơ chế quản lý. Hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý thuộc chủ thể quản lý; còn cơ chế quản lý là phương thức vận hành
của hệ thống tổ chức đó nhằm tác động vào đối tượng quản lý.
Như vậy, quản lý phát triển xã hội, theo nghĩa hẹp của thuật ngữ xã hội,
trước tiên là lập kế hoạch (chiến lược, chương trình...) và cách thức tổ chức, điều
1


hành, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và luật
pháp của Nhà nước đối với quá trình phát triển lĩnh vực xã hội nói riêng, và đối với
quá trình phát triển các phương diện xã hội thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội phát triển nhanh, bền vững theo hướng tiến
bộ, đồng thời đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu được phát triển toàn diện của con
người. Quản lý sự phát triển lĩnh vực xã hội vốn là nơi tập trung và thể hiện rõ nhất
các quan hệ người - người, còn bao hàm cả việc tạo điều kiện để tăng cường các
yếu tố thúc đẩy phát triển xã hội cũng như giảm thiểu các yếu tố cản trở sự phát
triển xã hội. Nội dung này của quản lý phát triển xã hội được thể hiện hầu như
trong tất cả các vấn đề xã hội. Báo cáo quốc gia của Chính phủ Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về phát triển xã hội tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát
triển xã hội năm 1995 xác định 10 vấn đề xã hội cần phải được quản lý phát triển
hiện nay ở Việt Nam là: (1) Giải quyết việc làm; (2) Xoá đói giảm nghèo; (3); Hoà
nhập xã hội; (4) Tăng cường vai trò của gia đình; (5) Phát triển giáo dục; (6) Dân
số - kế hoạch hoá gia đình; (7) Chăm sóc sức khoẻ nhân dân; (8) Bảo trợ xã hội; (9)
Môi trường; (10) Hạn chế và ngăn ngừa các hành vi phạm tội.
Xã hội VN truyền thống ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội và quản lý xã hội
1. Ảnh hưởng của dòng họ và các quan hệ huyết thống
Do điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém và do những yếu tố tâm lý, văn hóa
truyền thống nên ở tất cả các tộc người trên đất nước ta, quan hệ huyết thống còn
rất sâu đậm. Dòng họ của các tộc người là tập hợp của những người đang sống và
đã chết có chung một ông tổ (hoặc bà tổ, với các tộc theo chế độ mẫu hệ). Mỗi họ

có một “gien” riêng, di truyền qua các đời. Gien đó về mặt sinh học, được biểu hiện
qua thể chất, tư chất; còn về mặt xã hội được thể hiện qua phong cách giao tiếp, cư
xử, qua dáng đi, điệu nói…
Dòng họ của phần lớn các tộc người ở nước ta là một thiết chế bền chặt. Do
tư hữu phát triển nên dòng họ từ lâu đã không còn là một đơn vị sản xuất, đơn vị
kinh tế mà từ lâu đã “vỡ” ra thành nhiều gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân) với với
thân phận kinh tế - xã hội riêng (Anh em kiến giả nhất phận). Song, dòng họ vẫn
tồn tại như một sức mạnh tâm lý, tạo ra sự cố kết rất chặt chẽ theo nguyên tắc và
tinh thần Giọt máu đào hơn ao nước lã, Họ chín đời hơn người dưng. Cơ sở của sự
gắn kết và cố kết đó là gia phả, bằng các thiết chế tín ngưỡng (nhà thờ họ hay nhà
thờ chi họ), ngày giỗ họ (hay giỗ chi họ) và mộ tổ; cùng một cơ sở kinh tế để duy
trì các hoạt động thờ cúng đó là ruộng họ và quỹ họ. Sự cố kết trong dòng họ càng
được bền chặt trong trường hợp họ có người làm quan to, hay nắm giữ được các
chức vụ quan trọng trong bộ máy quản lý làng xã.
2


Vì sự cố kết trong dòng họ tương đối bền chặt nên dòng họ được coi là công
cụ để quản lý con người. Với tinh thần Một người có công cả họ được cậy, một
người làm bậy cả họ mang nhơ, lệ của nhiều làng quy định, một cá nhân vi phạm lệ
làng thì cha mẹ, chú bác, có khi cả dòng họ phải liên đới chịu trách nhiệm. Pháp
luật của nhà nước phong kiến cũng quy định trách nhiệm của dòng họ với các thành
viên của nó, coi thân tộc như một con người, buộc nó cũng như làng xã phải chịu
trách nhiệm về hành động cá nhân.
Sự cố kết của cộng đồng dòng họ có nhiều tác động tích cực, nhất là trong
việc tổ chức khai hoang lập làng, khuyến học, đào tạo công chức, viên chức, nhân
tài, trong đánh giặc ngoại xâm, làm xuất hiện các dòng họ “khai làng”, được tôn
vinh làm “tiên công” hay “tiền hiền, hậu hiền”, họ “khoa bảng”, họ “cách mạng”…
Tuy nhiên, dòng họ cũng ẩn chứa nhiều tác động tiêu cực. Với tinh thần Cửu
đại hơn ngoại nhân (họ chín đời hơn người dưng), Phi nội tắc ngoại hay Máu

loãng còn hơn nước lã, các quan hệ huyết thống tạo ra tư tưởng cục bộ bè phái,
móc ngoặc theo kiểu “Đi việc làng bênh việc họ, đi việc họ bênh việ anh em”,
“Một người làm quan cả họ được nhờ”; sự thiếu nghiêm túc, chính xác trước các
việc công cũng như trước pháp luật “Chín bỏ làm mười” hay “Đóng cửa bảo
nhau”), sự nể nang, né tránh, bao che những khuyết điểm, “khuyết tật” của nhau
‘Rút dây động rừng”.
Nếu sự cố kết trong nội bộ từng dòng họ rất bền chặt thì sự liên kết giữa các
cộng đồng huyết thống đó lại suy giảm rõ rệt. Đối với các công việc trong làng,
dòng họ không giữ vai trò đáng kể nào; trái lại, với sự cố kết về tâm lý huyết thống,
dòng họ nổi lên là một tổ chức chi phối đời sống cộng đồng, làm cho mỗi làng Việt
luôn xuất hiện và tồn tại các cặp họ đối lập: họ chính cư - ngụ cư ; họ đến trước đến sau; họ đông đinh - ít đinh; họ có học, khoa bảng - họ ít học, họ quyền thế bạch đinh; họ giàu - họ nghèo v. v…, làm cho đời sống xã hội làng xã nhiều khi
rất phức tạp, rối rắm, căng thẳng. Thời phong kiến ở nhiều làng xã thường diễn ra
những vụ kiện tập thể, hoặc tuyệt giao về hôn nhân giữa hai họ, kéo dài từ đời nọ
sang đời kia. Khá nhiều trường hợp, khi có chủ trương, chính sách của nhà nước về
đến làng xã, các dòng họ có thế lực, nắm các chức danh chủ chốt trong bộ máy
quyền lực đều dễ dàng “lái” việc thực hiện các chủ trương đó theo hướng có lợi cho
dòng họ mình; và đương nhiên, ảnh hưởng đến quyền lợi của các cộng đồng huyết
thống khác, gây khiếu kiện, làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có giữa các dòng
họ (1).
(

3


Chính vì thế, dưới thời phong kiến, Nhà nước đã thực thi các biện pháp để
ngăn chặn những tác động tiêu cực của quan hệ huyết thống. Để tránh hiện tượng
các dòng họ trong làng vây bè kết cánh, đưa người của họ mình vào nắm giữ chức
xã trưởng, vào các năm Hồng Đức thứ 19 và thứ 27 (1488 và 1496), Lê Thánh
Tông quy định những người là anh em ruột, anh em con chú con bác, con cô con
cậu, con dì con già và là thông gia với nhau không được cùng làm xã trưởng, nếu

gặp những trường hợp nhiều người có quan hệ anh em họ hàng, thông gia cùng làm
xã trưởng thì giữ lại một người đủ tiêu chuẩn nhất cho giữ chức, những người còn
lại phải về làm dân. Còn với các cơ quan nhà nước, cũng từ thời Vua Lê Thánh
Tông (1460 - 1497), triều đình đã áp dụng “Luật Hồi tỵ”, tức luật không cho phép
quan lại được về nhậm trị tại quê đẻ, quê mẹ, quê vợ; những người có quan hệ
huyết thống (và cả quan hệ hôn nhân, thầy trò, bạn bè…) cùng được làm việc tại
một công sở, nếu gặp những trường hợp đó thì phải điều chuyển họ đi các công sở
khác, nơi khác (trừ các cơ quan về thiên văn, y tế). Luật “Hồi tỵ” cũng áp dụng
trong thi cử, trong thanh tra. Nhờ có luật “Hồi tỵ” mà những tiêu cực của quan hệ
huyết thống được ngăn chặn.
Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, những yếu tố tiêu cực trên đây của
quan hệ huyết thống vẫn tồn tại, thậm chí, có lúc, có nơi được “phát huy” cao độ,
tạo ra những căng thẳng, phức tạp, gây khó khăn cho quản lý xã hội, như hiện
tượng kéo bè kéo cánh trong làng, nhất là trong việc đưa người vào nắm các chức
danh trong bộ máy quản lý hay những chức danh liên quan đến kinh tế, tạo ra các
“chi bộ dòng họ, chính quyền dòng họ”, từ đó, các họ đông người có thế lực luôn
tìm cách chèn ép các dòng họ khác để vun vén quyền lợi, nâng cao uy thế của dòng
họ mình. Còn trong các cơ quan nhà nước, không hiếm các hiện tượng “con ông
cháu cha” chiếm đầy các vị trí quan trọng, cả khi họ kém đức và không có tài, học
hành chắp vá, thậm chí không được đào tạo đúng chuyên môn.
2. Ảnh hưởng của truyền thống tự quản, dân chủ làng xã và tâm lý làng
Truyền thống tự quản của các cộng đồng buôn làng được nảy sinh từ các đặc
điểm kinh tế - xã hội của làng. Truyền thống đó giúp cho từng cộng đồng cư dân
chủ động trong tổ chức các công việc, giải quyết các vấn đề nảy sinh của cộng đồng
trên các mặt : khai hoang, sản xuất, bảo vệ an ninh, cứu tế tương trợ khi gặp thiên
tai, giặc giã; giúp cho làng gắn bó với nước trong công cuộc gìn làng giữ nước, mở
mang bờ cõi; làm cho làng xã trở thành cơ sở kinh tế - xã hội - văn hóa trọng yếu,
là địa bàn để bảo tồn văn hóa và sức sống của dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực là nổi bật, truyền thống tự quản cũng hàm
chức những mặt trái của nó.

4


Trước hết, nó tạo ra sự mất dân chủ, coi giá trị cộng đồng là trên hết, không
coi trọng, thậm chí tôn trọng tính cách và tài năng cá nhân. Thoát thai từ các công
xã nông thôn, nên làng người Việt và bản buôn của các tộc người thiểu số còn bảo
lưu nhiều nét dân chủ (trong chia ruộng đất công,….. ); song dần dần, với sự can
thiệp của nhà nước, với sự phát triển của tư hữu, của bản thân các thiết chế trong
guồng máy làng xã, những yếu tố dân chủ đó bị mất dần. Làng là đại diện duy nhất
cho tất cả các thành viên cộng đồng trong các mối quan hệ với các cộng đồng khác
và với chính quyền Nhà nước bên trên. Cá nhân sống trong làng không được công
nhận là chủ thể về các phương diện đó. Người nông dân thông qua cộng đồng làng
của mình mà tiếp nhận các chủ trương, chính sách pháp luật và thực hiện các nghĩa
vụ với Nhà nước, cũng như đề đạt các nguyện vọng của mình, ngay cả quyền được
tự do đi khiếu kiện(1). Mỗi cá nhân chỉ được coi là thành viên của làng, một “thần
dân” của nước, chứ không được coi là công dân có đủ các quyền lợi và nghĩa vụ
độc lập. Cho nên, cá nhân trong cộng đồng các buôn làng Việt Nam, cũng như
trong các xã hội nông nghiệp phương Đông, có hai điều khác biệt so với xã hội
phương Tây. Một là, cá nhân phải hòa vào cộng đồng, tài năng tính cách không
được coi trọng và tạo điều kiện để phát triển mà phải “đứng dưới” hay phải phục
tùng cộng đồng làng; mọi giá trị của cá nhân phải hướng vào giá trị của làng (“Xấu
đều hơn tốt lỏi”, “Khôn độc không bằng ngốc đàn”, “Chết cả đống còn hơn sống
một người” v.v.). Hai là, nếu ở phương Tây, con người được quyền thể hiện chính
kiến, tư tưởng của mình thì ở làng Việt, cá nhân phải “nương” theo cộng đồng hay
đứng dưới cộng đồng làng để thể hiện các chính kiến đó. Với kiểu quản lý chặt
bằng hệ thống các thiết chế, bằng hương ước - luật tục, bằng dư luận…, làng xã đã
tạo ra một thế hay áp lực của cộng đồng (bằng ràng buộc, bằng áp đặt nặng nề,
thậm chí bằng cả cưỡng chế) đối với cá nhân. Làng xã luôn giám sát các hành vi
của cá nhân đi ngược lại chính kiến và lợi ích của cộng đồng.Chính điều này làm
cho làng xã mất tính dân chủ, tước bỏ quyền được tự do chính kiến của cá nhân,

nhất là tầng lớp “bạch đinh”, “thấp cổ bé họng”; làm cho những tục lệ của làng xã
càng thêm tính xiết chặt, tính nghiệt ngã - nhiều khi đến vô lý, thậm chí thiếu nhân
văn mà người chịu hậu quả của sự giám sát, sự can thiệp và sự phán xét đó không
còn biết kêu vào đâu được. Nói một cách khác, làng xã không có đủ những cơ sở và
những quy chế để tạo điều kiện và đảm bảo dân chủ thật sự đối với cá nhân, với tư
cách là một công dân của một nước.
Từ giữa thế kỷ XV trở đi, khi nhà nước phong kiến đưa hệ thống “đẳng cấp”
vào làm cho quyền lực cộng đồng của công xã dần dần bị phân tán. Cơ quan quyền
(

5


lực công xã nằm trong tay những quan lại Nhà nước về hưu có bằng cấp, phẩm
hàm, chức tước, tạo ra sự “lấn quyền” của những người thuộc “đẳng cấp” trên
(thường là người của một hai dòng họ có “máu mặt”) trong làng và sự “nhường
quyền”, theo kiểu “im lặng là vàng” của số đông những người thuộc tầng lớp “bạch
đinh”, những dòng họ “thấp cổ bé họng”, làm cho quyền lực và trí tuệ tạp thể bị
phân tán và giảm sút.
Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, cho thấy, từ giữa thế kỷ XV trở đi,
thể chế dân chủ được hình thành từ công xã nông thôn của làng ở hầu hết các tộc
người đã mất dần, thay thế bằng thể chế tự trị - tự quản trong khuôn khổ của Nhà
nước chuyên chế, thiếu dân chủ hay như. Nhà Dân tộc học Trần Từ nhận xét, đó là
thứ dân chủ hình thức hay dân chủ theo “đẳng cấp” (1). Thực chất là sự mất dân
chủ nghiêm trọng hay không có dân chủ. Sau này, khi đặt được ách đô hộ lên đất
nước ta, thực dân Pháp đã lợi dụng ngay thiết chế làng xã (ở người Việt) và thiết
chế mường - bản với tất cả tính chuyên chế, không dân chủ của nó để dễ dàng
thống trị, đàn áp và bóc lột nhân dân các tộc người.
Tính dân chủ hình thức hay “dân chủ đẳng cấp” hoặc mất dân chủ (tùy mức độ
theo từng vùng) trên đây đã để lại những hậu quả nặng nề cho làng xã và cho người

nông dân, cũng như cho sự phát triển của đất nước. Nó làm cho tài năng cá nhân
không có điều kiện phát triển, từ đó, năng lực sáng tạo và trí tuệ của từng cộng
đồng không được phát huy, làm cho làng xã hàng nghìn năm dẫm chân trong một
thế “bùng nhùng”. Đặc biệt, tính tự trị - tự quản tương đối khép kín đã tạo ra sự lạm
quyền, dẫn đến “tha hoá quyền lực” của một số chức viên trong bộ máy quản lý
làng xã (chủ yếu là các chức dịch), biến họ thành cường hào - một tệ nạn xã hội hết
sức nặng nề và thường xuyên nhũng nhiễu đời sống người nông dân trong làng xã
xưa kia. Họ câu kết với những địa chủ gian ác nhất, dùng lệ làng, dùng các thiết chế
tổ chức, cả các quan hệ huyết thống và sức ép dư luận để khống chế và áp bức nông
dân, làm cho sự chuyên chế, mất dân chủ ngày một trầm trọng hơn(1).
Cùng với thể chế tự quản, tâm lý làng cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc
quản lý xã hội và sự phát triển của làng xã. Tâm lý làng được nảy sinh từ một loạt
yếu tố : địa vực, lịch sử hình thành làng, kinh tế, xã hội, văn hóa, tín ngưỡng. Tâm
lý làng thể hiện ở hai điểm cơ bản sau :
- Ý thức cao về cộng đồng làng mình, khẳng định, đề cao (đôi khi quá mức)
những mặt tốt, tích cực của làng, song lại dễ “bỏ quên” những mặt trái, mặt “xấu”
của làng; nghi ngờ, thậm chí phủ nhận các giá trị của làng khác.
- Ý thức cao về trách nhiệm phải bảo vệ, đấu tranh để giành lại quyền lợi của
cộng đồng làng mình trước các cộng đồng khác và trước cả nhà nước.
Hai điểm trên đây là một trong những cơ sở quan trọng làm hình thành tư
tưởng cục bộ địa phương, làm cho các thành viên của mỗi cộng đồng làng chỉ quan
tâm, lo vun vén đến quyền lợi của làng mình mà không quan tâm đến quyền lợi của
(
(

6


các cộng đồng khác; thậm chí, có khi, cả người dân bình thường đến các chức dịch,
cả quan chức cao cấp đương nhiệm cũng sẵn sàng đồng lòng trong việc bảo vệ

quyền lợi của đồng mình (1). Trong thời bình dưới thời phong kiến, mọi chủ trương,
chính sách của nhà nước muốn vào được làng phải chịu một sự “khúc xạ”, để phù
hợp với lợi ích của làng, nếu không, có thể bị phản ứng, chống trả. Để giảm bớt
những tác động tiêu cực của tâm lý làng, tư tưởng cục bộ làng xã này, dưới thời
phong kiến, nhà nước chủ trương thiết lập các xã có quy mô một làng là chính
(chiếm khoảng trên 75 %), chỉ có 25 % số xã có quy mô 2 - 3 làng, song số xã
‘Nhất xã nhị thôn, tam thôn” này vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX từng diễn ra
cả một “phong trào” chạy biệt xã” (tách ra thành các xã độc lập), cả những làng có
dân số ít (2).
Tư tưởng cục bộ làng xã được duy trì lâu bền suốt quá trình lịch sử đất nước,
từ thời phong kiến, qua thời thực dân nửa phong kiến và được đẩy lên mức cao
hơn, khi Nhà nước ta thiết lập các xã với quy mô nhiều làng, thậm chí có nơi các xã
gồm các làng thuộc các tổng, huyện khác nhau dưới đó thời phong kiến, có phong
tục, tập quán, tâm lý, tính cách khác nhau, vì thuộc các “vi tiểu vùng văn hóa” khác
nhau, từ đó nảy sinh rất nhiều bất cập cho công tác quản lý kinh tế - xã hội. Hiện
tượng các làng tranh giành nhau lúc âm thầm, khi gay gắt trên đủ các mặt : từ gọi
tên xã bằng tên của làng nào trước, đặt trụ sở xã tại địa phận làng nào, đến việc cử
người vào nắm giữ các chức danh chủ chốt của hệ thống chính trị, trong việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư sản xuất, trong thực hiện các chủ trương, chính sách….
diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương. Rất nhiều nơi, các làng nhỏ bị cán bộ các làng
lớn chèn ép, khiến cho hàng mấy chục năm trời không thể có được một cán bộ “kha
khá” trong Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Còn trong các cơ
quan nhà nước, không hiếm hiện tượng người có chức có quyền tìm mọi cách để lôi
kéo, nâng đỡ không chỉ người cùng họ hàng, mà còn cả người cùng quê (cùng làng,
cùng xã, cùng huyện), vào các cương vị khác nhau, trong khi trên thực tế, họ không
có đức, không thực tài, thậm chí vị trí được nâng đỡ không đúng với chuyên môn
được đào tạo.
Những bất cập của tư tưởng cục bộ làng xã trên đây đặt ra cho Nhà nước cần
thận trọng trong việc thiết lập các đơn vị hành chính các cấp, nhất là cấp xã cho
phù hợp; đặc biệt xem xét lại để chia tách một số xã được “lắp ghép” không hợp lý

trước đây, khi ngày nay, quy mô dân số của các làng cùng như các xã đã bằng hai ba lần so với trước Cách mạng Tháng Tám 1945 và tình hình kinh tế -xã hội nông
thôn cũng như cả nước đã và đang thay đổi sâu sắc .
3. Con người Việt Nam truyền thống - những mặt trái ảnh hưởng đến
quản lý xã hội và phát triển
Con người ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng là sản phẩm của các điều kiện
chính trị - kinh tế - xã hội; song ngược lại, con người với tư cách là chủ thể, lại có
(
(

7


tác động trở lại tới sự phát triển. Mỗi tộc người trong quá trình lịch sử đã hình
thành nên những tố chất, những đức tính, những tính cách riêng. tùy các điều kiện
chính trị - kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử mà những tố chất, đức tính, tính
cách trên đây có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển của tộc
người, của đất nước.
Qua hàng nghìn năm lịch sử, dưới các thể chế kinh tế - xã hội khác nhau, các
tộc người trên đất nước ta đã hình thành những tố chất, những đức tính, những tính
cách riêng. Có nhiều tố chất, tính cách, truyền thống tốt đẹp, từng là “điểm tựa”, là
nội lực để mỗi tộc người vượt qua được những khó khăn để đi lên, cùng các tộc
khác đưa đất nước Việt Nam từng bước phát triển. Tuy nhiên, cũng có nhiều tính
cách trở thành những mặt trái, những tính xấu, ảnh hưởng đến vịêc quản lý và phát
triển xã hội. Dưới đây, chúng tôi đưa ra một số mặt trái, trong đó có mặt đã trở
thành những tính xấu, ảnh hưởng đến việc quản lý xã hội và với sự phát triển của
đất nước hiện nay
1. Tính cộng đồng, bình quân chủ nghĩa : tính này có mặt tích cực là giúp các
cộng đồng cư dân tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong điều kiện một nền kinh tế phát
triển thấp, nhất là những khi gặp thiên tai, giặc giã; nhưng lại không coi trọng tính
các, tài năng cá nhân; làm cho tài năng không được khuyến khích phát triển, thậm

chí, có khi, người có năng lực, tài năng bị ghen ghét, có thể bị trù úm, khômg có
điều kiẹn phát triển. Như vậy, nếu năng lực, tài năng của nhiều cá nhân bị “triệt
tiêu” sẽ làm chậm sự phát triển của đất nước.
Tính cộng đồng còn làm cho con người sợ, thiếu dũng khí cá nhân trước các
hiện tượng tiêu cực của xã hội, sợ trách nhiệm cá nhân trước một sự cố xảy ra
trong công việc tập thể, tìm cách “đổ vấy” cho người khác, cho khách quan và cho
cộng đồng; từ đó, xử lý các tiêu cực qua loa, xuề xòa, không tìm ra được nguyên
nhân đích thực của vụ việc
2. Đố kỵ tiểu nông, ghen ghét với người khác hơn mình (níu kéo) : đố kỵ
(không muốn người khác bằng mình và hơn mình; khi thấy có người bằng, hơn
mình thì ghen ghét) là một trong những hạn chế, có thể coi là tính xấu của con
người, thuộc mọi thành phần kinh tế- xã hội ở trong các xã hội có giai cấp. Tuy
nhiên, với người Việt, tính đố kỵ là hạn chế căn bản nhất, tính xấu lớn nhất vì là
đố kỵ tiểu nông, được nảy sinh trên cơ sở kinh tế thấp kém, dựa trên nền tư hữu
nhỏ, manh mún và phân tán, trong lòng một xã hội làng xã luôn tồn tại mâu thuẫn
ngầm giữa các phe phái, lại chịu tác động của một cơ chế xã hội mang tính “đẳng
cấp” do nhà nước phong kiến áp đặt. Tính chất “cá đối bằng đầu” giữa những con
người sản xuất nhỏ, sở hữu nhỏ, giữa các phe phái ngầm làm cho người Việt
“không chịu nhau”, đối xử với nhau theo phương cách “Bằng mặt nhưng không
bằng lòng”, bề ngoài thì xởi lởi, vui vẻ với nhau, nhưng bên trong thì tìm cách để
làm giảm uy tín và sự đi lên của “đối thủ”. Điểm khác biệt lớn nhất của đố kỵ tiểu
nông với đố kỵ đại công nghiệp hay đại thương nghiệp là cách giải quyết sự chênh
lệch, hơn kém nhau, hay phương cách vượt lên “đối thủ”. Nếu cư dân đại công
8


nghiệp, hay đại thương nghiệp “đánh sập” đối thủ bằng các quy luật cạnh tranh (tìm
mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm so với đối
thủ) thì người sản xuất tiểu nông lại giải quyết sự đố kỵ không theo quy luật đó, mà
bằng các biện pháp nói xấu, cố tình phủ nhận năng lực của người khác, nhiều khi

bằng những hành vi phi đạo đức, vi phạm pháp luật.
3. Ham muốn quyền lực và dễ tha hóa quyền lực : xã hội truyền thống của các
tộc người ở Việt Nam có nền kinh tế phát triển thấp, phân hóa không triệt để;
không có tầng lớp nào khống chế được xã hội bằng thế lực kinh tế, mà phải từ vị
thế xã hội để mưu tính sự khá giả về kinh tế. Cùng với nền kinh tế này, xã hội Việt
Nam lại dựa trên hệ tư tưởng Nho giáo, đề cao kẻ sĩ, đề cao vua quan được coi là
“quân tử”. Gắn với hệ tư tưởng này, về phương diện Nhà nước là một hệ thống
quan lại theo chế độ “đẳng cấp” với những quyền lợi về vật chất và tinh thần khác
nhau rất rõ nét. Sự thành đạt của con người Việt Nam trong xã hội truyền thống
được đánh giá chủ yếu thông qua hệ thống quan chức này (cùng với hệ thống ngôi
thứ đình trung ở làng xã), chứ không phải bằng năng lực chuyên môn, nhất là năng
lực làm kinh tế. Vì thế, con người Việt Nam thường hướng vào các giá trị quyền
lực, tìm cách để đứng vào hệ thống quyền lực mà không chú trọng đi bằng con
đường chuyên môn; và khi đã có một vị thế trong hệ thống quyền lực thì tìm cáhc
“ở yên, giữ lâu” vị trí đó. Tâm lý này cùng với tâm lý đố kỵ tiểu nông, tâm lý cục
bộ làng xã gây ra nhiều tiêu cực, như gây bè kéo cánh để chạy chức chạy quyền,
giữ chức quyền, hạ bệ nhau …
Đặc điểm nổi bật của hệ thống hành chính và quan chức Việt Nam thời
phong kiến là tính quan liêu, chuyên chế, không có sự phân bịêt rạch ròi giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, không có các cơ quan dân cử tạo thành bộ
phận đối trọng để kiểm tra, giám sát độc lập với chính quyền; pháp luật thiếu đồng
bộ, không trực tiếp đến vớí người dân. Đây là kẽ hở cho sự tha hoá quyền lực, với
các biểu hiện : lợi dụng chức quyền để tư túi (tham ô), vòi vĩnh và ức hiếp nhân
dân, bè cánh để chèn ép làm hại đồng liêu. Càng ở nơi xa trung ương, triều đình,
các hiện tượng trên càng phổ biến và trầm trọng; thậm chí có khi xảy ra cả ở nơi
cạnh triều đình. Đây là hiện tượng “nhờn luật’ của quan chức.
Những biểu hiện trên đây vẫn diễn ra trong xã hội ngày nay.
4. Bè cánh, cục bộ : mặt trái này được hình thành trên cơ sở tâm lý làng, với
các biểu hiện, tác hại như đã trình bày ở trên và vẫn tiếp diễn trong xã hội ngày
nay.

5. Tùy tiện, dễ làm bừa, làm càn, dễ vi phạm pháp luật do những nhân tố
sau :
- Cơ sở kinh tế của các tộc người đều là nông nghiệp, làm ăn theo mùa vụ,
yếu tố “thì” (cấy, gieo hạt, thu hoạch đều phải đúng hạn, trong điều kiện khí hậu
thay đổi thất thường, sản xuất dựa vào lao động thủ công và kỹ thuật cơ bắp); nên
nhiều khi phải giải quyết tình thế, hay giải quyết lấy được, do vậy, người nông dân
dễ tùy tiện, phá rào, vượt các nguyên tắc thường lệ và nguyên tắc chung.
9


- Với nền kinh tế tự cấp tự túc, cộng đồng buôn làng cổ truyền là nơi sinh
sống truyền đời của các thế hệ người nông dân các tộc người. Các cộng đồng đó
được quản lý chủ yếu bằng phong tục, luật tục (với các tộc người thiểu số, nhất là
vơứi các tộc người ở Tây Nguyên thì pháp luật hoàn toàn vắng bóng), bằng lệ làng
và hương ước (với người Việt, pháp luật chỉ can thiệp khi làng xã không giải quyết
được). Các tầng lớp cư dân của các tộc người đều không được trực tiếp tiếp xúc
với các văn bản pháp luật mà chỉ được biết luật thông qua những giảng giải của các
chức dịch trong các kỳ hội làng hay những dịp đầu năm,.
Đây là những nhân tố chính yếu làm cho người Việt Nam chỉ biết, chỉ quen
sống với lệ làng, với luật tụ, coi lệ làng là giá trị cao hơn (“Phép vua thua lệ
làng”); không biết, không hiểu và không quen sống với luật pháp (hiện tượng mù
lụât), dễ vi phạm pháp luật với những biểu hiện từ những biểu hiện nhỏ nhất là
thiếu ý thức nơi công cộng, vi phạm luật giao thông; đến những biểu hiện lớn và
trầm trọng hơn. Mặt trái này đang hàng ngày hàng giờ tác động xấu đến sự bình ôn
của xã hội, đến vịêc quản lý xã hội và sự phát triển của đất nước.
Cần nhận rõ những đặc điểm, những mặt trái này, tham khảo kinh nghiệm
của cha ông để có có hướng xử lý hiệu quả.

10



Câu 2: Nhân tố kinh tế và nhân tố con người liên quan đến kinh tế của
nông thôn truyền thống đối với kinh tế và quản lý kinh tế trong điều kiện hiện
nay ở nước ta?
Trả lời
I- Điều kiện lịch sử
Làng Việt hình thành sớm, bắt đầu từ trung du và châu thổ Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ, gắn liền với công cuộc dựng nước đi kèm với giữ nước từ thuở các Vua
Hùng. Dựng nước phải đối phó với thiên tai (bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, dịch bệnh).
Sau đó, lãnh thổ người Việt được mở rộng vào Nam, mô hình làng Việt từ
Bắc Bộ được dịch chuyển vào Nam, tiếp thu các yếu tố của Chàm, Khơ - me nên
bên cạnh những nét chung, làng các vùng Trung Bộ (Bắc - Trung - Nam) và Nam
Bộ có nhiều nét khác biệt qua biểu so sánh dưới.
Bắc Bộ
Nam Bộ
Hình thành do khai phá cộng đồng (hoặc Hình thành do lưu dân khai phá với sự
do tập thể cư dân, hoặc do Nhà nước, tổ chức của các địa chủ, của Nhà nước
quan lại đứng ra tổ chức
Hình thành sớm, trước khi Nhà nước Hình thành muộn, do công cuộc mở
thiết lập các đơn vị hành chính (năm mang đất đai của các chúa Nguyễn,
722), có tính tự quản cao, hành chính tính hành chính nặng hơn tính tự quản
phải “nương” theo tự quản.
Tính cố kết chặt, quan hệ địa vực nặng Lỏng lẻo, quan hệ chính cư - ngụ cư
nề (chính cư - ngụ cư), có hương ước
không rõ nét, không có hương ước
Kinh tế tự cấp tự túc, khép kín
Kinh tế hàng hóa, mở
Phân cực giai cấp xã hội thấp, “đẳng Phân cực giai cấp rõ ràng, triệt để
cấp” nổi trội
Nhân tố kinh tế và nhân tố con người liên quan đến kinh tế của nông thôn

truyền thống đối với kinh tế và quản lý kinh tế trong điều kiện hiện nay ở nước
ta
1. Cơ sở kinh tế
1. 1. Nông nghiệp
Là nền nông nghiệp ruộng nước, mang các đặc điểm :
Được thực hiện trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiều yếu tố
bất thường xảy ra, nên yếu tố “thì” (thời vụ rất quan trọng, mỗi năm có 24 tiết, mỗi
tiết ứng với một công đoạn của sản xuất nông nghiệp, buộc phải tuân thủ; nếu
không sẽ ảnh hưởng tới năng suất của mùa vụ).
CÁC TIẾT VÀ LỊCH TRèNH LÀM RUỘNG CỦA NGƯỜI VIỆT
11


Tháng Ngày Tiết
(DL)
1
7
Tiểu hàn
22 Đại hàn
2

3
4

6

Lập Xuân

20
6

20
6

Vũ thủy
Kinh trập
Xuân phân
Thanh
minh
Cốc vũ
Lập Hạ
Tiểu mãn
(Duối
vàng)
Mang
chủng

5

21
5
21

6

6

22

Hạ chí


7

Tiểu thử

21

Đại thử

8

7
23

Lập Thu
Xử thử

9

8
22

10

8

Bạch lộ
Thu phân
(Giữa thu)
Hàn lộ


7

23
11

7

Sương
giáng
Lập Đông

Đặc điểm của thời Công việc
tiết
trồng trọt phải bảo đảm
Giá rét
Cấy chiêm
Rất rét
Cấy chiêm xong trước tiết
Lập xuân
Mở đầu mùa xuân
Nghỉ ngơi đón Tết
Ấm áp,
Làm cỏ lúa
Ẩm ướt
Làm cỏ lúa
Sâu nở
Làm cỏ lúa
Giữa mùa Xuân
Trong sáng
Mưa rào

Cày vỡ ruộng
Mở đầu mù-a Hạ
Có cơn lũ đầu tiên để Gặt chiêm,
cày, bừa ải cho ruộng
Sao Tua rua mọc

Gặt xong lúa chiêm,
Gieo mạ mùa

Giữa mùa Hạ, mặt Làm đất cấy mùa
trời đi vào chuẩn quỹ
đạo
Nóng oi, bức, thường Cấy mùa
có gió Lào khô
Rất nóng
Cấy mùa
(xong trước tiết Lập Thu)
Mở đầu mùa Thu
Hoàn thành cấy mùa
Mưa nhiều
(mưa Làm cỏ lúa
ngâu)
Nắng nhạt, trời mát
Trời trong sáng
Chăm sóc lúa
(Rằm tháng Tám ÂL)
Mát mẻ
Bắt đầu làm đất cho vụ
chiêm, gieo mạ chiêm
Sương xuống,

Gặt lúa sơm (lúa Ba
chớm lạnh
giăng)
Mở đầu mùa Đông
Gặt mùa
12


22

Tiểu tuyết

Hanh khô

Làm đất cho vụ chiêm
Gặt xong lúa mùa,
đón Tết 10/ Mười
12
7
Đại tuyết
Rất hanh khô
Cấy chiêm
22 Đông chí
Giữa mùa Đông
Cấy chiêm
- Được thực hiện trong điều kiện lao động thủ công, kỹ thuật cơ bắp, làm ăn
dựa theo tư duy kinh nghiệm, không có khoa học kỹ thuật hỗ trợ; lại
- Phụ thuộc nặng nề vào thiên nhiên (ơn trời mữa nắng phải thì), năng suất
thấp và bấp bênh, thường theo quy luật có tính chu kỳ : năm tạm được mùa, năm
bình thường và năm mất mùa. Theo thống kê trong chính sử, từ 1010 - 1858, có

106 năm bị lụt, 84 năm bị hạn, 13 năm bị sâu bệnh nặng, 29 năm bị động đất, 19
năm bị dịch bệnh, 69 năm mất mùa lớn dẫn đến đói to, chỉ có 21 năm được mùa.
Trước năm 1989, an ninh lương thực không đảm bảo, người nông dân luôn phảI đối
phó với miếng cơm manh áo thường ngày; đời sống vật chất rất thấp.
1. 2.. Thủ công nghiệp: là một bộ phận không tách rời của nông nghiệp, số
làng nghề (thủ công chuyên nghiệp) rất ít và cũng mang những đặc điểm của sản
xuất nông nghiệp, nên không hình thành các công trường thủ công để tiến lên sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
1. 3. Thương nghiệp: chủ yếu là nội thương với hệ thống chợ quê (chợ làng,
họp theo phiên) và luồng buôn bán tiểu thương. Ngoại thương nằm trong tay Nhà
nước và không phát triển do:
- Biển Việt Nam xa đường hành thương quốc tế, không hình thành các cảng
biển thuận lợi cho buôn bán (một số tỉnh miền Trung có nhưng là những vũng, vịnh
nhỏ hẹp).
- Người Việt không có kỹ thuật vượt biển (thuyền nhỏ, thuyền dọc);
- Nhà nước phong kiến ức chế do yêu cầu phòng thủ đất nước (đường biển là
một trong hai mũi tấn công của ngoại xâm Trung Quốc, phải ngăn chặn từ bên
ngoài và không cho người Việt Nam đi buôn bán ở nước ngoài, nếu vi phạm bị xử
rất nặng.
Do vậy, không hình thành các trung tâm thương nghiệp lớn, không có sức
công phá nền kinh tế- xã hội truyền thống. Có thể ví kinh tế trồng trọt của người
Việt như một cây cổ thụ tỏa bóng rợp che hết ánh sáng của các cây - ngành khác,
làm cho các cây ngành này chỉ là những cây leo bám quanh cây cổ thụ, cố kết rất
vững bền nhưng lại vươn lên rất chậm chạp.
Nhìn nhận chung về kinh tế của người Việt (những yếu tố ảnh hưởng đến
tâm tính, tính cách và sự phát triển):
13


Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng đến tác phong, tính

cách người Việt :
+ Giờ giấc làm việc thất thường (lúc mùa vụ thì căng thẳng khẩn trương; thời
nông nhàn thì bình thản), kỷ luật lao động kém, tùy tiện).
+ Giải quyết lấy được (làm liều, làm càn).
+ Giải quyết tình thế, lấy cái lợi trước mắt làm đầu, không chú ý đến mối lợi
lâu dài nên làm ăn chụp giựt; lấy sự tiện lợi cho mình làm trọng, không tính đến
quyền lợi của người khác (vụ lợi, tính ích kỷ, thiếu tính cộng đồng).

Ảnh hưởng tới kết cấu kinh tế :
- Không hình thành nền nông nghiệp chuyên canh, theo lối sản xuất hàng
hóa, sản xuất bằng máy móc vốn là đặc trưng và yêu cầu của nền nông nghiệp trong
điều kiện công nghiệp hóa
- Làm ăn theo kinh nghiệm và gia truyền, mang tính bảo thủ cao, đối lập với
tư duy khoa học của nền nông nghịêp - công nghiệp hóa
- Tư duy kinh tế hạn hẹp, manh mún, lấy an ninh lương thực (chủ yếu là thóc
gạo) là tiêu chí của sự ổn định kinh tế; làm giàu theo lối “tích tiểu thành đại”; tích
vàng để phòng thân là chính chứ không phải để tích lũy vốn phát triển sản xuất.
- Thủ công nghiệp cũng làm ăn theo kinh nghiệm và gia truyền, nên người
thợ bảo thủ, không có sự đột biến về kỹ thuật, độc quyền nên làm dối, làm ẩu.
- Bình quân sở hữu ruộng đất thấp, lại phân tán manh mún, không tạo điều
kiện để tích tụ ruộng đất phục vụ cho sản xuất chuyên canh.
- Thương nghiệp : tiểu thương làm ăn chụp giựt, lấy mối lợi trước mắt làm
trọng, không đảm nhiệm được vai trò điều tiết sản xuất và tiêu dùng có hiệu quả.
2. Cơ sở xã hội (nhân tố con người)
2. 1. Một thiết chế tự quản với nhiều tổ chức : xóm ngõ, dòng họ, phe giáp,
phường hội và kỳ mục, chức dịch, lấy hương ước làm cơ sở quản lý chính.
a. Gia đình
Gia đình là một tập hợp của những người có quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống, gắn bó với nhau bằng các quan hệ tình cảm và trách nhiệm, nuôi dưỡng và giáo
dục.

Gia đình người Việt chủ yếu là tiểu gia đình phụ quyền, gồm 2 thế hệ (bộ mẹ
- con cái), một số trường hợp có 3 thế hệ (ông bà), số ít bốn thế hệ (Tứ đại đồng
đường).
Gia đình là một đơn vị xã hội cơ bản, đảm nhận các chức năng :
14


- Đơn vị tổ chức sản xuất, kinh tế tự chủ
- Tái sản xuất sức lao động,
- Duy trì nòi giống và thờ cúng tổ tiên,
- Đơn vị giáo dục
- Trao truyền văn hóa
- Điều hòa tình cảm.
Do dựa trên cơ sở kinh tế là nền nông nghiệp ruộng nước và chịu ảnh sâu sắc của
Nho giáo, gia đình người Việt mang tính gia trưởng cao (đề cao vai trò của người
chồng, người cha); song vẫn tôn trọng vai trò của người phụ nữ (người vợ) với vai trò
"nội tướng", "tay hòm chìa khóa" (Của chồng công vợ), đề cao sự hòa hợp vợ chồng
(Chồng là cái giỏ, vợ là cái hom; Thuận vợ thuận chồng, biển Đông tát cạn).
b. Dòng họ
Phân biệt các khái niệm :
Dòng họ (Tộc) là tập hợp của những thành viên có cùng một tổ tiên (hay dòng
máu hay huyết thống; trong chế độ phụ hệ được biểu tượng bằng một ông tổ
(thủy tổ, khởi tổ, triệu tổ v. v..), gắn kết các cá nhân với nhau, chịu sự ràng buộc
theo một quy tắc nhất định; chi phối mạnh mẽ quan hệ hôn nhân và gia đình.
Tính (.........) : cũng là một họ (Bách tính = trăm họ). Xã hội cổ đại theo họ mẹ,
nên chữ “Tính” gồm bộ Nữ và bộ Sinh.
Thị (.......... ): một tông tộc, hay một họ. Xa xưa, Thị là phân chi của Tính, đời
Hán - Nguỵ, Tính và Thị hợp làm một. Nữ giới thời cổ đại gọi là “Thị”.
Những trường hợp cùng tên họ nhưng khác huyết thống vốn có hoặc do đổi
họ vì các nguyên nhân:

- Vì kỵ húy (họ Hoa thành họ Văn, họ Hồng thành họ Cung)
- Được vua cho đổi họ theo họ vua; hoặc theo họ khác (họ Phí đổi thành họ
Bùi vào thời Trần)
- Vì bị truy nã, loạn lạc (họ Mạc đổi thành họ Lều, Bùi)
- Dân ngụ cư phải làm con nuôi một người có thế lực để không bị chèn ép,
nhanh được trở thành dân chính cư.
Dòng họ được tổ chức theo hai nguyên lý :
- Nguyên lý trưởng đích (chi trưởng, ngành trưởng được tôn trọng (xanh đầu
con nhà bác, bạc đầu con nhà chú).
- Nguyên tắc cửu tộc (chín đời, gồm 4 đời trên và 4 đời dưới của một cá
nhân), quan hệ với nghau theo nguyên tắc “Họ chín đời hơn người dưng” (“Cửu đại
hơn ngoại nhân”).
15


Trưởng tộc và các chi trưởng cùng các bậc cao tuổi trong họ quyết định các
công việc trong họ.
Duy trì các mối quan hệ huyết thống trên tinh thần “giọt máu đào hơn ao
nước lã”, “họ chín đời hơn người dưng” là gia phả (sổ ghi chép về lai lịch từng
người của các đời thuộc các chi họ để nhận biết nhau và ứng xử với nhau), nhà thờ
họ, ruộng họ, quỹ họ và ngày giỗ họ.
Họ của người Việt từ lâu đã không còn là một đơn vị sản xuất, đơn vị kinh tế
mà đã phân thành các gia đình nhỏ (tiểu gia đình phụ quyền) với thân phận kinh tếxã hội riêng (“anh em kiến giải nhất phận”). Song họ tồn tại như một sức mạnh tâm
lý.
Đối với các công việc trong làng, họ không đóng một vai trò nào cả, song với
sự cố kết về tâm lý huyết thống, dòng họ nổi lên là một tổ chức chi phối đời sống
cộng đồng khi trong làng có các cặp họ đối lập : chính cư - ngụ cư; giàu - nghèo;
đông đinh - ít đinh; có học - ít học v. v. Sự cố kết trong nội bộ dòng họ rất lớn thì
sự liên kết giữa các dòng họ lại suy giảm. Vì thế, năm 1921, người Pháp lấy dòng
họ để tổ chức lại bộ máy làng xã song đã thất bại do đánh giá sai về dòng họ.

c.. Xóm
Là một phân thể của làng gòm những gia đình có quan hệ láng giềng kết hợp
với quan hệ huyết thống. Người nông dân ứng xử với nhau theo nguyên tắc “Bán
anh em xa mua láng giềng gần”.
Xóm là một cộng đồng về tín ngưỡng - phong tục ở dưới cấp làng qua việc
thờ thần thổ địa ở điếm xóm (cúng vào hè, ra hè) và qua tục đặt hậu xóm (thường là
những phụ nữ không con hoặc không chồng con đặt hậu).
Trên bình diện việc làng, xóm chỉ có một chức năng duy nhất là tổ chức các
đội tuần phiên để bảo vệ an ninh. Làm phiên (hay ra phiên) là nghĩa vụ bắt buộc
của nam giới từ 18 - 49 tuổi. Họ phải canh gác “nội hương ấp, ngoại đồng điền”,
được hưởng lúa sương túc theo đầu sào ruộng (mỗi sào 1 lượm).
d. Giáp
Thiết chế của nam giới (đinh nam hay trai đinh) từ bé trai mới sinh đến cụ
ông cao tuổi nhất trong làng. Mỗi giáp gồm nam giới của một số gia đình thuộc
nhiều dòng họ. Nhiều trường hợp, giáp phân theo địa vực (Giáp Nhất, Giáp Nhị ở
Thịnh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội). Song một số ít làng không có giáp (làng Kim Sơn,
Gia Lâm, Hà Nội); hoặc theo dòng họ.
Giáp được tổ chức theo nguyên lý lớp tuổi:
16


- Mỗi giáp gồm một số mâm (hay bàn), mồi bàn gồm 4 (hay 5, 6 người) cùng
một độ tuổi,
- Cùng độ tuổi thì bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ,
- Tuổi tác là nguyên tắc, điều kiện để tiến thân xã hội trong lòng giáp: mỗi
năm , mỗi người được chuyển lên mâm cao hơn, theo trình tự : ti ấu - đinh (giai
đinh, giai rốt), lềnh - lão.
Điều hành giáp là trưởng giáp (thôn trưởng, lềnh trưởng hoặc lềnh nhất)
cùng 3 hoặc 4 mâm lềnh (trước tuổi lên lão.)
Với nguyên lý lớp tuổi, giáp đã tạo ra một ảo giác về một xã hội bình đẳng,

dân chủ, do vậy giáp là thiết chế được Nhà nước phong kiến lợi dụng lấy làm đơn
vị tổ chức thực hiện các công việc trong làng:
- Đơn vị quản lý nhân đinh,
- Đơn vị phân cấp và quản lý công điền
- Đơn vị thực hiện biện lễ và phục vụ tế lễ thờ thần hàng năm (mỗi năm có
một giáp đăng cai, chịu trách nhiệm chính trong việc phục vụ thờ thần)
- Đơn vị phân bổ các đóng góp xây dựng các công trình trong làng
- Đơn vị cắt cử tuần phiên, trông coi thuỷ lợi
- Đơn vị thu thuế.
Giáp là tổ chức năng động nhất, một mắt xích quan trọng nhất trong cơ cấu
tổ chức tổ chức làng xã.
e. Bộ máy quản lý làng - xã gồm 2 thiết chế :
+ Hội đồng kỳ mục : gồm các thành viên là quan lại, sĩ quan quân đội đã về
hưu, các chánh phó tổng mãn nhiệm và đương chức, các cựu lý phó trưởng. Một số
làng, các quan lại đương chức, nhất là quan triều đình (triều quan) vẫn nắm quyền
điều hành làng xã (làng Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội). Đứng đầu hội đồng là
Tiên chỉ và 1 thứ chỉ là những người có phẩm hàm, hoặc chức tước hoặc học vị cao
nhất ở từng thời điểm.
HĐKM là cơ quan có toàn quyền với các công việc trong làng : chia và đấu
thầu ruộng đất công, bán ngôi thứ, sửa chữa tu bổ đình chùa, mở hội, đối ngoại
(giao hiếu) …
Năm 1921, thực dân Pháp tiến hành cuộc “Cải lương hương chính”, xoá bỏ
HĐKM, thay thế bằng Hội đồng tộc biểu (HĐTB), bao gồm các đại biểu của các
dòng họ trong làng, mỗi họ được cử một số đại biểu, tùy theo số suất đinh trong họ.
Tộc biểu là người từ 25 tuổi trở lên, biết chữ, có gia sản, không can phạm. HĐTB
bầu ra hội đồng hương chính, gồm Chánh hội, phó hội, thư ký và các tay chân giúp
17


việc. Song cuộc cải cách này thất bại nên năm 1927, thực dân Pháp phải lập Hội

đồng kỳ hào, đến năm 1941, lại xoá bỏ HĐTB, chỉ còn HĐKM.
+ Bộ máy chức dịch : là đại diện của Nhà nước phong kiến ở xã, có trách
nhiệm giữ gìn an ninh, thu thuế, điều động binh dịch. Đứng đầu bộ máy này thời
Trần là các xã quan (quan lại Nhà nước cử về), đến 1466, bỏ xã quan, cử xã trưởng
(3- 5 người, do làng bàu từ người trong làng, song không được là người có quan hệ
an hem ruột, cha con, chúa cháu, bác cháu ruột, người có quan hệ thông gia), năm
1828 chỉ còn 1 người gọi là lý trưởng và 1 - 2 phó lý tuỳ theo số suất đinh nam và
tùy số thôn hợp thành. Ngoài ra, còn có các tay chân giúp việc như : hộ lại (phụ
trách giấy tờ hộ tịch, hộ khẩu), chưởng bạ (phụ trách giấy tờ về ruộng đất), thủ quỹ,
trương tuần (khán thủ, hương trưởng).
f. Các phường hội, gồm nhiều loại, theo mục đích tập hợp:
- Các phường, hội, họ vì mục đích tương trợ (phường gạo, thóc, tiền …),
- Các phường hội vì mục đích sản xuất, kinh doanh của người làm nghề thủ
công, làm nghề buôn,
- Các phường hội vì mục đích tín ngưỡng : hội tư văn, hội chư bà …
Trong các hội này, hội tư văn có vị trí quan trọng trong làng xã : là tổ chức
truyền bá, bảo vệ tư tưởng Nho giáo, bảo vệ địa vị kẻ sĩ; chịu trách nhiệm tế lễ
trong các lễ tiết, kỳ hội.
Hệ thống các thiết chế cùng các quan hệ xã hội được vận hành nhờ hương
ước. Hương ước vốn là các phong tục, lệ tục hay các quy định của làng được tuân
thủ thành lệ tục được văn bản hóa (giữa thế kỷ XV). Hương ước qua ba giai đoạn
phát triển :
+ Hương ước cổ (từ thế kỷ XV – tháng 8/ 1921): viết bằng chữ Hán, do các
làng tự soạn thảo, đa dạng về tên gọi, nội dung, phụ thuộc vào đặc điểm các mặt
của từng làng. Nhìn chung gồm các điều khoản liên quan đến các mặt sau :
- Cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội,
- Bảo vệ an ninh
- Khuyến học, cứu tế, tương trợ
- Tổ chức thờ cúng, hội,
- Bảo đảm các nghĩa vụ với nhà nước

Gắn với các quy định thưởng (chủ yếu trong bảo vệ an ninh : ban ngôi thứ,
miễn phu phen tạp dịch, ghi công, trợ cấp thương tật, tuất); phạt (đánh đòn, tiền,
bắt bồi thường thiệt hại, hạ ngôi thứ, tẩy chay sinh hoạt, tẩy chay đám tang, đuổi
khỏi làng).
18


+ Hương ước cải lương : soạn theo mẫu hương ước cải lương hương chính
của thực dân Pháp. Mỗi bản hương ước gồm hai phần : Chính trị (tổ choc hội đồng
tộc biểu, bộ máy chức dịch, thu chi, bảo vệ an ninh ...) và phần Phong tục (tổ chức
các phong tục cưới xin, tang ma, khao vọng... theo hướng “cải cách”, xóa bỏ hủ tục
theo ý đồ của người Pháp).
+ Hương ước mới (Quy ước làng văn hóa).
Vai trò của hương ước : điều chỉnh mối quan hệ giữa các thiết chế tổ chức,
các quan hệ xã hội trong làng trong những nghĩa vụ và quyền lợi chung (tác động
trực tiếp đến từng cá nhân, tác động đến các thiết chế, nắm cá nhân để nắm thiết
chế và ngược lại).
Là công cụ để Nhà nước can thiệp vào làng xã, lấn át cổ tục, quy chuẩn hóa
các quan hệ xã hội theo chiều hướng Nho giáo hóa.
Kết luận : hương ước là công cụ chính yếu để quản lý làng (kết hợp với tín
ngưỡng, quan niệm về đạo đức, với pháp luật). Từ một tri thức dân gian về quản lý
cộng đồng, hương ước được “nhà nước hóa” để trở thành công cụ quản lý làng xã.
Hương ước thể hiện cho việc điều chỉnh mối quan hệ mối giữa tự quản và hành
chính, giữa phong tục và luật pháp, giữa phi quan phương và quan phương, của
việc điều hòa lợi ích giữa làng với nhà nước.
2. 2. Một xã hội phân tầng không triệt để
- Giai cấp không rõ ràng: xen vào giữa 2 cặp đối lập (địa chủ - tá điền; phú
nông - cố nông) là tầng lớp trung nông (lớp trên, lớp dưới) với ranh giới rất mờ
nhạt và “độ bền” của mỗi giai cấp không lớn do kinh tế nhỏ bé, xã hội chịu nhiều
tác động (cờ bạc, mua ngôi thứ, kiện cáo…) .

- Sở hữu tư nhân nhỏ bé và manh mún, không có tầng lớp nào khống chế
được xã hội bằng thế lực kinh tế của mình mà phải dựa vào quyền lực chính trị.
Người Việt muốn khá giả phải nhờ quyền lực chính trị để có các nguồn thu khác
ngoài công việc làm kinh tế.
- Trong khi vấn đề giai cấp nhạt hoà thì vấn đề “đẳng cấp” lại nổi lên, thể
hiện sự phân chia cư dân thành nhiều tầng lớp (quan viên - bạch đinh), dựa trên tiêu
chuẩn về bằng cấp (học vị), phẩm hàm (từ nhất phẩm đến cửu phẩm), chức tước,
tuổi tác, tài sản, thành phần xuất thân, được biểu hiện cụ thể ở hệ thống ngôi thứ tại
đình (mỗi cấp bậc có vị trí ngôi thứ riêng, quyền lợi riêng trong họp hành tế lễ), tuỳ
tập tục từng làng. Làng Yên Sở (Hoài Đức, Hà Tây) chia dân cư thành 12 hạng,
trong đó 11 hạng có ngôi thứ ở đình.

19


Ngoài ngôi thứ chính nhờ các tiêu chuẩn do phấn đấu mà có, còn có ngôi thứ
do bỏ tiền ra mua (ngôi trùm, trưởng, xã nhiêu, lý phó trưởng…) để lấy một cái
danh và không phải phu phen tạp dịch.
Ảnh hưởng của xã hội làng xã với sự phát triển, tới CNH - HĐH :
- Không tạo ra sự đồng thuận xã hội :
+ Tạo ra tâm lý cục bộ (cục bộ dòng họ, cục bộ làng xã), không vì mục đích,
lợi ích chung, lớn hơn (của vùng, của nước), mà chỉ vì lợi ích của dòng họ, của làng
xã (đối lập giữa các dòng họ với nhau, giữa họ với làng, giữa làng với các làng
khác và với nước).
+ Sở hữu tiểu nông, manh mún đẻ ra sự đố kỵ tiểu nông, tâm lý “cá đối bằng
đầu” (không thừa nhận tài năng của nhau), giải quyết sự đố kỵ không vì sự phát triển
chung mà vì giải quyết mâu thuẫn cá nhân. Bên cạnh đó là sự tồn tại những mâu
thuẫn giữa các phe phái (từ phe phái trong làng đến phe phái vùng miền, kết hợp với
tư tưởng cục bộ, tạo ra sự không đồng thuận xã hội “bằng mặt không bằng lòng).
- Do không có lực lượng xã hội có thế lực kinh tế, kết hợp với hệ thống quan

lại nhiều cấp với quyền lợi cách biệt đã tạo ra râm lý và tư tưởng trọng địa vị ngôi
thứ, không chú trọng tiến thân bằng con đường chuyên môn mà bằng con đường
quan chức, “tâm lý học quan” , không tạo ra động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hệ thống hành chính nhiều cấp quan liêu; không có lực lượng đối trọng với
chính quyền, không có tam quyền phân lập, xã hội làng xã không có dân chủ hay
chỉ có dân chủ “đẳng cấp”, hay “dân chủ thứ lớp”, nhìn tổng thể là một xã hội
chuyên chế., không tạo ra “dân khí” (cùng với yếu kém về dân sinh, dân quyền, dân
trí).
- Làng gắn với lệ tục, tạo ra con người trọng tinh, trọng tình, trọng tục; đối
lập với tâm ý trọng động, trọng lý, trọng luật của cư dân công nghiệp.
+ Không phân biệt rạch ròi tình lỹ
+ Phong cách hành chính không rõ ràng, hành chính phải nương theo tự
quản; luật phải uốn theo tục…
+ Dân không hiểu luật (pháp luật ra đời muộn, lụât không đến trực tiếp với
dân), mù luật, sống với lệ, không tuân thủ pháp luật; quan nhờn luật, lợi dụng thể
chế quan liêu để ức hiếp dân.
- Không coi trọng tài năng cá nhân, lấy lợi ích và giá trị cộng đồng làm
trọng, không tạo ra động lực thúc đẩy xã hội.

20


Câu 3: Các dạng thức đô thị hóa ở nước ta hiện nay? Phân tích tác động
của quá trình đô thị hóa đối với phát triển kinh tế, quản lý xã hội và bảo tồn văn
hóa truyền thống ở nông thôn hiện nay.
Bài làm
I. Các dạng thức đô thị hóa nước ta hiện nay
Trong khoảng 20 năm nay, làng xã người Việt chịu tác động của quá trình
phát triển đô thị theo hai hướng :
- Hướng thứ nhất, gắn với việc thu hồi phần lớn diện tích đất nông nghiệp của

các làng xã ven đô để xây dựng cơ sở hạ tầng, khu đô thị, các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, song các xã và các làng vẫn giữ nguyên vị thế hành chính. Tại địa bàn
Hà Nội, điển hình cho xu hướng này là các xã : Phú Thị (huyện Gia Lâm), Kim
Chung (huyện Đông Anh), An Khánh, Kim Chung, Di Trạch.... (huyện Hoài Đức),
Thanh Liệt, Tứ Hiệp (huyện Thanh Trì)...
- Hướng thứ hai, gắn với việc chuyển các xã ven đô thành phường, được
nhiều nhà nghiên cứu gọi là “đô thị hóa cưỡng bức” hay đô thị hóa theo con đường
hành chính, tức là, người nông dân chỉ sau một đêm, thông qua một quyết định hành
chính đã trở thành “thị dân”, chưa được qua một quá trình chuẩn bị về tinh thần, tâm
lý, làm quen với sự thay đổi về nghề nghiệp, lối sống... Tại địa bàn Hà Nội, con
đường phát triển đô thị này thể hiện ở việc chuyển một loạt các xã của các huyện :
Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm thành phường để thành lập các quận : Tây Hồ (1995),
Cầu Giấy, Thanh Xuân (1996) và Hoàng Mai, Long Biên (2003). Ngoài ra, còn có
các xã được chuyển thành phường ở các thị xã, các thị trấn ở các huyện.
Những đặc điểm và tác động đến các mặt của đời sống làng xã của quá trình
phát triển đô thị theo hai phương thức trên được thể hiện qua bảng so sánh ở trang bên.
Những thay đổi trên đây là cơ sở cho sự thay đổi về văn hóa gia đình, dòng
họ, làng xã. Đây là vấn đề lớn cần có sự đầu tư nghiên cứu trên nhiều điểm (các loại
hình làng khác nhau), với sự tham gia của nhiều ngành : Nhân học, Xã hội học, Văn
hóa học... Dưới góc độ Nhân học/ Dân tộc học, từ những nghiên cứu ở một số làng,
chúng tôi nêu một số nhận xét sơ bộ dưới đây.
Một số biến đổi cơ bản của quan hệ làng xã trước tác động của phát triển
đô thị
“Văn hóa” là một khái niệm rộng, bao hàm nhiều mặt. Trong bài này, chúng
tôi tập trung trình bày một trong những khía cạnh nổi bật của văn hóa là quan hệ xã
hội. Nếu các yếu tố vật chất của làng chịu tác động đầu tiên, “trực diện” của quá
trình phát triển đô thị, hậu quả không thật sự nặng nề, thì các quan hệ xã hội tuy chịu
21



tác động sau, nhưng hệ lụy kéo dài, rất khó cân đong, đo đếm, làm đảo lộn các giá trị
truyền thống, ảnh hưởng đến việc thiết lập một quan hệ xã hội mới. Dưới đây chúng
tôi xét ba mối quan hệ cơ bản là quan hệ gia đình, quan hệ dòng họ và quan hệ làng
xã - ba trục tạo ra xã hội làng xã cổ truyền.
1. Biến đổi của quan hệ gia đình
Gia đình truyền thống của người Việt có các chức năng chính : là đơn vị tổ
chức lao động, tái sản xuất con người và sức lao động, thờ cúng tổ tiên, đơn vị giáo
dục, trao truyền văn hóa và điều hòa tâm lý, tình cảm. Sự phát triển đô thị đang tác
động đến nhiều mặt của đời sống gia đình, thể hiện qua bảng so sánh dưới.
T
Biểu hiện của biến đổi
Hướng thứ nhất
Hướng thứ hai
T
1 Gia đình ba thế hệ giảm, gia đình Diễn ra chưa mạnh Diễn ra mạnh mẽ
nhỏ (gia đình hạt nhân - hai thế hệ) mẽ
chiếm ưu thế
2 Các cặp vợ chồng trẻ sớm tách ra ở Diễn ra chậm hơn, Diễn ra sớm hơn,
riêng
ít phổ biến hơn
phổ biến hơn
3 Bố mẹ già (song thân hoặc đơn Diễn ra phổ biến
Phổ biến hơn
thân) tách khỏi con cái
4 Xung đột thế hệ (bố mẹ, ông bà/con Ít căng thẳng hơn Rõ nét hơn,
cái) về quan niệm sống, lối sống, sở
căng thẳng hơn
thich có xu hướng gia tăng
5 Mâu thuẫn anh chị em, bố mẹ - con Diễn ra phổ biến
Diễn ra phổ biến,

cái về đất đai, tài sản thừa kế ngày
mạnh mẽ, “khốc
càng gia tăng
liệt hơn”
6 Thời gian “không đoàn tụ” hàng Diễn ra phổ biến
Ít phổ biến hơn
ngày, hàng tháng của gia đình gia
tăng do yêu cầu mưu sinh
7 Chức năng của gia đình về :
- Tái sản xuất sức lao động
Suy giảm ít hơn
Suy giảm nhiều
- Thờ cúng, khát vọng có con trai
Mạnh mẽ hơn
hơn
- Giáo dục
Suy giảm
Ít mạnh mẽ
- Trao truyền văn hóa
Suy giảm
Suy giảm mạnh
hơn
Suy giảm mạnh
hơn
8 Tác động tiêu cực của xã hội với Hậu quả ít hơn
Hậu quả nặng nề
22


9


con cái
Ly hôn gia tăng

Ít phổ biến hơn

hơn
Phổ biến hơn

Các xu hướng trên còn phụ thuộc vào từng loại gia đình (theo nghề nghiệp,
học vấn, vị thế xã hội...) của từng cộng đồng cư dân các vùng miền.
2. Quan hệ dòng họ
Dòng họ của người Việt là thiết chế tập hợp người theo quan hệ huyết thống,
có chức năng thờ cúng tổ tiên, góp phần giáo dục con cháu, quản lý xã hội. Dưới tác
động của phát triển đô thị, dòng họ đang có nhiều biến đổi. Dưới đây là một số biến
đổi nổi bật.
T
T
1

2

3

4

5

Biểu hiện của biến đổi
Các yếu tố liên quan tâm linh dòng

họ (nhà thờ, mộ tổ, gia phả, quỹ
họ...) được phục hồi, nâng cấp, do
điều kiện kinh tế khá hơn
Tổ chức sinh hoạt dòng họ đi vào
quy củ hơn, song có nhiều cải biến
cho phù hợp với thực tế cuộc sống
Sự gắn kết trong dòng họ suy giảm
(do nhu cầu mưu sinh, do cư dân
trong làng ngày càng bác tạp, do
“tính thiêng” về tâm linh và chỗ dựa
về vật chất, tinh thần của dòng họ
suy giảm
Các bậc cao niên (nhất là người về
hưu, có trình độ, có điều kiện có
nhiều nỗ lực và vai trò củng cố gia
tộc; song lớp trẻ ít gắn bó với các
hoạt động của dòng họ
Tranh chấp đất đai hương hỏa khi bị
thu hồi đất gia tăng

Hướng thứ nhất

Hướng thứ hai

Rõ nét hơn

Ít rõ nét hơn

Rõ nét hơn


Ít rõ nét hơn

Ít phổ biến hơn

Phổ biến, rõ nét
hơn

Rõ nét hơn

Ít rõ nét

Ít căng thẳng hơn

Căng thẳng hơn

Cũng như ở gia đình, các biến đổi trên đây của dòng họ tùy thuộc vào đặc
điểm của dòng họ ở từng làng, từng vùng.
3. Quan hệ cộng đồng làng xã
23


Mỗi làng Việt truyền thống là một thiết chế tự quản, bằng các tổ chức tập hợp
người và bằng các quan hệ xã hội, do vậy còn mang tính cộng đồng cao, được xác
lập bằng các quan hệ kinh tế (cùng làm nông nghiệp, hay thủ công nghiệp), sở hữu
(ruộng đất công và các tài sản chung), tín ngưỡng... Các tổ chức và các quan hệ xã
hội này cùng tính cộng đồng làng xã đã biến đổi mạnh mẽ dưới tác động của các cải
biến về kinh tế - xã hội qua các giai đoạn trước đây. Dưới tác động của phát triển đô
thị trong gần 20 năm qua, tính cộng đồng và các quan hệ xã hội làng xã tiếp tục biến
đổi với những sắc thái mới. Dưới đây là một số biến đổi tiêu biểu.
T

T
1

Biểu hiện của biến đổi
Tính cố kết cộng đồng làng xã suy
giảm do cơ sở để duy trì không còn
hoặc suy giảm
- Nông nghiệp

Hướng thứ nhất

Không còn hoặc
chỉ còn tỷ trọng rất
nhỏ
- Cư dân phải “ly hương” để mưu Đông, mạnh và
sinh
thường xuyên

2

3

Hướng thứ hai

Không còn (trừ một
vài làng)

Không xảy ra hoặc
có với mức độ kém
hơn

- Hoạt động kinh tế, thu nhập, các Sự chênh lệch ít Chênh lệch rõ rệt
quan
hơn
hệ kinh tế - xã hội không còn đồng
nhất, thuần nhất
- Các phong tục tập quán gắn kết Ít mạnh mẽ
Mạnh mẽ, rõ nét
tính
hơn
cộng đồng (cưới xin, tang ma) suy
giảm hoặc “biến thể”
- Cư dân bác tạp, không con thuần Không thật sự nổi Nổi bật, rõ nét
nhất
bật
Quan hệ ngoại làng được mở rộng Không thật sự nổi Nổi bật, rõ nét
do yêu cầu phát triển kinh tế- xã bật
hội, hôn nhân nội làng bị phá vỡ
Quan hệ cư dân làng xã từ thân Chưa thật sự nổi Nội bật
quen nhau, hiểu nhau từ nguồn gốc bật
tổ tiên, nặng tình cảm (họ hàng,
xóm giềng, “trong họ ngoài làng”),
24


4
5

6
7


tin nhau là chính sang cư dân đô thị,
ít quen biết, nặng về lý - luật, quan
hệ “tiền trao cháo múc”, quan hệ
hợp đồng, khế ước
Lối sống cá nhân được đề cao, nhất
là trong thanh niên
Mâu thuẫn, tranh chấp làng xóm về
đất đai gia tăng (“Giá đất tăng lên,
tình người suy giảm”)
Mâu thuẫn giữa các dòng họ, nhất là
trong tranh chấp quyền lực
Quan hệ chính cư - ngụ cư

Chưa mạnh mẽ

Mạnh mẽ

Chưa mạnh mẽ,
Chưa gay gắt

Mạnh mẽ, gay gắt

Còn, nhưng không
gay gắt
Suy giảm, quan hệ
chính -ngụ cư
tương đối hòa
đồng,
nhưng
không rõ nét


Về cơ bản bị đẩy
lùi
Suy giảm khá rõ
nét, song tạo ra sự
“co cụm để đề
kháng” của cư dân
gốc và sự cách biệt,
đóng kín của dân
nhập cư

Những thay đổi trên đây còn tùy thuộc vào đặc điểm các mặt của từng loại
hình làng ở từng vùng.

T
T
1

2

Phân tích những yếu tố tác động
Tác động của quá trình phát triển đô thị theo hai hướng :
Nội dung, đặc điểm của
Hướng thứ nhất
Hướng thứ hai
sự chuyển đổi
Mục đích sử dụng đất Diễn ra từ từ
Diễn ra nhanh chóng và
đai: từ đất nông nghiệp
tương đối đồng loạt

sang đất công nghiệp dịch vụ, nhà ở đô thị và
hạ tầng đô thị
Kết cấu kinh tế, gắn với Diễn ra từ từ, nông Diễn ra nhanh chóng, tuyệt
chuyển
đổi
nghề nghiệp còn tồn tại ở đại đa số người nông dân
nghiệp, lao động (của các mức độ khác nhau không còn “dính dáng” đến
cư dân làng xã): từ
sản xuất nông nghiệp
nông nghiệp là chính
25


×