Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Sinh học trong việc giảng dạy các nguyên lý và các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.09 KB, 59 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đang có những bước chuyển mình mạnh
mẽ, cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra như vũ bão, cùng với sự bùng nổ
của công nghệ thông tin và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế … Đang có tác
động to lớn tói sự phát triển của nền kinh tế tất cả các nước trên thế giới.
Ngày nay, trong sự phát triển nền kinh tế của đất nước không thể không
thể có sự vắng bóng của yếu tố khoa học - công nghệ. Bởi lẽ, khoa học - công
nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trong quá trình sản xuất, nhờ vào
việc ứng dụng những thành tựu, phát minh khoa học mà hiệu quả lao động ngày
càng cao, năng xuất lao động ngày càng tăng. Do đó, để thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển vượt bậc, thì mỗi quốc gia cần phải quan tâm, đầu tư phát triển
khoa học đúng mức.
Vậy, khoa học là một hệ thống những tri thức phản ánh những quy luật
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó bao gồm rất nhiều
những bộ môn khoa học cụ thể, giữa chúng lại có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau, bổ trợ cho nhau không tách rời nhau. Trong đó, mối quan hệ giữa triết
học và sinh học là một sự tiêu biểu cho những mối quan hệ kiểu như vậy.
Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ thực
tiễn, do nhu cầu của thực tiễn. Chức năng cơ bản nhất của nó là cung cấp thế
giới quan và phương pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cho con người.
Sinh học là một bộ môn khoa học về sự sống, về những quy luật hình
thành, vận động và phát triển của sự sống diễn ra trong sinh vật, là sự giải đáp
những vấn đề cụ thể về sự trao đổi năng lượng giữa cơ thể động vật và thực vật


với môi trường.
Nghiên cứu những thành tựu của sinh vật học dựa trên cơ sở khái quát và
nguyên tắc của các nguyên lý và những quy luật cơ bản của triết học, sẽ góp
1


phần làm sang tỏ hơn những vấn đề về bản chất sự sống, bản chất của di truyền,
về những vấn đề có tính toàn vẹn của cơ thể, về mối quan hệ và sự tác động lẫn
nhau giữa cơ thể sống với môi trường, giữa con người xã hội với tự nhiên và vấn
đề bản chất của con người …
Hiện nay, với những phát minh khoa học có tính đột phá. đặc biệt là
những công nghệ về biến đổi gen đã tạo ra sự khởi đầu kì diệu cho sự phát triển
kinh tế - xã hội cũng như những tìm hiểu bước đầu về cấu trúc con người. Sinh
học hiện đại đang đặt ra rất nhiều vấn đề mà cần có sự kết hợp liên ngành giữa
triết học và sinh học để giải quyết như: Đạo đức, nhân cách con người; tương lai
con người và xã hội loài người; vấn đề dân tộc , sắc tộc, nhân bản vô tính …
Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế
giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó
được cấu thành bởi hệ thống các nguyên lý các cặp phạm trù và các quy luật
cơ bản. Trong đó, có hai nguyên lý cơ bản đó là: nguyên lý về sự phát triển và
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và ba quy luật cơ bản đó là: Quy luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật phủ
định của phủ định.
Nghiên cứu triết học trong sinh học để vận dụng những kiến thức sinh
học trong việc giảng dạy các nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật, là một việc làm cần thiết và có nhiều ý nghĩa to lớn. Nó giúp cho các
nhà triết học hiểu biết thêm về những tri thức sinh học, giúp họ thấy rõ được cơ
sở chính xác, khoa học, để triết học dựa vào đó khái quát lên thành những
nguyên lý, những cặp phạm trù , những quy luật triết học. Mác - Ăng ghen đã

nói”. Mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học
tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi thay đổi nhận thức của nó”.
Lịch sử triết học nhân loại đã cho thấy, triết học duy vật biện chứng ra
đời không chỉ dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội và cơ sở lý luận, thì nó còn
dựa trên ba phát minh khoa học lớn, có tính vạch thời đại. Trong đó, có hai phát
2


minh thuộc về sinh học đó là: Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn, thuyết tế bào
của Svan và Slayden cùng với định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
của Rô béc Maye và Len xơ.
Mặt khác, nghiên cứu triết học trong sinh học giúp cho các nhà sinh học
nhận thức và biết vận dụng mọt cách đúng đắn sang tạo thế giới quan duy vật
biện chứng đúng đắn và phương pháp luận khoa học triết học vào quá trình
nghiên cứu sinh học.Giúp cho các nhà sinh học có thể tiến xa hơn,đi sâu hơn và
đạt được thành tựu lớn hơn trong lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Không chỉ trong nghiên cứu mà trong lĩnh vực giảng dạy triết học Mác Lê nin. Thì việc vận dụng các tri thức sinh học trong giảng dạy triết học nói
chung và trong các nguyên lý và các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật cũng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ, các tri thức,
các nguyên lý, quy luật triết học thường khó và trìu tượng ,nên người học sẽ rất
khó khăn trong việc tiếp thu và lĩnh hội.
Việc nghiên cứu và vận dụng tri thức sinh học vào trong giảng dạy triết
học sẽ làm mềm hóa tri thức triết học và làm cho bài giảng sinh động hơn ,gắn
liền với thực tiễn hơn, do vậy sẽ thu hút được người học và làm cho giờ học hiệu
quả hơn.
Đặc biệt, việc vận dụng những tri thức sinh học trong giảng dạy các
nguyên lý các quy luật cơ bản của phép biện chứng ,còn trang bị cho người học
những tri thức vừa rộng hơn vừa sâu hơn và toàn diện hơn về thế giới để từ đó
nâng cao hiệu quả trong hoạt động học tập và nghiên cứu và hoạt động thực tiễn
của mình.

Song, việc tìm hiểu và vận dụng các tri thức sinh học trong việc giảng dạy
các nguyên lý và quy luật cơ bản là một việc làm không hề giản đơn.Vì vậy, đề
tài chỉ mới gợi ý cách vận dụng một số lĩnh vực sinh học trong phạm vi giảng
dạy các nguyên lý và quy luật của phần phép biện chứng duy vật.
Xuất phát yêu cầu và thực tiễn của việc giảng dạy triết học hiện nay, mà
em quyết định chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình: “ Sinh
3


học trong việc giảng dạy các nguyên lý và các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu tìm hiểu và vận dụng tri thức sinh học trong giảng dạy
các nguyên lý và các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật là một
việc làm hoàn toàn mới mẻ và cũng không hề đơn giản.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách hoàn chỉnh và tỉ mỉ để tìm ra yếu tố triết học trong sinh học và đặc biệt
là việc vận dụng các tri thức sinh học vào trong giảng dạy triết học nói chung và
các nguyên lý và quy luật cơ bản cuả phép biện chứng duy vật và cũng chưa
xuất hiện một giáo trình chuẩn và chính thức nào cho việc giảng dạỵ. Bộ môn
sinh học giành cho triết học cho sinh viên và đặc biệt là cho sinh viên chuyên
ngành triết học.
Tuy nhiên¸ hiện nay cũng đã có một số cuốn sách và công trình khoa học
đã di vào nghiên cứu và tìm ra yếu tố triết học cũng như ý nghĩa triết học trong
một số lĩnh vực sinh học cơ bản. tiêu biểu hơn cả phải kể tới:
Trong tác phẩm “ Biện chứng của tự nhiên”. Được Ăng ghen viết vào
những năm 1873 - 1883 và được bổ sung thêm vào những năm 1885 - 1886.
Trong đó, Ăng ghen đã dành một số chương nhất định để trình bày một cách
khái quát và cơ bản nguồn gốc của sự sống và sự hình thành con người. Dựa trên
những thành tựu của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ và những bằng chứng xác

thực của sinh học, Ăng ghen đã chứng minh rằng: Quá trình hình thành sự sống
và loài người là quá trình phát triển biện chứng của tự nhiên. Tác phẩm đã cung
cấp những luận điểm quan trọng, những quan niệm duy vật biện chứng về quá
trình phát triển biện chứng của thế giới tự nhiên sinh vật.
Một trong những công trình khoa học tiêu biểu phải kể tới cuốn: “Quan
niệm biện chứng về sự phát triển trong sinh học hiện đại”, được dịch từ nguyên
bản tiến Nga, xuất bản năm 1980. Đã trình bày một cách hệ thống những quan
niệm biện chứng về các vấn đề của sinh học hiện đại với những đóng góp tích
4


cực như: quan niệm giới hữu cơ như một hệ vật chất toàn vẹn tự thân phát triển,
quan niệm về tính quy luật trong sự phát triển của giới hữu cơ,quan niệm về
mâu thuẫn là nguồn gốc sự phát triển của giới hữu cơ.
Đặc biệt, giáo trình Triết học trong khoa học tự nhiên của tác giả Nguyễn
Như Hải đã trình bày một cách khái quát về ý nghĩa triết học trong các vấn đề
về sự sống, trong học thuyết tiến hóa và trong vấn đề về sinh thái học xã hội và
sinh quyển.
Trong cuốn giáo trình “ Tiến hóa”, xuất bản 2009 của Nguyễn Xuân Viết.
Tác giả đã trình bày một cách khá biện chúng và đầy đủ về quá trình tiến hóa lâu
dài của giới sinh vật từ những đơn vị tiến hóa cơ sở là quần thể đến sự tiến hóa
cấp độ trên loài, nguồn gốc phát sinh sự sống trên trái đất và nguồn gốc xuất
hiện loài người… Qua sự phân tích khoa học và bằng chứng sinh học sát thực
mà giáo trình nêu ra đã chứng tỏ rằng: Quá trình phát triển của thế giới sinh vật
tự nhiên là một quá trình tiến hoá lâu dài, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn..
Gần đây nhất, trong cuốn “ Môi trường và con người sinh thái học nhân
văn” xuất bản năm 2011 của các tác giả Vũ Quang Mạnh và Hoàng Duy Chúc
viết đã trình bày một cách khá sinh động và phong phú những vấn đề mà sinh
học hiện đại ngày nay đang đặt ra. Đặc biệt là vấn đề về môi trường, về sinh

thái, vấn đề về con người trong sinh thái học nhân văn và vấn đề về sinh quyển
và trí tuệ quyển …
Song, hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở việc
nghiên cứu, lý giải những vấn đề cần thiết mà sinh học hiện đại đang đặt ra, trên
lập trường duy vật biện chứng và tìm ra các yếu tố triết học và ý nghĩa triết học
trong một số lĩnh vực cơ bản của sinh học mà chưa chỉ ra được một cách cụ thể
việc vận dụng những tri thức sinh học ấy vào trong việc giảng dạy triết học, đặc
biệt là trong giảng dạy các nguyên lý và các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật trong các trường cao đẳng và đại học hiện nay.
Với sự thôi thúc tìm tòi nghiên cứu khoa học, và tính cấp thiết của đề tài.
5


Em quyết định lựa chọn đề tài: “ Sinh học trong giảng dạy các nguyên lý và các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật ”, để làm đề tài nghiên cứu của
mình nhằm góp phần cho việc học tập và nâng cao sự hiểu biết cho sinh viên nói
chung và sinh viên khoa triết học nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng kiến thức sinh học trong giảng dạy
các nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biên chứng duy vật.
• Phạm vi nghiên cứu: các nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục đích: Trên cơ sở làm rõ yếu tố triết học trong một số lĩnh vực
sinh học để vận dụng những tri thức ấy vào giảng dạy các nguyên lý và quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật.
• Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên đề tài phải tập trung vào làm
rõ ý nghĩa triết học trong sinh học ,làm rõ những nội dung cơ bản của các
nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và chỉ ra cách vận
dụng những tri thức sinh học đó vào trong giảng dạy các nguyên lý và quy luật.

Cơ bản của phép biện chứng duy vật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó có sử dụng một số phương
pháp cụ thể như: Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp và phương pháp logic kết hợp với lịch sử.

6


6. Đóng góp của đề tài
• Đóng góp về mặt lý luận
Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận triết học
Mác - Lê nin và tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa triết học với các khoa học
tự nhiên, cụ thể là sinh học.
• Đóng góp về mặt thực tiễn
Từ việc chỉ ra các yếu tố triết học trong sinh học để vận dụng những tri
thức đó vào thực tiễn học tập và giảng dạy các nguyên lý và quy luật cơ bản của
các phép biện chứng duy vật. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng bài giảng và
hiệu quả của việc học tập, lĩnh hội những tri thức của triết học Mác - Lê nin.
7.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo ra: Đề tài
gồm 2 chương và 6 tiết.
Chương 1: Mối quan hệ giữa sinh học và triết học
1.1 Khái quát chung về triết học và sinh học
1.2 Mối quan hệ giữa triết học và sinh học
1.3 Yếu tố triết học trong sinh học
Chương 2: Vai trò của sinh học trong giảng dạy các quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật
2.1 Những khó khăn trong giảng dạy bộ môn triết học Mác - Lê nin

2.2 Sự cần thiết của việc vận dụng kiến thức triết học trong việc
giảng dạy triết học hiện nay
2.3 Vận dụng kiến thức sinh học vào trong giảng dạy các quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật

7


NỘI DUNG

Chương 1: Mối quan hệ giữa sinh học và triết học
1.1

Khái quát chung về sinh học và triết học

1.1.1 Sinh học


Khái niệm sinh học

Sinh học là một môn khoa học về sự sống ( tiếng Anh là : biology bắt
nguồn từ tiếng Hi Lạp với bios là sự sống, và logos là môn học ). Nó là một
nhánh của khoa học tự nhiên tập chung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ
giữa chúng với nhau và với môi trường. Nó miêu tả những đặc điểm và tập tính
của sinh vật ( cấu trúc, chức năng, sự phát triển, môi trường sống); cách thức các
cá thể và loài tồn tại ( nguồn gốc sự tiến hóa và sự phân bố của chúng ).


Cơ sở của sinh học


Sinh học bao hàm nhiều ngành khoa học khác nhau được xây dựng trên
những nguyên lý riêng. Có bốn nguyên lý tạo thành nền tảng cho sinh học hiện
đại đó: Lý thuyết tiến hóa tế bào; tiến hóa; di truyền và cân bằng nội tại.
Sự ra đời của sinh học bắt đầu từ thế kỷ XIX, khi các nhà khoa học tìm
thấy các đặc điểm chung cơ bản giữa các loài.
Ngày nay, sinh học đã trở thành môn học chuẩn và bắt buộc trong các
trường học các cấp và cao đẳng, đại học trên khắp thế giới và rất nhiều bài báo
được công bố hàng năm ở trên khắp các tạp trí chuyên ngành về y học và sinh học.


Lịch sử hình thành và phát triển của sinh học

Có thể nói rằng cho đến nay, việc phân chia lịch sử ra đời và phát triển
của sinh học vẫn chưa đi đến một sự thống nhất chung. Bởi lẽ xoay quanh vấn
đề này vẫn còn tồn tại rất nhiều những quan điểm khác nhau. Cơ sở để phân chia
sinh học chủ yếu dựa vào sự phát triển của sinh học ở Châu Âu. Song, có thể
phân kỳ lịch sử của sinh học theo bốn thời kỳ khác nhau cụ thể là:
Thời kỳ thứ nhất: Từ thời cổ đại cho đến thế kỷ XV
Ở thời kỳ này thì về cơ bản Sinh học vẫn chưa có đối tượng nghiên cứu
8


riêng. Những nhà triết học đồng thời cũng là những nhà khoa học - sinh học mới
chỉ có những phỏng đoán về sự sống, nguồn gốc của giới sinh vật. Chẳng hạn
một số quan điểm về sự sống đầu tiên đã xuất hiện, thời Trung Quốc cổ đại sự
kết hợp của hai thực khí Âm và Dương tạo ra ngũ hành, trên cơ sở ngũ hành đó
tạo ra vạn vật và sự sống, Thời Hi Lạp cổ đại nhà triết học Anaximen cho rằng
dưới tác động của ánh sáng vào nước đã làm nảy sinh các động vật ở dưới nước,
rồi đến các động vật trên cạn.
Từ thế kỷ XIV và XV: Ở phương Đông sinh học vẫn phát triển. Trái lại ở

phương Tây sinh học bị nhấn chìm trong thế giới quan thần học và tôn giáo.
Những nội dung sinh học nói chung đều mang màu sắc của thần học. Sự phát
triển ở thời kỳ này không mạnh mẽ, nó chỉ dừng lại ở việc tích lũy những tư liệu
để làm cơ sở cho việc phát triển sinh học sau này.
Thời kỳ thứ hai; Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII.
Sinh học tách khỏi triết học trở thành một khoa học độc lập. Trong học
đã có sự phân ngành như: phân loại học, giải phẫu học, sinh lý học…Ở giai đoạn
này đã xuất hiện các lý thuyết Andrây Veradơ. Qua giải phẫu ông đã chứng
minh được con gái và con trai đều có 12 xương sườn. Lý thuyết của Mixen
Secre phát hiện ra vòng tuần hoàn nhỏ trong phổi. Còn Bruno cho rằng sự sống
là phổ biến trên trái đất.
Thời kỳ thứ ba. Từ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, sinh học đã có
những bước phát triển mạnh mẽ và hình hình thành nhiều ngành sinh học mới.
Những năm 40 của thế kỷ XIX, Sinh học phát triển mãnh mẽ về lý luận.
Điển hình cho sự phát triển đó là là sự ra đời của học thuyết tiến hóa của Đác
Uyn và học thuyết tế bào của Svan và Sayden. Những thành tựu đó đã cho phép
khái quát và chứng minh những tư tưởng triết học biện chứng duy vật khoa học.
Thời kỳ thứ tư: Từ cuối thế kỷ XIX đến nay
Trong thời kỳ nay sinh học càng có những bước phát triển mới có tính đột
phá phong phú và đa dạng phân ra nhiều nhánh nghiên cứu khác nhau.
9


Ngày nay, với sự phát triển cuả sinh học hiện đại, đặc biệt là công nghệ
về biến đổi gen đã mở ra một bước ngoặt mới làm thay đổi bộ mặt của sinh học
trong mối tương quan với các khoa học khác. Những thành tựu mà sinh học đem
lại một mặt thúc đẩy sự phát triển của xã hội, mặt khác nó đặt ra hang loạt các
vấn đề, hiện tượng mới, lĩnh vực mà khoa học vẫn chưa có lời giải đáp.



Vị trí của sinh học trong khoa học

So với hầu hết các ngành khoa học khác, đặc biệt là các khoa học tự
nhiên. Thì sinh học ra đời muộn hơn rất nhiều. nó chính thức trở thành một
ngành khoa học độc lập bắt đầu từ thế kỷ XIX.
Sự xuất hiện của sinh học có vai trò quan trọng trong sự phát triển của
khoa học và trong lịch sử phát triển nhận thức con người
Nó giúp con người hiểu rõ được những quy luật hình thành, vận động và
phát triển và phát triển sự sống diễn ra trong sinh vật đồng thời lý giải được
những vấn đề cụ thể về sự trao đổi năng lượng giữa những cơ thể động vật và
thực vật với môi trường. quá đó con người có thể tìm rs được quy luật hình
thành và phát triển của các động vật và thực vật, để từ đó ứng dụng vào trong
hoạt động lao động xản suất thực tiễn, phục vụ cho cuộc sống của con người.
Trong suốt lịch sử phát triển của sinh học, ở mỗi thời kỳ phát triển thì sinh
học lại có những mức độ tác động khác nhau tới các ngành khoa học khác. Ở
những thời kỳ đầu thì sự tác động của sinh học còn chưa sâu sắc. Song, càng về
sau thì sự tác động đó càng mạnh mẽ và rõ nét hơn.
Hiện nay, Sinh học càng ngày càng chiếm các vị trí quan trọng trong khoa
học và có mối quan hệ chặt chẽ với tất cả các khoa học khác, những thành tựu
mà sinh học đạt được đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ trong sự phát triển kinh
tế - xã hội cũng như trong bước đầu nghiên cứu về cấu trúc của con người.
● Những đặc điểm cơ bản về sinh giới.
Khái niệm giới sinh vật: Giới là đơn vị phân loại lớn nhất bao gồm
10


những sinh vật có chung những đặc điểm nhất định.
Việc phân chia sinh vật thành các giới tùy vào đặc điểm nhất định của
từng thời kỳ:

Vào thế kỷ XVIII, chỉ dựa trên những tiêu chí dễ quan sát về hình thái
giải phẫu của các cơ quan bộ phận cơ thể. Các Line - Ông tổ của ngành phân
loại học đã chia tất cả các sinh vật thành hai giới là: giới thực vật và giới
động vật.
Đến thế kỷ XIX, khi phát hiện ra các vi sinh vật như: vi khuẩn , nấm,
nguyên sinh động vật. Các nhà sinh học đã xếp vi khuẩn, tảo và nấm vào giới
thực vật và xếp nguyên sinh động vật vào giới động vật.
Đến thế kỷ XX, khi nghiên cứu sâu về cấu tạo hiển vi cũng như phương
thức dinh dưỡng đã xếp các sinh vật thành bốn giới: Giới vi khuẩn gồm vi
khuẩn, giới nấm, giới thực vật gồm tảo và thực vật và giới động vật gồm nguyên
sinh động vật và động vật. Từ năm 1969, hệ thống phân loại 5 giới do nhà sinh
thái người Mỹ Oaitaykho (R.H.Whitaker) đề xuất đã được công nhận rộng rãi cụ
thể đặc điểm của năm giới sinh vật đó là: Giới khởi sinh, giới nguyên sinh, giới
nấm, giới thực vật và giới động vật, trong đó:
Giới khởi sinh: Có đặc điểm cấu tạo là tế bào nhân sơ, cơ thể đơn bào,
sống nhờ tự dưỡng điển hình nhất là vi khuẩn.
Giới nguyên sinh: Có đặc điểm cấu tạo là nhân thực, cơ thể vừa đơn bào
và đa bào, sống nhờ quá trình tự dưỡng, điển hình như nhóm động vật đơn bào,
tảo, nấm nhầy.
Giới nấm: Có đặc điểm cấu tạo là tế bào nhân thực, cơ thể đa bào phức
tạp, sống cố định, điển hình nhất là nấm.
Giới thực vật: Có đặc điểm cấu tạo là tế bào nhân thực, cơ thể đa bào
phức tạp, sống cố định, nhóm điển hình là các loài cây thực vật.
Giới động vật: Đặc điểm cấu tạo là tế bào nhân thực, cơ thể đa bào phức
tạp, sống chuyển động, điển hình là các loài động vật, trong đó có con người
Như vậy, có thể thấy rằng, hệ thống phân loại 5 giới thể hiện sự tiến hóa
11


của sinh vật, sinh vật xuất hiện sau hoàn thiện hơn sinh vật xuất hiện trước nó về

cấu tạo đi từ đơn giản đến phức tạp, có sự phân hóa và chuyên hóa cao dần, giữ
các giới ngày càng hoàn thiện về phương thức dinh dưỡng. Trong đó, con người
là sản phẩm tiến hóa cao nhất và hoàn thiện nhất của giới tự nhiên.
1.1.2 Triết học
• Khái niệm triết học
Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí , vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời là dựa trên yêu cầu đòi hỏi của hoạt động lý luận và hoạt
động thực tiễn.
● Cơ sở hình thành của triết học Mác
Triết học Mác - Lê nin ra đời vào những năm bốn mươi của thế kỷ XIX,
là một trong ba bộ phận cấu thành nên chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó có hai chức
năng cơ bản đó là cung cấp thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho
nhận thức khoa học và cho hoạt động thực tiễn.
Ngoài cơ sở về kinh tế xã hội và cơ sở lý luận, thì sự ra đời của triết
học Mác - Lê nin còn được chuẩn bị bởi sự phát triển và thành tựu của khoa
học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX. Ba phát minh khoa học lớn có tính chất
vạch thời đại đó là:
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng do nhà vật lý học người
Đức Rôbéc Maye vào năm 1842 - 1845, đã chứng minh một cách khoa học về
mối quan hệ không tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của
các hình thức vận động của vật chất trong giới tự nhiên.
Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn, đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát
sinh, phát triển đa dạng về tính di truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các
loài động vật và thực vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
Học thuyết về cấu tạo tế ào thực vật và động vật do các nhà khoa học
người Đức M. Slayden và T. Savanxo xây dựng vào những năm 30 của thế kỳ
XIX, là một căn cứ khoa học quan trọng để chứng minh sự thống nhất về mặt
12



nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải
thích quá trình phát triển sự sống trong mối liên hệ của chúng.
Chính nhờ những thành tựu của khoa học tự nhiên giữa thế kỷ XIX đã
vạch ra mối liên hệ, sự chuyển hóa, tác động qua lại lẫn nhau giữa các khoa học
cụ thể với triết học, từ đó có cái nhìn biện chứng về sự tồn tại và phát triển của
giới tự nhiên.
Như vậy, Triết học Mác - Lê nin là sự kế thừa tất cả những tư tưởng tinh
hoa của nhân loại từ trước tới nay, là sự tổng kết những thành tựu của khoa học
tự nhiên, đặc biệt là những thành tựu của sinh học hiện đại, là kết quả của quá
trình hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn sôi nổi của Mác và Ăng ghen.
• Phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lê nin
Những nội dung cơ bản trong Triết học Mác - Lê nin bao gồm : Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng thì phép biện chứng duy vật là một phần nội dung chiếm một vị trí cực kỳ
quan trọng, còn việc xây dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một
trong hai cống hiến vĩ đại của triết học Mác.
Phép biện chứng duy vật, là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế
giới quan và phương pháp luận triết học Mác - Lê nin. Nó được xây dựng trên
cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản và những quy luật
phổ biến phản ánh hiện thực khách quan. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất.
Ăng ghen định nghĩa: “ Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên của xã
hội loài người và của tư duy.”
Phép biện chứng bao gồm : Hai nguyên lý cơ bản đó là: nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển; ba quy luật cơ bản đó là: quy
luật lượng chất; quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định ; sáu cặp
phạm trù đó là: Cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và
ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện

13


thực. Những cặp phạm trù này còn được gọi là những quy luật không cơ bản.
Như vậy, triết học Mác - Lê nin nói chung và phép biện chứng duy vật nói
riêng là hệ thống những tri thức lý luận chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư
duy. Nó có mối liên hệ chặt chẽ và vai trò to lớn đối với tất cả các khoa học
khác. Bởi lẽ nó có chức năng quan trọng là cung cấp thế giới quan và phương
pháp luận khoa học , đúng đắn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người.
Hiện nay, triết học Mác - Lê nin vẫn là sự phát triển đỉnh cao trong lịch sử
tư tưởng của nhân loại và chưa xuất hiện được một học thuyết triết học nào có
thể vượt lên trên nó.
1.2

Mối quan hệ giữa triết học và sinh học

Nếu như sinh học là một môn khoa học về sự sống, về những quy luật
hình thành và phát triển của sự sống diễn ra trong sinh vật, là sự giải đáp những
vấn đề cụ thể về sự trao đổi năng lượng giữa cơ thể động vật và thực vật với môi
trường thì:
Triết học là một hệ thống những tri thức lý luận chung nhất về tự nhiên,
xã hội và tư duy, về vai trò, vị trí của con người trong thế giới ấy.
Sinh học là một nhánh của các môn khoa học tự nhiên. Nó có mối quan hệ
chặt chẽ với tất cả các môn khoa học khác và đương nhiên triết học không nằm
ngoài mối quan hệ đó.
Giữa sinh học và triết học có mối quan hệ chặt chẽ tác động biện chứng
qua lại với nhau không thể tách rời.Mối quan hệ tác động hai chiều đó được thể
hiện ở vai trò của triết học đối với sinh học và ngược lai.
- Vai trò của triết học đối với sinh học

Trong mối quan hệ đó thì triết học trang bị cho các nhà sinh học nhận
thức và biết vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo thế giới quan duy vật biện
chứng và phương pháp luận khoa học triết học vào quá trình nghiên cứu sinh
học. Giúp cho các nhà sinh học có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn và đạt được những
thành tựu lớn hơn trong lĩnh vực nghiên cứu của mình.
14


Chẳng hạn, nhờ dựa trên cơ sở lập trường duy vật và phương pháp tiếp
cận hết sức biện chứng mà sinh học hiện đại đã ngày càng hoàn thiện hơn về
học thuyết tiến hóa, lý giải ngày càng đầy đủ hơn về nguồn gốc xuất hiện của sự
sống và sự hình thành của loài người…
- Vai trò của sinh học đối với triết học
Sinh học cung cấp cho triết học những tài liệu, tư liệu, những bằng chứng
sinh học xác thực , trên cơ sở đó để triết học khái quát nên những nguyên lý và
quy luật của mình. Những tri thức quan trọng mà sinh học đem lại cho triết học
càng nhiều thì càng làm cho những nội dung của triết học trở nên phong phú hơn
và sâu sắc hơn.
Điều này đã được minh chứng bởi lịch sử ra đời của triết học Mác - Lê
nin. Ngoài cơ sở về kinh tế xã hội, tiền đề về lý luận, thì sự ra đời của triết học
Mác - Lê nin còn được chuẩn bị bởi ba phát minh vạch thời đại của khoa học tự
nhiên đầu thế kỷ XIX. Trong đó có hai phát minh là thành tựu vĩ đại của sinh
học đó là: Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn và Học thuyết tế bào của Svan và
Slayden.
Như vậy, giữa sinh học và triết học có mối quan hệ chặt chẽ tác động
chứng qua lại lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng nhau góp phần thúc
đẩy khoa học phát triển.
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học, cùng với sự phát
triển đó thì làm xuất hiện hang loạt các vấn đề mới, phức tạp và cấp bách như
vấn đề toàn cầu hóa, tài nguyên môi trường, dich bệnh, dan số, dân tộc, sắc

tộc…Vì vậy, mối quan hệ giữa triết học và sinh học cũng như tất cả các ngành
khoa học khác ngày càng mật thiết và khăng khít hơn nữa.Để cùng chung tay
hướng vào giải quyết những vấn đề cấp bách của toàn cầu hiện nay.

15


1.3

Yếu tố triết học trong sinh học

Triết học và sinh học là hai môn khoa học độc lập, có đối tượng nghiên
cứu riêng của mình.Tuy nhiên giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng
tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ ấy thì triết học cung cấp thế giới
quan, phương pháp luận khoa học , đúng đắn cho sinh học
Ngược lại, sinh học cung cấp tài liệu, tư liệu, bằng chứng sinh học xác
thực, để từ cơ sở hiện thực đó,triết học khái quát lên hệ thống những nguyên lý,
quy luật triết học của mình.
Việc đi tìm các yếu tố triết học trong các lĩnh vực mà sinh học nghiên
cứu, chính là quá trình tìm ra ý nghĩa triết học trong các vấn đề sinh học đó. Đây
là một việc là cần thiết, bởi lẽ qua đó có thể nhận thấy được mối liên hệ ,gắn bó
mật thiết giữa triết học và sinh học. Mục đích là nhằm hướng vào giải quyết các
hiện tượng, các vấn đề phức tạp mà sinh học và triết học đang đặt ra trong thời
đại ngày nay.
Ngày nay, thế giới sinh học vô cùng phong phú và đa dạng. Song, các lĩnh
vực mà sinh học nghiên cứu đều ít nhiều mang yếu tố triết học và ý nghĩa triết
học nhất định. Tiêu biểu và rõ nét hơn cả là trong các lĩnh vực như: Vấn đề về
sự sống và tiến hóa; vấn đề sinh thái học nhân văn…
1.3.1 Vấn đề sự sống và yếu tố triết học của nó
1.3.1.1 Vấn đề về sự sống

Vấn đề về sự sống là một trong những vấn đề trọng yếu, cơ bản của sinh
học.Sự sống biểu hiện vô cùng đa dạng và hết sức gần gũi với chúng ta. Sự sống
bắt đầu cách đây hơn 3.5 tỷ năm trước, cùng hầu hết điều kiện tạo nên sự sống.
Nhưng bản chất sự sống là gì? Sự sống trên trái đất đã xuất hiện và phát triển
như thế nào? Đó là một vấn đề vô cùng phức tạp và là một trong những vấn đề
lớn nhất của khoa học tư nhiên và cụ thể là của sinh học.

16


● Bản chất của sự sống
Các quan niệm khác nhau về nguồn gốc của sự sống trong lịch sử
Khi bàn về bản chất của sự sống, ngay thời cổ xưa con người đã cố gắng
đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên. Song trong lịch sử phát triển của sinh
học đã xuất hiện ba quan điểm chủ yếu khác nhau đó là : quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm, quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình và quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó:
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Bản chất của sự sống là do những yếu tố
tinh thần tạo nên, đó là cái đối lập với cái chết, như “ linh hồn” trong quan niệm
của platon và “ lực sống” trong quan niệm của các nhà sinh lực luận…
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng: Giới hữu cơ và giới vô cơ đều
tuân theo những quy luật cơ, lý , hóa học. Vì vậy muốn nhận thức được bản chất
của sự sống cần phải giải thích nó bằng các quy luật cơ, lý, hóa học.
Vào thế kỷ XVIII, người ta giải thích bản chất của sự sống bằng những
quy luật cơ học và cơ thể con người giống như một cái máy.
Đầu thế kỷ XX là thời đại của điện năng và năng lượng nguyên tử ra đời
người ta lại có xu hướng xác định bản chất tựa như những lĩnh vực ở trong máy
móc điện tử và điều khiển học. Họ cho rằng bản chất của sự sống là một quá
trình điều khiển những cơ chế hoạt động của sinh vật.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: sự sống là một

hình thức vận động của vật chất, giữa sự sống và không sống có sự khác biệt về
chất.Nếu giới vô cơ hoạt động theo quy luật cơ, lý, hóa học thì sự sống hoạt
động theo các quy luật của sinh học. Trong tác phẩm “ Chống Đuyrinh “. Ăng
ghen đã đưa ra định nghĩa: “ Sự sống là phương thức tồn tại của những thể
Abumin mà yếu tố quan trọng là sự trao đổi chất thường xuyên với thế giới tự
nhiên bên ngoài xung quamh nó. Khi sự trao đổi chất đó chấm dứt thì sự sống
cũng chấm dứt và chất abumin ấy bắt đầu bị phân hóa”. Các thể abumin đó,
trước đây được khoa học xác định là một loại Protein đơn giản, nhưng gần đây
người ta xác định được rằng, cơ sở của sự sống là loại protein phức tạp gồm
17


lipoprotein và clomopeotit. Khi các protein này đứng riêng rẽ nó thuần túy là
những hợp chất hóa học không có sự sống. Nó chỉ trở thành sự sống khi nằm
trong nguyên sinh chất của tế bào.
Ngày nay, Sự sống còn được hiểu là một quá trình diễn ra từ lúc sinh vật
được tạo thành ( sinh ra ) cho đến lúc nó phân dã ( hay chết đi). Ngoài ra, sự
sống có thể hiểu được là một điều kiện cho phép một hệ thống ( thực thể) nào
đó được sinh ra, tồn tại với những đặc tính sống và phải chết đi tại một thời
điểm xác định.
Thay vì đi tìm một định nghĩa hoàn hảo về sự sống. Người ta nêu ra ba
đặc tính cơ bản của sinh vật:
+ Được cấu tạo từ tế bào
+ Có a xít nucleic là vật liệu di truyền
+ Có khả năng thực hiện các phản ứng trao đổi chất và năng lượng.
● Cơ sở vật chất của sự sống
Dấu hiệu đầu tiên là khả năng trao đổi chất và năng lượng, nhờ có mà
dẫn tới sự thường xuyên đổi mới thành phần hóa học của tổ chức là đặc thù
của sự sống.
Những dấu hiệu khác của sự sống là sinh trưởng, cảm ứng, vận động,

sinh sản đều liên quan với sự trao đổi chất. Tuy nhiên trao đổi chất theo kiểu
đồng hóa, dị hóa và sinh sản dựa trên cơ sở của sự tự nhân đôi AND là các dấu
hiệu không có ở vật chất vô cơ.
Ngày nay, người ta đặc biệt chú ý đến dấu hiệu đặc trưng của sự sống là
sự tự sao chép, tự điều chỉnh, tích lũy thong tin di truyền của vật chất di truyền.
Ngoài các dấu hiệu trên, người ta còn nói tới tính riêng biệt trong tổ chức
của sự sống. Tính riêng biệt còn thể hiện ở tế bào của cơ thể đa bào, ở từng bào
quan của tế bào.
● Các biểu hiện của sự sống
- Trao đổi chất: Là toàn bộ các hoạt động hóa học của cơ thể sinh vật.
- Sự nội cân bằng: Xu hướng các sinh vật tự duy trì môi trường bên trong ổn
18


định: các tế bào hoạt động ở mức cân bằng và ổn định ở một trạng thái nhất định.
- Sự tăng trưởng: Tăng khối lượng chất sống của mỗi cơ thể sinh vật.
- Sự vận động: Dễ nhận thấy ở động vật, sự vận động ở thực vật cũng có
nhưng chậm và khó nhận biết hơn.
- Sự đáp lại: Là sự đáp lại các kích thích khác nhau từ môi trường bên ngoài.
- Sự sinh sản: Bao gồm sinh sản hữu tính và sinh sản vô tính.
- Sự thích nghi: Là khả năng cơ thể có thể sống bình thường trong một
môi trường nhất định.
● Quá trình phát sinh sự sống trên trái đất
Bàn về vấn đề phát sinh sự sống trên trái đất, từ thời Hi Lạp cổ đại cho
đến thế kỷ thứ XVIII người ta vẫn có thói quen quan niệm rằng: Sinh vật tự sinh
từ các chất vô sinh.
Quan niệm tự sinh cho rằng sinh vật có thể ngẫu nhiên tự sinh ra từ các
vật vô hay người ta tin rằng thịt thối giữa sinh ra giòi và muỗi, chuột sinh ra từ
giẻ rách, mồ hôi và ghét bẳn trên da sinh ra chấy, rận.
Những quan niệm trên đều là sai lầm.Bằng những thí nghiệm hết sức

thuyết phục L. Paxtơ đã khẳng định rằng kể cả những vi sinh có những cáu tạo
rất đơn giản cũng không thể cấu tạo từ chất vô cơ.
Thuyết sự sống vĩnh cửu khẳng định rằng: Sinh vật chỉ có thể phát sinh từ
sinh vật và sự sống trên trái đất được chuyển từ các hành tinh khác tới dưới dạng
những ” hạt sống ”.
Quan niệm duy vật biện chứng cho rằng: Sự sống trên trái đất đã được
hình thành từ chính trên trái đất và là kết quả của sự vận động lâu dài của vật
chất, phát triển đến một trình độ nhất định. Ăng ghen quan niệm: Sự sống
không tồn tại vĩnh cửu, cũng không tự sinh bất ngờ mà nó xuất hiện trong quá
trình tiến hóa của vật chất ở khắp nơi và bất cứ lúc nào có những điều kiện
cần thiết. Ăng ghen đã tuyên đoán “ Sự sống nhất định sẽ hình thành theo
phương thức hóa học ”.
Cho đến nay, hầu hết các nhà sinh học nói chung và các nhà tiến hóa nói
19


riêng đều cho rằng: Sự sống trên trái đất đã được tiến hóa từ chính trên trái đất
được lý giải về cơ bản như sau:
Các phân tử hữu cơ đầu tiên chủ yếu xuất hiện từ các vật chất vô cơ đầu
tiên có mặt trên trái đất. quá trình tiến hóa đã hình thành các hợp chất hữu co
đơn giản, rồi đến các hợp chất hữu cơ phức tạp các đại phân tử và các hệ đại
phân tử.
Sự tương tác và chọn lọc các hệ đại phân tử, đặc biệt sự chọn lọc hệ đại
phân tử protein và a xít nucleic đã dẫn tới sự xuất hiên sự sống đầu tiên. Quá
trình tiến hóa từ giản đơn đến phức tạp trải qua các giai đoạn tiến hóa hóa
học,tiến hóa tiền sinh học rồi đến tiến hóa sinh học, để từ đó hình thành nên các
giới sinh vật phát triển đa dạng phong phú như ngày nay.
● Giới động vật và giới thực vật
Sinh giới ngày nay vô cùng phong phú và đa dạng , trong đó động vật và
thực vật được coi là những nhóm sinh vật chính và chủ yếu trong hệ thống phân

loại 5 giới sinh vật.
- Giới thực vật
Khái niệm thực vật: Thực vật là những sinh vật có khả năng tạo cho
mình chất dinh dưỡng từ những hợp chất vô cơ đơn giản và xây dựng thành
những phần tử phức tạp nhờ quá trình quang hợp, diễn ra trong lạp lục của
thực vật.
Đặc điểm cơ bản của thực vật: Có đặc điểm cấu tạo là tế bào nhân thực,
đa bào phức hợp, thực vật chủ yếu là các sinh vật tự dưỡng. quá trình quang hợp
sử dụng năng lượng ánh sang, được hấp thu nhờ sắc tố màu lục - diệp lục có ở
hầu hết tất cả các loài thực vật, riêng nấm là một trường hợp ngoại lệ, dù không
có chất diệp lục nhưng nó thu được các chất dinh dưỡng từ các chất hữu cơ lấy
từ sinh vật khác hoặc mô chết.
Thực vật còn có đặc trưng bởi các thành tế bào bằng xenlulozo., thực vật
không có khả năng di chuyển tự do ngoại trừ một số thực vật hiển vi có thể
chuyển động được, thực vật phản ứng rất chậm với sự kích thích.
20


Thực vật là một nhóm các sinh vật, bao gồm các sinh vật rất quen thuộc
như cây gỗ, cây hoa, cây dương xỉ và rêu. Khoảng có 350.000 loài thực vật,
được xác định như là thực vật có hạt, rêu, dương xỉ và các dạng gần giống như
nguyên thủy.
- Giới đông vật
Khái niệm động vật: Là một nhóm sinh vật chính có cơ thể đơn bào hoặc
đa bào, có khả năng di chuyển và đáp ứng với môi trường, có thức ăn là những
sinh vật khác.
Ngoài ra, một số sinh vật có khả năng di chuyển và dị dưỡng như trùng đế
giày, trùng roi xanh được gọi là động vật nguyên sinh.
Đặc điểm chung của động vật
Động vật là nhóm sinh vật lớn thứ hai sau thực vật nên phân bố rất rộng.

Chúng có những đặc điểm chung cơ bản đó là: Có khả năng di chuyển, có hệ
thần kinh và giác quan,sống nhờ dị dưỡng.
Động vật không chỉ có vai trò quan trọng trong thiên nhiên mà còn cả với
đời sống con người như cung cấp nguyên liệu, thực phẩm, lấy lông, lấy da, làm
thí nghiệm khoa học, làm thuốc, hỗ trợ cho con người lao động, giải trí và bảo
vệ an ninh...
Thế giới đông vật xung quanh chúng ta vô cùng phong phú và đa dạng.
Chúng đa dạng về số loài , kích thước cơ thể, lối sống và môi trường sống. Hiện
nay con người có thể biết khoảng 1,5 triệu loài từ loài có kích thước hiển vi đến
loài có kích thước to lớn.
● Sự phân biệt giữa động vật và thực vật
Động vật và thực vật là hai nhóm sinh vật chủ yếu và quan trọng nó vô
cùng phong phú và đa dạng. Song giữa chúng cũng cần có sự phân biệt ranh giới
rõ ràng.
Động vật phân biệt với thực vật ở chỗ: Tế bào động vật không c ó thành
phần xenlulozo, động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, động vật có khả năng di
chuyển, động vật có hệ thần kinh, giác quan...
21


Ngày nay, động vật và thực vật vẫn đóng vai trò quan trọng trong giới
sinh vật và tự nhiên và từ đó hình thành nên nhiều ngành khoa học rất khác nhau
nghiên cứu về chúng.
1.3.1.2 Yếu tố triết học trong vấn đề về sự sống
Qua quá trình tìm hiểu và lý giải về nguồn gốc và bản chất của sự sống.
Chúng ta có thể nhận thấy rõ yếu tố triết học trong vấn đề về sự sống. Điều ấy
được thể hiện ở chỗ:
Sự sống trên trái đất được hình thành từ chính trên trái đất và là kết quả
vận động lâu dài của vật chất phát triển đến một trình độ nhất định.
Bản chất của sự sống là một hình thái vận động của vật chất, nó được hình

thành từ một tổ hợp các yếu tố vật chất chứ không phải yếu tố tinh thần hay một
lực lượng siêu nhiên nào tạo ra.
Quá trình hình thành sự sống là một quá trình phát triển và biến đổi lâu
dài từ những chất vô cơ để tạo ra các chất hữu cơ, từ các hữu cơ đơn giản cho
đến các hữu cơ phức tạp rồi đến các đại phân tử và hệ đại phân tử. Sự chọn
lọc hệ đại phân tử protein và a xít nucleic đã dẫn tới sự hình thành sự sống
đầu tiên.
Quá trình trao đổi chất giữa hệ sống với môi trường bên ngoài. Điều này
cho thấy mối liên hệ hữu cơ, vốn có giữa cơ thể sống với tự nhiên, giữa con
người với môi trường xung quanh. Những chất sống khi tách khỏi môi trường
sống bên ngoài thì không thể tồn tại với tính chất là sự sống nữa. Như vậy, sự
sống trên trái đất hết sức phong phú và đa dạng và giữ chúng với môi trường
xung quanh có mối liên hệ phổ biến với nhau.
Như vậy, tất cả những vấn đề có liên quan đến sự sống nêu trên đều thể
hiện rõ nét và tuân theo các nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật Mácxít và mang một ý nghĩa triết học hết sức quan trọng. Điều này cũng
đồng thời cho thấy mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa triết học với
khoa học tự nhiên nói chung và với sinh học nói riêng.
1.3.2 Vấn đề về sinh thái học nhân văn và yếu tố triết học trong sinh
22


thái học nhân văn
Vấn đề con người là một vấn đề trọng yếu được xã hội loài người ở mọi
thời đại quan tâm. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và
mặt sinh học , con người vốn có nguồn gốc sinh học , đã dần thoát khỏi giới tự
nhiên để sống trong xã hội nhân văn và mang bản tính xã hội. Con người đã trở
thành nhân tố chi phối, với tham vọng là khai thác và thống trị thế giới tự nhiên
Ngày nay, tác động của con người lên tự nhiên đã trở nên khốc liệt và hệ
sinh thái nhân văn đang phải đối mặt với hang loạt vấn đề khủng hoảng môi

trường sâu sắc như hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên, nước biển dâng cao, an
toàn lương thực và năng lượng… Đây cũng là yêu cầu cấp thiết mà con người trí
tuệ sống trong xã hội nhân văn cần phải giải quyết. Tiếp tục phát triển hay tiêu
vong, xã hội nhân văn đang đứng trước giai đoạn phát triển của trí tuệ quyển.
Lúc này, xã hội loài người đang thực hiện bước chuyển hóa thay đổi về chất,
tiến đến sự tự nhận thức. Trí tuệ quyển chỉ trở thành hiện thực khi con người trở
thành yếu tố xây dựng và sống hài hòa theo quy luật của tự nhiên. Giờ đây con
người đang có xu hướng trở lại sống hài hòa với giới tự nhiên trong hệ sinh thái
nhân văn.
Đây cũng là những vấn đề thể hiện yếu tố triết học rõ nét và có tính thời
đại của sinh thái học nhân văn.
1.3.2.1 Sinh thái học nhân văn
1.3.2.1.1 Sinh thái học
● Khái niệm sinh thái học
Thuật ngữ sinh thái học ( Ecology ) có nguồn gốc từ chữ Hi Lạp, gồm hai
phần là “ Oikos ” chỉ nơi sống và “ Logos ” là học thuyết.
Như vậy, sinh thái học là học thuyết về nơi sinh sống của sinh vật. Nếu
hiểu theo nghĩa hẹp thì Sinh thái học là khoa học về nơi ở. Còn nếu phát triển
rộng hơn thì đây là khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh vật có thể là một
nhóm hay nhiều nhóm sinh vật với môi trường xung quanh.
● Đối tượng của sinh thái học
23


Sinh thái học là một khoa học trẻ. Ban đầu nó chỉ là một số nghiên cứu cơ
bản về các cá thể sinh vật hoặc là quần thể và quần xã tự nhiên. Từ những năm
năm 50 của thế kỷ XX đến nay, nó đã trở thành một lực lượng sản xuất và góp
phần đáng kể để đưa năng xuất, chất lượng, sản lượng cây trồng và vật nuôi lên
ngày càng cao.
Khoa học sinh thái đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề gắn liền với thực

tế sản xuất, nghiên cứu các hệ sinh thái sản xuất, nuôi trồng và hệ sinh thái của
nhân văn, trong hoàn cảnh tự nhiên và trong cuộc sống hang ngày hoặc trong
môi trường của vũ trụ.
Sinh thái học còn nghiên cứu các hệ sinh thái bị ô nhiễm, suy kiệt và tìm
ra các phương pháp bảo vệ môi trường, môi sinh trong phạm vi quốc gia, một
vùng hay rộng hơn là toàn sinh quyển và cả vũ trụ
Sinh thái học nghiên cứu mối quan hệ sinh vật với môi trường sống xung
quanh, hay cụ thể hơn là nghiên cứu sinh học của nhóm cá thể và các quá trình
chức năng thực hiện ở bên trong môi trường của nó.
Như vậy, có thể nói, đối tượng của sinh thái học đó là tất cả các mối liên
hệ giữa cơ thể sinh vật với môi trường xung quanh. Sinh thái học đồng thời
nghiên cứu các hệ sinh thái nhân tác mà trong đó con người là tác nhân tàn phá
thiên nhiên, nhưng cũng là người kiến tạo thiết kế lại các hệ sinh thái theo nhu
cầu mới. Bằng những khoa học kiến thức hiện đại, con người có thể khống chế
và điều khiển sự phát triển của hệ sinh thái theo hướng có lợi và phục vụ nhu
cầu của sinh vật cũng như cuộc sống của con người.
● Vai trò của sinh thái học
Ngày nay, sinh thái học đã và đang có những đóng góp to lớn cho nền văn
minh nhân loại trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn cụ thể là:
Sinh thái học giúp chúng ta ngày càng hiểu biết sâu về bản chất của sự
sống trong mối tương tác với các yếu tố của môi trường cả thời điểm hiện tại và
trong quá khứ, trong đó bao gồm cuộc sống và sự tiến hóa của con người.
Sinh thái học còn tạo nên những nguyên tắc và định hướng cho hoạt động
24


×