Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

GIÚP HỌC SINH TIỂU HỌC TỰ TIN TRONG GIAO TIẾP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ..........
TRƯỜNG ..........................
-----------------------

CHUYÊN ĐỀ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
TỰ TIN TRONG GIAO TIẾP

Giáo viên thực hiện:………………..
Tổ chuyên môn :
Đơn vị : …………………………………….


CHUYÊN ĐỀ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
TỰ TIN TRONG GIAO TIẾP
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn chuyên đề
Trong cuộc sống xã hội, quan hệ giữa người với người, quá trình hoạt động
trong mọi lĩnh vực, giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng. Con người có thể giao tiếp
với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện thông thường và quan trọng
nhất là ngôn ngữ. “Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc
nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, sự cộng tác giữa các thành viên trong xã hội”.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày
càng được nâng cao.Tuy nhiên, vấn đề mà giáo dục và xã hội quan tâm trong thời
gian qua đó là văn hoá ứng xử, khả năng giao tiếp trong cuộc sống của giới trẻ,
trong đó có học sinh, còn nhiều hạn chế. Vì thế, nhà trường là nơi tổ chức giáo dục
và định hướng đúng đắn cho học sinh, phải là nền tảng vững chắc và trang bị cho
các em kỹ năng giao tiếp trở thành kỹ năng sống trong học tập khi ở nhà trường và


cuộc sốngngoài xã hội sau này.
Rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh ở tiểu học trong những năm qua đã
được các cấp quản lý giáo dục, các trường, đội ngũ giáo viên cũng như cộng đồng
quan tâm tuy nhiên hiệu quả rèn luyện chưa cao. Hiện nay, việc rèn kỹ năng giao
tiếp cho học sinh tiểu học vẫn còn nhiều hạn chế. Do việc rèn kỹ năng giao tiếp
phần lớn thực hiện bằng việc giáo dục lý thuyết trên lớp học và khoán trắng cho
giáo viên Tổng phụ trách Đội chỉ tổ chức hoạt động theo chủ đề, chủ điểm nên các
em ít được tham gia các hoạt động tập thể khác. Cùng với nhiều lý do từ phía gia
đình và xã hội, nên còn một số ít học sinh chưa tiến bộ trong kỹ năng giao tiếp cần
thiết..
Từ những hạn chế nêu trên, qua thực tế công tác, tôi luôn có suy nghĩ làm thế
nào để trau dồi khả năng giao tiếp cho các em.Tôi xin chia sẻ với quý thầy cô :
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
TỰ TIN TRONG GIAO TIẾP

II. Mục đích


Với chuyên đề này, bản thân tôi muốn đưa ra một số biện pháp giáo dục tích
cực để giúp cho những học sinh có tiến bộ rõ rệt hơn, tốt hơn trong giao tiếp góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện nhân cách cho HS tiểu học hiện nay.
III. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Chuyên đề được nghiên cứu và áp dụng tại trường………. trong những năm
qua, đặc biệt là từ năm học 2016 -2017.
IV. Phương pháp sử dụng để nghiên cứu chuyên đề
Để hoàn thành được chuyên đề này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc , phân tích các tài liệu có liên quan đến
vấn đề rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học.
- Phương pháp điều tra :
+ Lấy ý kiến học sinh để thu thập thông tin nghiên cứu nhằm đưa ra cơ sở thực

tiễn.
+ Điều tra thực trạng việc áp dụng phương pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học
sinh.
+ Sử dụng phiếu điều tra ANKET nhằm lấy số liệu đo lường học sinh và giáo
viên.
- Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò chuyện với giáo viên, học sinh để tìm
hiểu nhận thức như thế nào về vai trò, ý nghĩa của việc giao tiếp trong cuộc
sống hàng ngày.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ và quan sát giờ dạy của giáo viên, quan sát thái
độ và khả năng nhận thức của học sinh trong giờ học nhằm đưa ra cơ sở thực
tiễn của việc vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp.
- Phương pháp lấy ý kiến đồng nghiệp: gặp trực tiếp các giáo viên,các nhà quản
lí xin ý kiến trao đổi về những vấn đề có liên quan đến chuyên đề.
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khoa học,tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất.
- Phương pháp thống kê toán học nhằm xử lí số liệu điều tra và kết quả thực
nghiệm.
B. NỘI DUNG

I. Những cơ sở thực hiện chuyên đề.
1. Cơ sở lí luận:
Từ xưa đến nay, ông cha ta luôn đề cao việc giáo dục lời nói trong giao tiếp
“Học ăn, học nói, học gói, học mở”.Trong nhà trường áp dụng phương châm “Tiên
học lễ, hậu học văn”.Trong nhà trường không chỉ dạy các em viết, thực hành trên


giấy mà còn dạy các em biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một việc
làm vô cùng quan trọng.
Giao tiếp đóng vai trò quan trọng hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình
học.Vì vậy, trong dạy học người giáo viên cần phải rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho

học sinh để các em có điều kiện và cơ sở học tốt các môn khác, đáp ứng được yêu
cầu của giáo dục hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2016-2017, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4 và làm
tổ phó chuyên môn ,trên cơ sở tìm hiểu về học sinh trong lớp tôi và học sinh toàn
khối là 175 em tôi thấy có một thực tế đáng quan tâm là khả năng giao tiếp còn
hạn chế. Hơn nữa, một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi đông người nên còn nhút
nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu chưa tự tin, một số em nói năng cộc lốc, không biết
diễn đạt hết ý của mình.
Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và thực trạng
của lớp mình cũng như toàn khối như vậy , tôi đã đề ra Một số biện pháp góp
phần nâng cao hiệu quả kĩ năng giao tiếpcho học sinh lớp 4 trường Tiểu học
Lũng Hòa.

II. Đặc điểm tình hình chung
1. Thuận lợi:
Trường Tiểu học Lũng Hoà có 28 lớp với 992 em học sinh, khối 4 có 6 lớp
với 175 học sinh.
- Đa số học sinh gần trường, thuộc địa phương
- Hầu hết học sinh có tính kỉ luật cao, ngoan hiền lễ phép với thầy cô, biết vâng
lời cha mẹ. Tích cực tham gia phong trào do Đoàn, Đội, nhà trường tổ chức
- Cơ sở vật chất của trường khá đầy đủ : số lượng phòng học, chất lượng mỗi
phòng và trang bị cho mỗi phòng học khá tốt
- Luôn nhận được sự quan điểm chỉ đạo kịp thời của Ban giám hiệu nhà trường.
- Giáo viên đã tích cực sáng tạo đầu tư nghiên cứu kĩ tài liệu hướng dẫn học nên
giờ dạy và chất lượng giáo dục đạt tốt.
- Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo trong và ngoài nhà trường chu đáo và sự
nhiệt tình phối hợp giữa phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm .
2. Khó khăn:
- Một số lớp vẫn còn một số học sinh chưa chăm học, chưa tự giác học tập, khả

năng nhận thức hạn chế, kĩ năng giao tiếp còn chưa tốt. Các em chưa mạnh dạn
trong việc hợp tác trong khi hoạt động nhóm, chưa biết chia sẻ trong học tập nên


hiệu quả học tập chưa cao. Việc tham gia đánh giá bạn và tự đánh giá bản thân
chưa trở thành thói quen thường nhật, kĩ năng giao tiếp trao đổi kém.
- Bố mẹ đi làm xa thường phó mặc việc chăm sóc giáo dục cho nhà trường, chưa
quan tâm đến tâm sinh lí hàng ngày của con cái. Nhiều gia đình quan tâm chiều
chuộng con thái quá dẫn tới con hư, nói năng xưng hô tuỳ tiện không biết lễ phép
trên dưới.
- Nhiều giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, chưa thực sự
gần gũi chia sẻ, động viên các em, chưa chú ý giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học
sinh.

III. Một số nguyên nhân khiến trẻ hạn chế trong giao tiếp
1. Nguyên nhân 1: Mặc cảm vì sức khỏe, ngoại hình của mình.
Mỗi con người sinh ra là một thực thể riêng biệt, không ai giống ai, do đó
ngoại hình của mỗi người cũng có nhiều khác biệt. Tuy nhiên,học sinh còn nhỏ
chưa hiểu được điều này nên nhiều em quá nhạy cảm với ngoại hình “kém hoàn
hảo” của mình và trở nên tự ti. Những bé hơi mập mạp hoặc béo phì sẽ cảm thấy
xấu hổ vì thường bị bạn bè châm chọc chế giễu, trong khi những trẻ gầy gò và thấp
nhỏ lại thường sợ sệt vì bị các bạn lớn hơn bắt nạt. Một số trẻ bẩm sinh có hàm
răng không đều hoặc xỉn màu cũng trở nên ngại giao tiếp và ít khi cười vì sợ mọi
người chú ý.
2. Nguyên nhân 2: Sợ sai, sợ thất bại.
Sợ sai, sợ thất bại là một cảm giác thường gặp ở trẻ nhỏ. Đặc biệt với những
trẻ có sức học trung bình, thường bị điểm kém hoặc bị cô giáo khiển trách thì nỗi
sợ này càng lớn, trẻ sẽ không dám giơ tay phát biểu trên lớp và không tự tin trả lời
mỗi khi được hỏi.
Nếu bố mẹ vì thấy con học kém lại thường xuyên đánh mắng, dùng từ ngữ nhiếc

móc nặng nề, so sánh con kém cỏi hơn các bạn thì sẽ càng khiến trẻ bị tổn thương
tâm lý, cảm thấy mình không được yêu thương và càng khép mình hơn, từ đó hình
thành vòng luẩn quẩn của sự tự ti.
3. Nguyên nhân 3 :Ít được giao tiếp, hoạt động ngoài trời.
Ít được hoạt động ngoài trời cũng làm cho trẻ ngại giao tiếp.Có nhiều trẻ khi
ở nhà thì rất tự tin, hoạt bát, nói nhiều nhưng khi ra ngoài lại nhút nhát, ít nói, bám


dính lấy bố mẹ. Nguyên nhân là vì trẻ được bố mẹ bảo bọc quá mức, suốt ngày
loanh quanh trong nhà “con hát, mẹ khen hay” nên điều kiện tiếp xúc và giao tiếp
bên ngoài quá ít ỏi, dẫn đến tâm lý sợ sệt và khó thích nghi với người lạ hay môi
trường không quen thuộc.
4. Nguyên nhân 4: Quá phụ thuộc vào cha mẹ.
Một số trẻ ở nhà được nuông chiều quá mức, không phải động tay động chân
vào bất cứ việc gì, từ những việc nhỏ nhất như vệ sinh cá nhân, mặc quần áo, buộc
dây giày cũng có ông bà, bố mẹ làm hộ, dẫn đến thói quen ỷ lại và thụ động trong
mọi việc. Tới khi ra ngoài, ai hỏi gì con bố mẹ cũng “đỡ lời”, trả lời hộ, lâu dần
khiến trẻ ngày càng bị hạn chế khả năng ngôn ngữ trong giao tiếp.
5. Nguyên nhân 5: Cuộc sống gia đình bất ổn.
Cuộc sống gia đình bất ổn cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến tâm lý trẻ
thơ như những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt cha mẹ phạm tội, cha mẹ không
chung sống với nhau hoặc cha mẹ thường gây gổ cãi vã trước mặt trẻ… Vì vậy, khi
tiếp xúc với mọi người, trẻ sẽ nghĩ về hoàn cảnh của gia đình mình, cảm thấy xấu
hổ hoặc mặc cảm nên không thấy được tự tin, mạnh dạn như những trẻ khác.

LỚP

Dưới đây là bảng số liệu điều tra tình hình giao tiếp của học sinh khối lớp 4
Trường Tiểu học Lũng Hòa đầu năm học 2016
Nguyên % Nguyên % Nguyên %

Nguyên
% Nguyê %
nhân 1
nhân 2
nhân 3
nhân 4
n nhân
TS
5

4A

30

4

4B

28

3

4C

30

4

4D


29

5

4E

28

3

4G

30

6

13.
3
10.
7
13.
3
17.
2
10.
7
20

16
14

17
12
15
12

53.
4
50

8

26.7

1

3.3

1

3.3

8

28.6

2

7.1

1


3.6

56.
6
41.
4
53.
6
40

5

16.7

2

6.7

2

6.7

10

34.5

1

3.4


1

3.4

7

25

2

7.1

1

3.6

10

33.3

0

0

2

6.7



175

25

14.
3

86

49.
1

48

27.4

8

4.6

8

IV.Các biện pháp khắc phục
1. Biện pháp thứ nhất: Nắm tình hình học sinh qua bàn giao công tác chủ
nhiệm sau đó nhanh chóng phân loại khả năng giao tiếp của học sinh và tìm
nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ
* Cần lập kế hoạch chủ nhiệm – hình thành ban cán sự lớp, biên chế tổ học
tập, đôi bạn học tập theo tình hình chất lượng lớp, tạo điều kiện cho các em được
học tập lẫn nhau. Chia sẻ điều này với đồng nghiệp trong khối cùng giúp đỡ
Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm và qua một tháng giảng dạy tôi đã bắt

đầu theo dõi và phân loại học sinh theo các nhóm sau:
1. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời
nói biểu cảm trong giao tiếp.
2. Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên, chưa
thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
3. Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như
không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, thậm chí ít nói
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh trong lớp,
tôi tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học
sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.
Ưu điểm của biệp pháp này: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học
tập là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn”
Trong quá trình học tập đua thầy, đua bạn sẽ giúp các em mạnh dạn, năng
động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói.Sự giúp đỡ động viên của
các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp các em tự tin hơn trước lời phát biểu của
mình.
2. Biện pháp thứ hai : Gần gũi tạo mối quan hệ thân thiết với học sinh
Có một lần cô bạn đồng nghiệp của tôi có nói “Cô nào thì trò nấy, muốn thay đổi
học sinh thì chính bản thân mình phải thay đổi”.Nghe xong câu nói ấy tôi như tìm
được hướng đi cho mình.Và tôi đã cố gắng nhiều thật nhiều để thay đổi bản thân.Sự
thay đổi bản thân là một biện pháp giúp tôi thành công rèn các em mạnh dạn.

4.6


Nói chuyện, động viên giúp đỡ các em còn e dè , tự ti về đặc điểm ngoại hình
của mình vô tư hoà nhập hơn. Trong lớp, giúp đỡ nhau đoàn kết và thân thiện tránh
chê bai,chế nhạo bạn, không ỷ lớn bắt nạt bé. Sự gần gũi thân thiết với học trò còn
được thể hiện trong việc học cùng học chơi cùng chơi với các em. Tôi cho đây là
một biện pháp rất tích cực và đem lại nhiều thành công lớn thay đổi rõ rệt kĩ năng

giao tiếp của các em

(Hình ảnh)

Cô giáo tham gia chơi cùng học sinh


Làm như vậy tôi đã thấy mình đã xóa được bức tường ngăn cách giữa cô và
trò.Các em không còn sợ sệt nữa và đã mạnh dạn chia sẻ những tâm tư tình cảm
của bản thân mình trong cuộc sống với tôi.
Tôi không thể nào quên được lời chia sẻ của em Nguyễn Thị Linh – lớp 4C. Em
nói:“Cô ơi! bố em mất lâu rồi cô ạ. Nếu mẹ em đi lấy chồng thì em chẳng biết ở
với ai. Nếu có một điều ước thì em chỉ ước bố em sống lại để cho em đỡ khổ
thôi”.Nói đến đây em gục mặt xuống bàn và khóc nức nở.Trong cổ họng tôi lúc
này nghèn nghẹn không nói lên lời. Cũng là trẻ thơ mà sao tạo hóa lại ban cho em
một cuộc sống nghiệt ngã đến vậy? Còn nhiều và nhiều những lời tâm sự nữa của
các em tôi không sao kể hết.Các em đáng thương lắm vậy mà trước đây tôi đã
không lắng nghe để chia sẻ với các em.Thậm chí quát mắng các em. Qua đây tôi đã
hiểu được rằng: muốn thay đổi được học trò của mình thì trước hết phải hiểu và gần
gũi với chúng. Đồng thời phát huy những năng lực sở trường của các em thì chúng
mới mạnh dạn lên được.Với tôi “gần gũi và tạo mối quan hệ thân thiện với học
sinh” là biện pháp rất quan trọng để tôi rèn kĩ năng cho học sinh mạnh dạn ở lớp
tôi chủ nhiệm.Học trò quý mến tin tưởng tôi, đã tâm sự với tôi những niềm vui nỗi
buồn, trong học tập hay trong cuộc sống. Từ những bài toán khó đến chuyện cãi cọ
nhau với bạn hay cả việc hôm nay bị bố mẹ trách mắng


Cô giáo tâm sự và chia sẻ với học sinh
Từ việc chia sẻ hỗ trợ kịp thời những điều trong cuộc sống của các em, tôi đã
tìm được biện pháp rèn học sinh lớp tôi mạnh dạn trong các tiết học cũng như trong

các hoạt động.
Nhiều trò vẫn được gia đình quá nuông chiều, chưa phải động tay chân làm việc gì
cũng khá sôi nổi trong các hoạt động khác cùng cô và các bạn, thậm chí rất vui và
tích cực.


3. Biện pháp thứ ba: Đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học là dạy và học theo hướng tích cực chủ động, sáng
tạo trong đó học sinh phải tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến
thức mới theo sự tổ chức và hướng dẫn hợp lý của giáo viên trong môi trường giáo
dục thích hợp nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục của bậc học, của môn học, của
bài học.
Một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp là đưa các hình thức dạy
học mới vào trong từng bài học. Vì thế, để rèn kỹ năng giao tiếp cho các em, tùy
từng bài học lựa chọn hình thức dạy học phù hợp.
Ví dụ: - Thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có ích trong việc hình thành cho
học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ. Vì vậy, đối với
các môn học mục tiêu là rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh tôi thường vận dụng
hình thức này như đối với phân môn Tập làm văn khi thực hành các yêu cầu như:
Tự tổ chức cuộc họp tổ, nhóm ;trình bày bài làm miệng trước lớp... Tôi thường
cho học sinh thảo luận nhóm đôi để thực hiện bài tập, sau đó các nhóm trình bày
kết quả thảo luận của nhóm mình. Làm như vậy học trò tự tin hơn không sợ sai,
không sợ thất bại
- Trò chơi học tập:


Trò chơi học tập là hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là
những em ngại nói, tức là ngại giao tiếp, trò chơi học tập sẽ làm cho các em hứng
thú hơn trong học tập. Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá

nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và tinh thần hợp
tác. Trò chơi tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn
thiện kỹ năng giao tiếp của chính mình.
Các trò chơi học tập có thể tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra chơi
hoặc giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học. Qua các trò chơi
này, học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó sẽ nhớ
bài và vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày.
Ví dụ: Một học sinh kể về gia đình mình, quê hương mình… học sinh khác
làm phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả lớp. Nội dung giới thiệu phải
chính xác, cách giới thiệu rõ ràng. Cho nhiều học sinh làm phóng viên, sau đó bình
chọn phóng viên giỏi nhất.
Ngoài ra, có một số hoạt động trên lớp học tôi cũng nhận được những kết quả khá
tích cực và khả quan .Trong những giờ học chính tôi cũng cho các em trải
nghiệm.Trong tiết tập đọc tôi cho các e trải nghiệm làm thầy làm cô và lúc này
tôi chỉ như là một học sinh của các em để đưa ra câu hỏi định hướng hay câu
hỏi chốt bài. Một tiết tập đọc có tương đối nhiều hoạt động tôi đã cho học sinh lựa
chọn theo năng lực và sở thích. Tôi quan sát thấy khi học sinh điều hành hoạt động
luyện đọc các em chú ý lắng nghe bạn đọc vô cùng. Các em phát hiện ra những chỗ
bạn đọc sai từ hay bỏ từ, đọc diễn cảm... rất nhiều. Đều đó chứng tỏ khi các em
được trải nghiệm làm thầy làm cô thì học sinh còn hình thành được kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng tôn trọng và đánh giá, nhận xét người khác. Mục đích tôi cho các em
trải nghiệm được làm thầy làm cô ngoài vệc rèn kĩ năng cho các em tôi còn muốn
định hướng nghề nghiệp sau này cho học sinh và gieo những ước mơ hoài bão cho
các em ngay từ khi còn ngồi trên nghế nhà trường Tiểu học - ước mơ “Trở thành
những thầy cô giáo trong tương lai”.


Một học sinh đang điều hành một hoạt động của tiết Tập đọc
Trong những tiết sinh hoạt lớp, ngoài những việc đánh giá nhận xét tôi đã
cho các em thể hiện sở trường của mình trước lớp.Có em thì thích hát, có em thì vẽ,

có em thì thích nhảy khiêu vũ... và đây có lẽ là thời gian mà các em mong chờ nhất
sau một tuần.Khi được lên trình diễn sở thích của mình các em thích lắm.Tôi có
cảm giác các em đã bóc được cái lớp vỏ nhút nhát của mình mà thể hiện hết tài
năng của mình.Trong buổi chào cờ tuần tôi trực ban, các em đã biết diễn kịch trước
toàn trường.Những lời nhận xét khô khan đã biến thành một tiểu phẩm. Ban đầu tôi
lo các em không diễn được nhưng các em đã làm rất tốt. Được làm nhiều được nói
nhiều thì dần các em sẽ hình thành thói quen và không còn mất bình tĩnh khi nói
trước đông người.Ngoài ra tôi cũng cho các em giải câu đố, hát đố.... và tự tổ chức
một trò chơi cho các bạn trong lớp, trường.Như vậy kĩ năng nói trước đông người
của học sinh sẽ được hình thành.


4. Biện pháp thứ tư : Động viên khen thưởng
Năm học 2016 – 2017 tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động của ngành “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” - Tạo không khí lớp học thân
thiện, cởi mở là một trong năm nội dung của cuộc vận động. Trong mọi tiết dạy, tôi
luôn gần gũi, động viên các em, quan tâm hơn đến những em ít nói, thụ động,
những câu hỏi dễ thường dành cho những em đó trả lời để các em cùng tham gia
nói, tạo sự tự tin trong các em. Đối với những em khá giỏi, tôi khuyến khích gợi
mở bằng những câu hỏi khó hơn một chút để các em mạnh dạn trình bày ý kiến của
mình, kích thích sự hứng thú ham học giỏi của các em.
Đôi khi phần thưởng dành cho các em chỉ là lời khen, tràng vỗ tay nhưng những
học trò nhút nhát cũng khá vui và tự hào vì điều mình làm được. Có những trò mắc
lỗi tôi nhắc nhở, phân tích chỉ rõ đúng sai, không quát nạt trách móc nặng lời
5. Biện pháp thứ năm: Thành lập Câu lạc bộ năng khiếu
Để thành lập các Câu lạc bộ, đầu tiên tôi phối hợp với Tổng phụ trách Đội,
giáo viên dạy các môn năng khiếu (Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục), giáo viên chủ
nhiệm lớp chọn những học sinh có năng khiếu từng lĩnh vực, bộ môn qua các giờ
học chính khóa của các môn năng khiếu.
Các Câu lạc bộ năng khiếu được thành lập: Câu lạc bộ bóng đá, Câu lạc bộ đá

cầu, Câu lạc bộ cờ Vua, Câu lạc bộ văn nghệ, Câu lạc bộ vẽ tranh….Được các em
tích cực hưởng ứng.


Khi có nhân sự của các Câu lạc bộ, phân công Tổng phụ trách Đội xây dựng
kế hoạch hoạt động 2 tuần/lần cho từng Câu lạc bộ, một số quy định của Câu lạc
bộ.Trong quy định có nội dung về cách xưng hô, tinh thần hợp tác giữa các thành
viên trong Câu lạc bộ với nhau.

6. Biện pháp thứ sáu :Phối hợp quan hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh
Học sinh ít nhiều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự giao tiếp trong gia đình, chịu
ảnh hưởng của truyền thống văn hoá của gia đình. Hiện nay không ít học sinh được
cưng chiều thái quá của ông bà , bố mẹ nên đã trở nên ngang ngược. Vì thế phối
hợp giữa giáo viên và phụ huynh là vô cùng quan trọng. Giáo viên cùng bố mẹ các
em phải giúp các em hiểu được giao tiếp cần có giữa các mối quan hệ như giao tiếp
trong gia đình là “Kính trên – nhường dưới” nên cần phải biết xưng hô phù hợp, lễ
phép và kính trọng người lớn, vâng lời giúp đỡ bố mẹ, biết nhường nhịn em nhỏ,
biết tối thiểu những tình huống giao tiếp ứng xử với gia đình và mọi người.
Với giáo viên, trong các cuộc họp phụ huynh học sinh tôi luôn đề cao việc học tập
và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, cùng với phụ huynh thường xuyên kiểm tra bài
làm và cũng như sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.Sự chuẩn bị bài của các em, đã
làm cho các em tự tin hơn khi phát biểu bài trước lớp. Hơn nữa phụ huynh là người
tiếp xúc nhiều nhất với các em khi ở nhà, người trực tiếp dạy dỗ chỉ bảo các em
từng lời ăn tiếng nói khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, nhất là ở hàng xóm
láng giềng, phụ huynh cần nhắc nhở các em nói năng lễ phép và mạnh dạn hơn.
Có thể mời Ban đại diện cha mẹ học sinh và các tổ chức đoàn thể trong, ngoài nhà
trường tham dự khi nhà trường triển khai kế hoạch, mục tiêu việc thành lập Câu lạc
bộ.
Mời Ban đại diện cha mẹ học sinh, cộng đồng khi nhà trường tổ chức thực
hiện các hoạt động nhân dịp hội thao, tổ chức hoạt động ngoại khóa.



V. KẾT QUẢĐẠT ĐƯỢC
Qua thời gian rèn luyện cho các em kết hợp với các biện pháp như đã nêu ở
trên, lớp tôi cùng các giáo viên khối 4 đã đạt được những kết quả đáng kể như sau:
- Đa số các em có khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt, các
em nhận thức được cần lễ phép với mọi người trên, phải xưng hô đúng cách, biết
nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp. Nói chung khả năng giao tiếp của các em đạt yêu
cầu.
- Kết quả cụ thể:

LỚP

4A
4B
4C
4D
4E
4G

Dưới đây là bảng số liệu điều tra tình hình giao tiếp của học sinh khối lớp 4
Trường Tiểu học Lũng Hòa cuối học kì I năm 2016
Nguyên % Nguyên % Nguyên % Nguyên % Nguyên %
nhân 2
nhân 3
nhân 4
nhân 5
TS nhân 1
30
28

30
29
28
30
175

1
0
1
2
0
2
6

3.3
0
3.3
6.8
0
6.7
3.4

6
4
6
5
4
5
30


20
14.3
20
17.2
14.3
16.7
17.1

4
6
0
3
4
6
23

13.3
21.4
0
10.3
14.3
20
13.1

0
1
1
0
4
0

6

0
3.6
3.3
0
14.3
0
3.4

0
0
1
1
1
1
4

C. KẾT LUẬN
Một bàn tay thì không thể tạo nên tiếng vỗ. Vì vậy, muốn học sinh mạnh dạn
tự tin trong giao tiếp theo tôi nghĩ thì trước hết người thầy phải mạnh dạn để chỉ
đường dẫn lối cho các em. Từ đó phải tạo cơ hội cho các em được nói được chia sẻ
trong mọi tiết học cũng như trong tất cả các hoạt động ngoại khóa..
Đây là một số trăn trở của tôi khi thực hiện công tác giảng dạy của mình
nhằm rènkĩ năng giao tiếp cho học sinh,rèn sự mạnh dạn tự tin, cũng là một trong
những băn khoăn của rất nhiều giáo viên là làm sao giúp cho học sinh của mình
cùng dễ dàng tham gia vào quá trình rèn kỹ năng giao tiếp, qua việc các em tự diễn

0
0

3.3
3.4
3.6
3.3
2.3


đạt, trao đổi những cảm nghĩ, xúc cảm, tình cảm của mình trước một sự kiện, việc
làm nào đó…Làm được như thế chúng ta đã góp phần nho nhỏ thực hiện thành
công trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục hiện nay.Rất mong nhận
được sự chia sẻ, đóng góp của các đồng nghiệp để nhà trường có thể vận dụng
chuyên đề trong quá trình giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

PHIẾU ĐIỀU TRA ANKET DÀNH CHO HỌC SINH KHỐI 4
TRƯỜNG TIỂU HỌC LŨNG HOÀ
(Phiếu được sử dụng để tìm hiểu những hạn chế trong giao tiếp của học sinh)
Các em hãy hoàn thành các câu hỏi sau . Khoanh tròn vào lựa chọn của em
Câu 1: Trong giờ học em có giơ tay xây dựng bài không ?
a Thường xuyên
b Bình thường
c Ít
Câu 2: Em có hay chào hỏi mọi người không?
a Thường xuyên
b Bình thường
c Ít khi


Câu 3: Khi chưa hiểu bài em có mạnh dạn nhờ thầy cô hoặc bạn bè giảng lại
bài không?

a Thường xuyên
b Bình thường
c Ít khi
Câu 4 : Em có thường xuyên trò chuyện tâm sự với thầy, cô giáo của mình
không ?
a Thường xuyên
b Bình thường
c Ít khi
Câu 5: Ở nhà em có hay trò chuyện trao đổi với bố mẹ anh chị em của mình
không ?
a Thường xuyên
b Bình thường
c Ít khi
Câu 6 : Em có thích tham gia các hoạt động ngoại khoá của trường, lớp em
không ?
a Thích
b Bình thường
c Không thích
Câu 7:Nêu những suy nghĩ của em khi nhà trường , Đoàn Đội tổ chức các hoạt
động ngoại khoá?
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….............



×