Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

giáo án bồi dưỡng ngữ văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.14 KB, 122 trang )

Trường THCS Ngọc Sơn
Nhóm Văn - GDCD
KHUNG PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 8.
Năm học 2016 - 2017
Cả năm: 25 buổi

KHUNG PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH BD HSG NGỮ VĂN 8.

TT TÊN CHUYÊN ĐỀ
1
Luyện tập kĩ năng viết đoạn văn: Cách trình bày đoạn văn và
luyện viết đoạn văn
2
Văn nghị luận: Luyện làm một số đề văn nghị luận văn học và
nghị luận xã hội.
3
Tiếng Việt: Luyện làm các bài tập tiếng Việt.
4
Các văn bản truyện, kí hiện đại Việt Nam:
- Luyện làm một số bài tập về cảm thụ một số đoạn văn trong các
văn bản đã học.
- Làm một số bài tập thuộc dạng đề mở về các vấn đề liên quan
đến tác phẩm.
- Làm một số bài tập phân tích một số vấn đề trong tác phẩm.
5
Văn bản tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm: Luyện làm một số
đề văn tự sự có kết hợp với yếu tố miêu tả và biểu cảm.
6
Văn bản nhật dụng kết hợp với dạng đề mở: Ôn lại một số kiến
thức của các văn bản nhật dụng, làm các bài tập dạng đề mở.
7


Văn học nước ngoài:
- Luyện làm một số bài tập về cảm thụ một số đoạn văn trong các
văn bản đã học.
- Làm một số bài tập thuộc dạng đề mở về các vấn đề liên quan
đến tác phẩm.
- Làm một số bài tập phân tích một số vấn đề trong tác phẩm.
8
Văn học cách mạng:
- Luyện làm một số bài tập về cảm thụ một số đoạn thơ trong các
văn bản đã học.
- Làm một số bài tập phân tích một số vấn đề trong tác phẩm.
9
Văn học trung đại:
- Luyện làm một số bài tập về cảm thụ một số đoạn thơ trong các
văn bản đã học.
- Làm một số bài tập phân tích một số vấn đề trong tác phẩm.
10 Thơ Mới
- Luyện làm một số bài tập về cảm thụ một số đoạn văn trong các
văn bản đã học.
- Làm một số bài tập thuộc dạng đề mở về các vấn đề liên quan

SỐ BUỔI
2
3
3
2

2
3
2


2

2

2

1


12

đến tác phẩm.
- Làm một số bài tập phân tích một số vấn đề trong tác phẩm.
Luyện đề.
Tổng

3
25

Ngọc Sơn, ngày 19 tháng 9 năm 2016
Duyệt của nhóm trưởng

Hoàng Thị Hồng Nhung

Duyệt của tổ trưởng

Đặng Thị Hoa

CHUYÊN ĐỀ 1 (2 buổi):


Duyệt của hiệu trưởng

Nguyễn Thị Minh

Luyện tập kĩ năng viết đoạn văn
2


I. Thế nào là đoạn văn?
Khái niệm đoạn văn ở trường phổ thông hiện nay được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Cách hiểu thứ nhất (đoạn ý): Đoạn văn được dùng với ý nghĩa để chỉ sự phân đoạn nội
dung, phân đoạn ý của văn bản. Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn: Đoạn mở đầu văn
bản, những đoạn khai triển văn bản, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh
nhất định nào đó về mặt ý, về mặt nội dung. Nhưng thế nào là một nội dung, một ý hoàn
chỉnh thì không có tiêu chí để xác định rõ ràng. Một văn bản, tuỳ theo người đọc cảm nhận
mà phân chia ra thành các đoạn, sự phân chia có thể không thống nhất giữa những người
đọc: có người chia theo ý lớn, có người chia theo ý nhỏ. Ý lớn là đoạn bài có hai hoặc ba ý
nhỏ được khai triển từ ý lớn, bao gồm hai hoặc ba đoạn văn ngắn, mỗi đoạn ngắn đó là một
ý nhỏ, các đoạn này hợp ý với nhau thành một ý lớn; ý nhỏ là ý được khai triển từ ý lớn, về
mặt nội dung chỉ triển khai theo một phương diện, một hướng cụ thể, mỗi ý nhỏ là một
đoạn.
Cách hiểu này khiến cho cách phân đoạn thiếu tính khách quan. Với cách hiểu này,
diện mạo đoạn văn không được xác định ( đoạn văn bắt đầu từ đâu, như thế nào, các câu
văn trong đoạn có mối liên kết với nhau như thế nào,…) cho nên việc xây dựng đoạn văn
trở nên khó khăn, phức tạp, khó rèn luyện các thao tác để trở thành kĩ năng kĩ xảo.
- Cách hiểu thứ hai (đoạn lời): Đoạn văn được hiểu là sự phân chia văn bản thành những
phần nhỏ, hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức: một đoạn văn bao gồm những câu văn
nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng.
Cách hiểu này không tính tới tiêu chí nội dung, cơ sở ngữ nghĩa của đoạn văn. Với

cách hiểu này, việc rèn luyện xây dựng đoạn văn càng trở nên mơ hồ, khó xác định vì đoạn
văn không được xây dựng trên một cơ sở chung nào vì hình thức bao giờ cũng phải đi đôi
với nội dung, bao chứa một nội dung nhất định và phù hợp với nội dung mà nó bao chứa.
- Cách hiểu thứ ba (đoạn văn xét thao cả hai tiêu chí về ý và về lời): Đoạn văn vừa là kết
quả của sự phân đoạn văn bản về nội dung ( dựa trên cơ sở logic ngữ nghĩa) vừa là kết quả
của sự phân đoạn về hình thức ( dựa trên dấu hiệu hình thức thể hiện văn bản).
Về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về
logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn
bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của
văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một
trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản ( các đoạn này triển
khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn
văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn
chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.
Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở
những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống
dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn
khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng
chữ khác trong đoạn.
Đây là cách hiểu hợp lí, thoả đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong
văn bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng
cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch.
II. Kết cấu đoạn văn.
3


Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu phổ
biến: quy nạp, diễn dịch, tổng phân hợp; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so sánh, nhân
quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, hỗn hợp,…
1. Đoạn diễn dịch.

Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu
đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu
triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có
thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
2. Đoạn quy nạp. Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể
nhằm hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác
minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
3. Đoạn tổng phân hợp.
Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý
khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc
hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác
giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất
nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
4. Đoạn so sánh
4.1. So sánh tương đồng.
Đoạn so sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng: so
sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn,… có nội dung tương tự nội dung đang
nói đến.
4.2. So sánh tương phản.
Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung ý tưởng:
những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống,…tương phản nhau.
5. Đoạn nhân quả.
5.1. Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần, phần trước trình bày nguyên nhân, phần sau trình bày kết
quả của sự việc, hiện tượng, vấn đề,…
5.2. Chỉ ra kết quả trước, trình bày nguyên nhân sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần. Phần đầu nêu kết quả, phần sau nêu nguyên nhân.
6. Đoạn vấn đáp.
Đoạn văn vấn đáp là đoạn văn có kết cấu hai phần, phần đầu nêu câu hỏi, phần sau trả lời
câu hỏi. Nội dung hỏi đáp chính là chủ đề của đoạn văn. Trong kiểu kết cấu này, phần sau

có thể để người đọc tự trả lời.
7. Đoạn đòn bẩy.
Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện
hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc trái với ý tưởng ( chủ đề của đoạn)
tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.
8. Nêu giả thiết.
Đoạn văn nêu giả thiết là đoạn văn có kết cấu: mở đoạn nêu giả thiết, để từ đó đề cập tới
chủ đề đoạn.
9. Đoạn móc xích.
Đoạn văn có mô hình kết câu móc xích là đoạn văn mà ý các câu gối đầu lên nhau, đan xen
nhau và được thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ ở câu trước trong câu sau.
III. Luyện viết một số đoạn văn
4


Bài tâp 1: Hãy viết một đoạn văn từ 10 đến 15 câu nêu suy nghĩ của em về các vấn đề
sau:
Bài 1: Đạo hiếu
Mở đoạn (Nêu luận điểm): Lòng hiếu thảo là một trong những phẩm chất, đọa lí tốt đẹp
của con người.Phát triển đoạn (giải thích): Lòng hiếu thảo có nghĩa là lòng kính yêu
cha mẹ, người đã có công sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Mẹ chín tháng mười ngày
mang nặng đẻ đau, cha nặng vai gánh vác nuôi nấng ta nên người. Suốt cuộc đời mẹ cha tận
tụy hi sinh không hề tính tháng tính ngày… Vậy đạo làm con phải giữ gìn chữ hiếu. Thờ
mẹ, kính cha không phải chỉ là lời nói suông mà cần được thể hiện bằng thái độ và hành
động cụ thể… Kết đoạn (chốt ý, liên hệ): Hãy giữ gìn và bồi đắp phẩm chất này bằng sự
tự giác trong suy nghĩ và hành động cụ thể.
(1) Dân tộc Việt Nam vốn coi trọng đạo lí làm người, nhất là chữ hiếu. (2) Chữ hiếu
mà ta đề cập đến chính là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ. (3) Phận là con ta phải
có bổ phận hiếu kính đối với cha mẹ vì công cha, nghĩa mẹ vô cùng to lớn. (4) Sự to lớn ấy
thể hiện trước tiên ở công sinh thành: cha mẹ là người sinh ra ta, không có cha mẹ thì

không có ta. (5) Không chỉ sinh chúng ta ra, cha mẹ còn nuôi dưỡng ta khôn lớn nên người
với bao lo toan vất vả: cơm ăn áo mặc hằng ngày, thuốc thang khi ta đau ốm, các vật dụng
ta dùng đều do công lao động vất vả và tấm lòng lo toan, yêu thương bao la của cha mẹ. (6)
Ta hiểu điều hay lẽ phải, biết cách cư xử trong gia đình, ngoài xã hội đều do công lao dạy
bảo, giáo dục của cha mẹ. (7) Ta được đi học để mở mang kiến thức trở thành người có văn
hóa cũng là nhờ công sức và tình thương của cha mẹ. (8) Vậy ta phải làm thế nào để tỏ lòng
hiếu thảo của mình đối với cha mẹ? (9) Khi còn nhỏ, ta biết vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha
mẹ những công việc nhà, cố gắng học để làm rạng danh, là niềm tự hào của cha mẹ. (10)
Khi ta trưởng thành thì cha mẹ đã già yếu, ta phải chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ với tấm
lòng quý trọng của mình. (11) Nhìn vào dân gian từ xưa đến nay có biết bao tấm lòng hiếu
thảo của con cái đối với cha mẹ làm ta cảm phục: Mục Kiều Liên, Thúy Kiều,…(12) Phát
huy truyền thống tốt đẹp đó, nhiều địa phương trong cả nước, hằng năm đều tổ chức ngày
hội vinh danh “Những người con hiếu thảo”; tổ chức trọng thể lễ Vu lan báo hiếu cha mẹ.
(13) Tuy nhiên bên cạnh những người con hiếu thảo ta vẫn thấy đây đó những đứa con bất
hiếu, đối xử tệ bạc với cha mẹ, đó là những hành vi xấu mà chúng ta cần lên án vì nó là
biểu hiện của sự suy đồi đạo đức xã hội. (14) Tóm lại, công ơn cha me là vô cùng to lớn và
vĩ đại, phận làm con chúng ta phải biết giữ tròn chữ hiếu. (15) Riêng em, em sẽ cố gắng học
tập chăm chỉ, vâng lời để cha mẹ vui lòng.
Bài 2: Lòng nhân ái
Mở đoạn (Nêu luận điểm): Lòng nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta. Phát triển đoạn (giải thích): Nhân ái là tình yêu thương giữa người với người
trong xã hội. Biểu hiện của lòng nhân ái là sự đồng cảm, sẻ chia, bảo bọc, giúp đỡ lẫn
nhau,…. Ta phải yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vì giữa mọi người đều có mối
quan hệ gắn bó mật thiết về vật chất lẫn tinh thần. lòng nhân ái được thể hiện bằng nhiều
việc làm cụ thể như …. Kết đoạn (chốt ý, liên hệ): Cách sống đẹp cần gìn giữ và phát huy
qua mọi thời đại.
(1) Từ xưa đến nay, lòng nhân ái là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, nó thể
hiện tình yêu thương giữa con người với con người trong xã hội. (2) Người Việt Nam luôn
tự hào là «Con rồng cháu Tiên» cùng sinh ra trong một bọc trứng, cùng chung một giống
nòi. (3) Bởi vậy, từ ngàn xưa, cha ông ta đã cất lên những tiếng hát đầy yêu thương: «Nhiễu

điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước thì thương nhau cùng». (4) Biểu hiện của
5


lòng nhân ái đôu khi rất đơn giản. (5) Kính trọng ông bà, cha mẹ, yêu thương, giúp đỡ anh
chị em,… là thể hiện tình thương yêu đối với những người ruột thịt. (6) Quan tâm, chia sẽ,
giúp đỡ bạn bè, đồng nghiệp cũng là yêu thương. (7) Xót xa cho những đứa trẻ mồ côi,
những người nghèo khổ hay đôi khi chỉ là cầm tay dìu một bà lão qua đường cũng là thể
hiện lòng nhân ái đối với đồng loại. (8) Mở rộng ra, chúng ta có thể yêu thương loài vật,
nâng niu từng ngọn cây, cành lá… (9) Lòng nhân ái rất cần thiết trong cuộc sống. (10) Hãy
tưởng tượng thử xem nếu thế giới này không có tình yêu thương, sẽ như thế nào nếu trái
tim chúng ta đều khép kín và băng giá ? (11) Tất cả sẽ sẽ lạnh lẽo biết bao, tất cả sẽ bị bao
trùm bởi đám mây u ám và cuộc sống sẽ vô cùng tẻ nhạt, vô vị. (12) Và mỗi con người sẽ
biến thành một ốc đảo đơn độc trong thế giới rộng lớn này. (13) Hãy mở rộng hồn mình,
hãy sưởi ấm trái tim của nhau bằng hơi ấm của tình thương, hãy chia sẻ với mọi người
những già bạn có ! (14) Giúp đỡ những người còn khó khăn đang ở ngay cạnh bạn; góp một
phần nhỏ để giúp đỡ những người đồng bào ruột thịt đang bị thiên tai hoành hành,… (15)
Làm được như vậy là bạn đang nối kết những sợi dây vô hình kéo con người xích lại gần
nhau hơn và tiếp nối truyền thống đạo ly tốt đẹp của dân tộc.
Bài tập 2: Hãy nêu suy nghĩ của em về sự kiện thành lập quỹ “ Giúp đỡ các nạn nhân
bị chất độc màu da cam” bằng một đoạn văn diễn dịch ( không quá nửa trang giấy
thi), có sử dụng phép nối.
Đoạn văn tham khảo: Cả nước đang phát động phong trào “ Góp tay xoa dịu nỗi đau da
cam” và thành lập quỹ “ Giúp đỡ các nạn nhân bị chất độc màu da cam”. Bởi trong cuộc
chiến ở Việt Nam, đế quốc Mĩ đã cho rải chất độc màu da cam để phá hoại thiên nhiên và
tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền Nam. Chất độc màu da cam đã để lại di hại cho hàng
chục vạn gia đình và hàng vạn trẻ em ra đời sau chiến tranh. Càng thương xót các nạn nhân,
chúng ta càng căn phẫn những kẻ đã gieo rắc tai hoạ trên đất nước này. Tội ác của chúng là
tội ác huỷ diệt, đi ngược lại quá trình tiến hoá của tự nhiên, chà đạp thô bạo lên quyền sống
của con người. Tội ác khủng khiếp đó đã bị nhân loại tiến bộ trên thế giới đồng thanh lên

án. Từ năm 2004 đến nay, phong trào “ Góp tay xoa dịu nỗi đau da cam” đã phát triển rrộng
rãi trên khắp đất nước ta. Hàng triệu tấm lòng, hang triệu cánh tay, hàng triệu chữ kí sẵn
sàng giúp đỡ và đấu tranh cho quyền lợi của các nạn nhân. Các cơ quan, đoàn thể, trường
học… đều nhiệt tình hưởng ứng phong trào để góp phần làm vơi bớt nỗi bất hạnh của họ.
Tình thương yêu đồng loại, tình cảm dân tộc được thể hiện rõ ràng, cụ thể qua quỹ “ Giúp
đỡ các nạn nhân bị chất độc màu da cam” với những căn nhà tình thương, những đồng vốn
cấp cho các gia đình nạn nhân để xoá đói giảm nghèo, để chữa bệnh,…Gần đây, Uỷ ban về
vấn đề nạn nhân chất độc màu da cam đã khởi kiện các công ti hoá chất sản xuất và cung
cấp cho quân đội Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Thiệt hại về vật chất lẫn
tinh thần của các gia đình nạn nhân là to lớn, không gì bù đắp được. Những việc mà chúng
ta làm cho họ dù bao nhiêu cũng vẫn là quá nhỏ, chỉ góp phần xoa dịu nỗi đau chứ không
thể nào chấm dứt những nỗi đau khủng khiếp mà họ phải chịu đựng!

CHUYÊN ĐỀ 2 (3 buổi) : VĂN NGHỊ LUẬN
I. Cách viết mở bài cho bài văn nghị luận.
1- Cung cấp lý thuyết về đoạn mở bài cho học sinh.
1.1- Khái niệm đoạn văn và đoạn văn mở bài:
6


a- Đoạn văn:
+ Hình thức: Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu
dòng đến chỗ chấm xuống dòng. Hay nói cách khác đoạn văn là phần của văn bản nằm giữa
hai chỗ chấm xuống dòng.
+ Nội dung: Đoạn văn diễn đạt một nội dung hoặc một ý trọn vẹn của một vấn
đề.
b- Đoạn văn mở bài:
Mở bài còn gọi là nhập đề, dẫn đề. Đây là phần mở đầu của một bài văn.Đoạn văn
mở bài là phần đầu tiên của văn bản, có vai trò định hướng cho toàn văn bản. Phần mở bài
chứa đựng vấn đề cần giải quyết một cách khái quát và thông báo cho người đọc phương

thức giải quyết hoặc giới hạn của vấn đề. Phần mở bài có vai trò gây dựng tình cảm thân
thiện cho người đọc, người nghe. Vì thế khi viết mở bài, thực chất là trả lời câu hỏi: em
định viết, định bàn bạc vấn đề gì?
Trả lời thẳng vào câu hỏi ấy người ta gọi là mở đề trực tiếp (còn gọi là trực khởi). Nêu vấn
đề sẽ bàn trong bài, sau khi dẫn ra một ý khác có liên quan gần gũi với vấn đề ấy, gọi là mở
bài gián tiếp (còn gọi là lung khởi). Có 2 cách mở bài:
* Mở bài trực tiếp: Mở bài trực tiếp là cách mở bài an toàn nhất, nhanh nhất, tiết kiệm thời gian nhất.
Cách này không đòi hỏi cao, tiết kiệm được thời gian. Tuy nhiên hạn chế của nó là thiếu sắc sảo, thiếu ấn
tượng. Nhưng thà như thế còn hơn là cắn mấy cái bút mà vẫn chưa mở được bài đúng không. Sau đây là
một số dạng mở bài cần học tập.

Một là: giới thiệu tác giả, tác phẩm rồi dẫn vào vấn đề của đề bài.
Hai là: Đi thẳng vào vấn đề
* Mở bài gián tiếp(giới thiệu ý dẫn nhập vào đề).Đây là cách mở bài cần có vốn kiến thức
về lý luận văn học cũng như phải có vốn văn chương kha khá. Nhất là phải đọc nhiều sách,
bụng phải có chữ nghĩa. Cách này khó nên thường thì học sinh không mấy em chuộng
(Hoặc có biết đâu mà chuộng) Chủ yếu mở bài dạng này là các em học sinh giỏi văn. Tuy
nhiên, từ đây trở đi, nếu đọc được bài viết này của thầy thì các em cũng có thể làm được.
Một là các em mở bài bằng một câu trích lý luận hoặc châm ngôn, câu nói nổi tiếng có liên
quan đến nội dung rồi khai triển lý luận ấy rồi sau đó đi vào trọng tâm vấn đề. Thầy có thể
mở bài như sau: B. Sô từng nói “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt diệu nhất vẫn
là trái tim người mẹ”. Quả thật vậy, trái tim của người mẹ là kỳ quan vĩ đại, là toà bảo tháp
ngự trị vĩnh hằng và sừng sững giữa cuộc đời. Tác phẩm văn học nhất là những tác phẩm
viết về người mẹ luôn là những tác phẩm thành công nhất. Văn học Việt Nam cũng đã từng
ghi nhận những đóng góp lớn lao ấy về người mẹ. Một trong những tác phẩm tạo nên niềm
xúc động sâu sắc về người mẹ phải kể đến đó là …. . Dưới ngòi bút tài hoa và tinh tế của
nhà văn vốn một đời đi về với ruộng đồng, vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của trái tim người mẹ và
tình mẫu tử thắm thiết thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu sắc qua diễn biến tâm
trạng của nhân vật ….
Ví dụ: Cảm nhận về vẻ đẹp của đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm : “Khi ta lớn

lên… ngày đó”
Ta mở bài bằng một câu lý luận văn học. Thầy dẫn như sau: “Niềm vui của nhà thơ chân
chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp” (Pautôpxki). Và sứ mệnh thiêng
liêng ấy của người nghệ sĩ đã mang đến cho đời bao áng thơ lay động lòng người. Trong
những tháng năm đánh Mỹ gian khổ mà hào hùng của dân dộc Việt Nam, bao người nghệ sĩ
đã viết về vẻ đẹp của đất nước, đã mở đường đến với không gian núi sông, con người đất
mẹ. Và hôm nay đây đọc lại những vần thơ ấy ta không khỏi xúc động bồi hồi. Đoạn thơ về
7


Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một ví dụ điển hình cho vẻ đẹp của đất nước và cũng
là vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc.
1.2- Yêu cầu của phần mở bài:
- Mở bài phải giới thiệu được nội dung cơ bản của bài viết.
- Dung lượng của phần mở bài phải tương ứng với khuôn khổ của bài viết và phải cân
đối với phần kết bài.
- Phần mở bài phải đảm bảo có sự liền mạch với bài viết về cả nội dung lẫn phong
cách giới thiệu, diễn đạt. Nói tóm lại, phần mở bài phải tạo được âm hưởng chung, định
hướng chung cho cả bài viết.
a- Những điều cần tránh khi viết mở bài:
- Tránh dẫn dắt vòng vo, quá xa mãi mới gắn được vào việc nêu vấn đề.
- Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu
- Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, trình bày hết vấn đề, rồi phần thân bài lặp lại
những điều đã nói ở phần mở bài.
b- Điều kiện cần và đủ để có một mở bài hay:
- Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề một
câu.
- Đầy đủ: Đọc xong mở bài, người đọc biết được bài viết bàn về vấn đề gì? Trong phạm
vi nội dung tư liệu nào liên quan? Thao tác vận dụng chính ở đây là gì?
- Độc đáo: Mở bài phải gây được sự chú ý của người đọc với vấn đề mình sẽ viết. Muốn

thế, phải có cách nêu vấn đề khác lạ. Để tạo nên sự khác lạ, độc đáo ấy, cần suy nghĩ dẫn
dắt: giữa câu dẫn dắt và câu nêu vấn đề phải tạo được sự bất ngờ.
- Tự nhiên: viết văn nói chung cần giản dị tự nhiên. Mở bài và nhất là câu đầu chi phối
giọng văn của toàn bài. Vì thế vào bài cần độc đáo, khác lạ nhưng phải tự nhiên. Tránh làm
văn một cách vụng về, gượng ép gây cho người đọc cảm giác khó chịu bởi sự giả tạo.
1.3- Cấu tạo phần mở bài:
Mở bài là một đoạn văn hoàn chỉnh (đoạn mở bài) và thường có cấu tạo 3 phần. Thông
thường học sinh có thể viết từ 3 -> 5 câu văn. Đoạn văn ấy cũng có ba phần: mở đầu đoạn,
phần giữa đoạn và phần kết đoạn
a. - Phần mở đoạn (dẫn dắt vấn đề): Viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan gần
gũi với vấn đề chính sẽ nêu. Tùy nội dung vấn đề chính mà người viết lựa chọn câu dẫn dắt
có thể là một câu thơ, một câu danh ngôn, một nhận định, hoặc một câu chuyện kể.
b. - Phần giữa đoạn (nêu giới hạn của vấn đề): Nêu vấn đề chính sẽ bàn bạc trong thân
bài, tức là luận đề (Giới thiệu tác giả và tác phẩm văn học có liên quan đến vấn đề nghị
luận). Vấn đề chính này có thể đã chỉ rõ, có thể người viết tự rút ra, tự khái quát. Đối với
phân tích bình giảng thơ thì thường là nêu ấn tượng bao trùm mang tư tưởng chủ đề mà
người đọc cảm nhận được.
c. - Phần kết đoạn (nêu vấn đề nghị luận): Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu
sẽ trình bày. Có thể đó là những nhận xét đánh giá sơ bộ của người viết về tác phẩm, về
nhân vật ... Đây là phần trọng tâm của mở bài. Vấn đề nghị luận có thể đã được nêu ở đề
bài (người viết chỉ việc giới thiệu hoặc ghi lại đoạn trích, câu trích ở đầu bài) nhưng cũng
có khi người viết phải tự rút ra, tự khái quát khi tìm hiểu đề bài.
2. Bài tập rèn luyện:
Viết mở bài cho các đề bài sau:
Đề bài 1: Cảm nhận về nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.
8


Mb 1: Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua
nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt Nam

trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng không ít tới
nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân
vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc
của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo
đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con và có lòng tự trọng.
Mb 2: "Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm
của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã
để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm
trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng
của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ
phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.
Mb 3: Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông
dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý
trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà
văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một
hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người
thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư
tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Đề bài 2: Tình người trong “Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen ri
Mb 1: Sẽ khô cằn biết bao nếu tâm hồn ta không có tình yêu thương.Sẽ u tối biết bao nếu
xung quanh ta toàn những người vị kỉ. “Tình yêu thương” có lẽ đó là món quà tuyệt vời
nhất mà tạo hoá đã ban tặng cho con người..Ban tặng cho tôi,cho bạn và cho mỗi chúng
ta.Sẽ hạnh phúc biết bao nếu ta được sống trong vòng tay thân ái của mọi người.Chỉ khi
chúng ta được sống trong tình thương,sống để yêu thương thì chúng ta mới thật sự cảm
nhận được niềm hạnh phúc.Khi ấy, cuộc sống của chúng ta mới thật sự có ý nghĩa.Cũng
chính vì thế mà “ tình yêu thương” luôn là tiếng nói đồng vọng ,kết nối trái tim của triệu
triệu con người . Đọc “Chiếc lá cuối cùng” của O. Hen ri, ta càng hiểu sâu sắc hơn đạo lý
đó.
Mb 2: Ai đã từng đọc những truyện ngắn của nhà văn người Mĩ O’Hen-ri (1862 – 1910)
hẳn sẽ cảm nhận một điều: từ hiện thực cuộc sống đầy rẫy những bất công vô lý, đem đến

bao bất hạnh cho những cuộc đời nghèo khổ, nhà văn luôn khơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn
những con người ấy qua những tình huống truyện bất ngờ, cảm động. Chiếc lá cuối cùng là
một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn ắp tràn tình thương yêu và niềm tin với con người,
một bức thông điệp khẳng định sứ mạng và sức mạnh của nghệ thuật chân chính.
Mb 3: Trong nhịp sống tất bật, hối hả quay cuồng , nếu không có một khoảng lặng, một
phút dừng lại ngắm nhìn cuộc đời, hẳn con người sẽ không bao giờ tìm được chút bình yên,
thanh thản cho tâm hồn mình. Những lo toan thường nhật, cuộc mưu sinh bận rộn với bao
toan tính, đắn đo đã cuốn con người vào vòng quay bất tận. Nhưng không, ở đâu đó, hơi ấm
tình người vẫn lặng lẽ toả sáng. Ngay trong một khu phố nhỏ tồi tàn, vẫn cất lên bản nhạc
dịu dàng giữa một xã hội phồn vinh, rộâng lớn. Nơi ấy, nhà văn Mĩ O’ Henri, bằng tấm
chân tình của mình, đã giúp người đọc phát hiện bao vẻ đẹp của tình thương yêu giữa
những người lao động nghèo khổ. Đoạn trích trong “Chiếc lá cuối cùng” diễn tả đầy đủ vẻ
đẹp những trái tim nhân hậu cao cả .
Đề bài 3: Suy nghĩ về tinh thần tự học.
9


Mb 1: Trong học tập, mỗi người đều có một cách học riêng, phù hợp với điều kiện và khả
năng của mình. Thế nhưng, cách học hiệu quả nhất là tự học. Chỉ có tự học mới giúp chúng
ta dễ dàng tiếp thu và hiểu sâu sắc kiến thức một cách chủ động và dễ dàng nhất.
Mb 2: Lê nin từng nói: "Học, học nữa, học mãi". Câu nói đó luôn có giá trị ở mọi thời đại,
đặc biệt trong xã hội ngày nay đang hướng tới nền kinh tế tri thức, nó đòi hỏi mọi người
phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà tinh thần tự học ngày
càng có vai trò vô cùng quan trọng .
Mb 3: Trên thế giới có rất nhiều người đã thành công nhờ phương pháp tự học của bản
thân. Nhiều người đã chia sẻ kinh nghiệm về tinh thần tự học của mình cho nhiều bạn trẻ
noi theo. Việc tự học sẽ đem lại thành công như mong đợi cho những ai kiên trì và vận
dụng nó một cách phù hợp.
Mb 4: Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi mọi người phải vận
động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng: “Nếu còn

trẻ mà chẳng chịu học hành thì khôn lớn sẽ chẳng làm được việc gì có ích” hoặc “Nhân bất
học bất tri lí”. Vậy thì chúng ta cần học thế nào cho đúng, cho có hiệu quả? Và qua kinh
nghiệm bao đời được đúc kết, người ta đã nhận ra rằng chỉ có tự học mới là phương pháp
hữu hiệu nhất.
B. Cách tìm luận điểm cho bài văn nghị luận văn học.
I. Một số kiến thức, kĩ năng cần nắm.
1. Đối đề bài nghị luận về nhân vật văn học(trong truyện, trong thơ …), một khía cạnh nội
dung hay nghệ thuật trong tác phẩm, giá trị nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm.
Có nhiều cách để chúng ta tìm ra luận điểm, nhưng cách dễ nhất cho học sinh đó là
trả lời câu hỏi “NHƯ THẾ NÀO”, trả lời được câu hỏi này có nghĩa học sinh đã tìm được
câu nêu luận điểm (tạm gọi là ý khái quát nhất). Việc còn lại là chọn lọc dẫn chứng để minh
hoạ làm sáng tỏ luận điểm đó.
Chẳng hạn, khi phân tích nhân vật lão Hạc trong "Lão Hạc" ta trả lời câu hỏi “lão
Hạc là người như thế nào” chúng ta thấy ngay: Đó là người nhân hậu, lương thiện; người
cha hết lòng yêu thương con; một người nông dân giàu lòng tự trọng …Mỗi câu trả lời như
thế có thể xem đó là một ý khái quát của luận điểm. Đây chính là đặc điểm nhân vật anh
thanh niên mà chúng ta cần phân tích trong bài văn của mình.
Tương tự khi phân tích tình yêu quê hương trong “ Hai cây phong” của Ai-ma-tôp
các em chỉ cần trả lời: “tình yêu quê hương được thể hiện như thế nào” các em sẽ có
ngay câu trả lời: Ty quê hương được thể hiện qua nỗi nhớ, tình yêu của nhân vật tôi về
hai cây phong; nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ gắn liền với hai cây phong, gắn bó với
quê hương; qua niềm tự hào, biết ơn, khâm phục về người thầy đầu tiên đã đem đến ánh
sáng cho lũ trẻ làng Ku ku rêu. Thực chất những đặc điểm này các em đã được thầy cô
giáo dạy rất kĩ trên lớp, đây chỉ là thao tác tái hiện lại mà thôi.
2. Đối với dạng đề nghị luận về đoạn thơ, văn; bài thơ, văn
Đối với dạng đề nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ta lại trả lời câu hỏi: đoạn thơ, bài
thơ; đoạn văn, bài văn “NÓI VỀ CÁI GÌ”. Chẳng hạn khi phân tích đoạn văn trong văn
bản “ Lão Hạc”
“ Chao ôi! Đối với …….. ta thương”
Chúng ta chỉ cần trả lời câu hỏi “đoạn văn nói về cái gì”, chúng ta có ngay câu trả

lời đoạn văn nói về quan niệm về cách đánh giá, nhìn nhận con người, cuộc đời. Tiếp theo,
chúng ta chỉ cần phân tích một số từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu…để làm sáng tỏ câu chủ đề
là được.
II. Bài tập rèn luyện.
10


Tìm luận điểm cho các đề bài sau:
Đề 1: Trình bày suy nghĩ của em về cái chết của lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của
Nam Cao.
Cái chết của lão Hạc diễn ra ntn?
- Nguyên nhân:
+ Là do tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão đến bước đường cùng: Lão phải chết, đó
cũng là số phận cơ cực đáng thương của những người nông dân nghèo sống trong thời kỳ
đen tối trước cách mạng tháng Tám.
+ Bên cạnh đó còn là để bảo vệ danh dự, nhân phẩm trong sạch của mình: dù chết cũng
không làm điều xằng bậy.
+ Song nguyên nhân sâu xa của cái chết, không chỉ là do tình cảnh đói khổ, túng quẫn, để
bảo vệ nhân phẩm mà là do xuất phát từ lòng thương con âm thầm, sâu nặng xuất phát từ
đức hy sinh cao cả của người cha. Một người cha dám đánh đổi cả sự sống của mình để
dành dụm số tiền ít ỏi cho tương lai của con.
- Phương thức chết: - Ý nghĩa:
+ Cái chết dữ dội ấy mới đủ sức tố cáo xã hội đương thời lúc ấy đã đẩy con người bất hạnh
đến cùng đường tuyệt lộ, khiến họ phải chết một cách thê thảm đớn đau.
+ Làm sáng ngời vẻ đẹp nhân cách của lão Hạc: dù phải trả giá đắt đến mấy, con người
cũng phải giữ cho được phẩm chất của mình. Và lão Hạc đã làm được điều đó. Dù túng
quẫn nhưng lão không theo gót Binh Tư... Nhân tính đã chiến thắng bản năng, lòng tự trọng
vẫn đủ sức giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hoá. Lão thà chết chứ không làm
điều xằng bậy.Đó là nét đẹp trong quan điểm đạo đức của nhân dân ta “chết vinh còn hơn
sống nhục”.

Đề 2: Cảm nhận về tình yêu quê hương trong văn bản “Hai cây phong“ trích “Người thầy
đầu tiên” của Ai-ma-tôp.
Tình yêu quê hương trong văn bản được thể hiện ntn?
- Thể hiện qua nỗi nhớ, tình yêu của nhân vật tôi về hai cây phong.
- Thể hiện qua những kí ức tuổi thơ gắn liền với hai cây phong.
- Qua sự biết ơn, niềm tự hào về người thầy đầu tiên đã xoa mù chữ cho trẻ em làng Ku ku
rêu.
********************************************

Chuyên đề 3 (2 buổi): Văn bản truyện, kí hiện đại Việt Nam
I. TÔI ĐI HỌC – THANH TỊNH
Câu 1: Hãy phân tích giá trị biểu đạt của nghệ thuật so sánh trong đoạn văn sau:
a. Tôi quên thể nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy
cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Gợi ý: Chú ý đây là cách phân tích một phép tu từ so sánh: A như B ( phân tích B để làm
rõ A).
- Hình ảnh cành hoa tươi biểu trưng cho cái đẹp, cái tinh hoa tinh tuý, cái đáng yêu, đáng
nâng niu của tạo hoá ban cho con người. Dùng hình ảnh cành hoa tươi tác giải nhằm diễn tả
những cảm giác, những rung động trong buổi đầu tiên thật đẹp đẽ, đáng yêu, đáng nâng niu
vô cùng. Vẻ đẹp ấy không chỉ sống mãi trong tiềm thức, kí ức mà luôn tươi mói vẹn
nguyên.
- Phép nhân hoá mỉm cười diễn tả niềm vui, niềm hạnh phúc tràn ngập rạo rực và cả một
tương lai đẹp đẽ đang chờ phía trước. Rõ ràng những cảm giác, cảm nhận đầu tiên ấy sống
mãi trong lòng ''tôi'' với bao tràn ngập hy vọng về tương lai.
=> Cách diễn tả thật hay, thật đặc sắc và giàu chất thơ. Ta cảm nhận được tấm lòng mãi mãi
biết ơn, yêu quý thầy cô, mái trường, bè bạn chủa nhà văn Thanh Tịnh.
11


b. Hãy phân tích giá trị biểu đạt của nghệ thuật so sánh trong saubằng đoạn văn:''ý nghĩ ấy

thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi''
+ Yêu cầu về hình thức phải viết thành một đoạn văn hoàn chỉnh
+ Yêu cầu về nội dung cần làm rõ các vấn đề sau:
- Chỉ ra được vế so sánh.
- Hình ảnh làn mây diễn tả sự trong sáng, ngây thơ, dịu dàng đáng yêu của trẻ thơ. Chỉ
một ý nghĩ thoáng qua thôi mà sống mãi, đọng mãi và lung linh trong kí ức. Khát vọng
mãnh liệt vươn tới một đỉnh cao,..
- Qua đó thể hiện tâm hồn khát khao bay cao, bay xa, vươn tới những chân trời mới.
Viết thành đoạn văn:
Trong truyện ngắn ''Tôi đi học'' của Thanh Tịnh có một so sánh rất hay đó là: ''ý nghĩ ấy
thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi''. Đây là
phép so sánh hay và rất đẹp. Hình ảnh làn mây diễn tả sự trong sáng, thơ ngây, dịu dàng và
đáng yêu của trẻ thơ. Kỉ niệm về ngày khai trường đầu tiên sức sống thật kì diệu, thật mãnh
liệt. Chỉ một ý nghĩ thoáng qua thôi má sống mãi, đọng mãi trong kí ức. Bao nhiêu năm
tháng qua rồi vẫn sống dậy lung linh. Ta thấy như đâu đó ánh lên một khát vọng mãnh liệt
vươn tới một đỉnh cao. Cách diễn tả thật hay, thật đặc sắc và thám đẫm chất trữ tình. Qua
đó, ta cảm nhận được một tâm hồn khát khao bay cao, bay xa, vươn tới những chân trời
mới. Ước mơ, khát vọng ấy của nhà văn thật cao đẹp, đáng trân trọng biết những nào.
c. Hãy phân tích giá trị biểu đạt của nghệ thuật so sánh sau bằngđoạn văn: '' Họ như con
chim con đứng bên bờ tổ nhìn quãng trời rộng......... ''
Gợi ý:
+ Yêu cầu về hình thức phải viết thành một đoạn văn hoàn chỉnh
+ Yêu cầu về nội dung cần làm rõ các vấn đề sau:
- Chỉ ra được vế so sánh.
- Hình ảnh chim con được để dùng để diễn tả tâm trạng của ''tôi'' và các cô cậu lần dầu
tiên đến trường. Mái trường như tổ ấm, mỗi cô cậu học trò như cánh chim non đang ước mơ
được khám phá chân trời kiến thức, nhưng cũng rất lo lắng trước chân tròi kiến thức mênh
mông, bao la bất tận ấy
- Qua đó, ta cảm nhận được tấm lòng mãi mãi biết ơn, yêu quý mái trường, thầy cô bè bạn
của nhà văn.

Viết thành đoạn văn:
Trong truyện ngắn '' Tôi đi học '' Thanh Tịnh đã sử dụng 3 hình ảnh so sánh rất hay và
đầy thú vị. Ba hình ảnh được xuất hiện ở ba thời điểm khác nhau. Khi nhớ về ngày đầu tiên
đến trường nhà văn đã so sánh '' những cảm giác trong sáng ấy ... bầu trời quang đãng''.
Lúc cùng mẹ trên đường tới trường, Thanh Tịnh lại so sánh '' ý nghĩ ấy thoáng qua..... lướt
ngang trên ngọn núi'' và khi đứng trên sân trường tác giả lại so sánh '' Họ như con chim ....
ngập ngừng e sợ''. Những hình ảnh này đã diễn tả rất rõ sự vận động tâm trạng củatôi: từ
nao nao nhớ về ngày đầu tiên đến trường đến nhớ những cảm giác, ý nghĩ non nớt thơ ngây
và cuối cùng là những tâm trạng rụt rè, e sợ của tôi và các cô cậu học trò khác. Các hình
ảnh so sánh này đã giúp ta hiểu rõ hơn tâm lí của những em bé lần đầu tiên tới trường.
Những hình ảnh so sánh này thật tươi sáng, nhẹ nhàng làm tăng thêm màu sắc trữ tình cho
tác phẩm. Hẳn phải là một ngòi bút tài hoa, phải có một tâm hồn nhạy cảm, Thanh Tịnh
mới có thể viết lên những hình ảnh so sánh hay đến vậy.
Câu 2: Hãy phân tích làm sáng tỏ chất thơ toát lên từ thiên truyện '' Tôi đi học''?
Gợi ý: ( Chất thơ là gì? ở đâu? Thể hiện như thế nào?)
Chất thơ là một nét đẹp tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn này, thể
hiện ở những vấn đề sau:
* Nội dung
- Trước hết, chất thơ thể hiện ở chổ: truyện ngắn không có cốt truyện mà chỉ là dòng chảy
cảm xúc, là những tâm tư tình cảm của một tâm hồn trẻ dại trong buổi khai trường đầu tiên.
12


Những cảm xúc êm dịu ngọt ngào, man mác buồn, thơ ngây trong sáng làm lòng ta rung lên
những cảm xúc.
- Chất thơ toát lên từ những tình tiết sự việc dào dạt cảm xúc( mẹ âu yếm dẫn đi..., các cậu
học trò..., con đường tới trường.... ).
- Chất thơ toát lên từ cảnh sắc thiên nhiên rất thơ mộng và nên thơ trong trẻo.
- Chất thơ còn toả ra từ giọng nói ân cần, cặp mắt hiền từ của ông đốc và khuôn mặt tười
cười của thấy giáo.

- Chất thơ còn toả ra từ tấm lòng yêu thương con hết mực ( 4 lần Thanh Tịnh nói về bàn tay
mẹ). Hình tượng bàn tay mẹ thể hiện một cách tinh tế và biểu cảm, tình thương con bao la
vô bờ của mẹ.
* Nghệ thuật:
- Chất thơ còn thể hiện ở các hình ảnh so sánh đầy thú vị, ở giọng văn nhẹ nhàng, trong
sáng gợi cảm ở âm điệu tha thiết.
- Bản thân tình huống truyện (buổi tựu trường đầu tiên trong đời đã chứa đựng cảm xúc
thiết tha, mang bao kỉ niệm mới lạ, '' mơn man'' của nhân vật ''tôi').
*Chất thơ còn thể hiện ở chổ tạo được sự đồng cảm, đồng điệu của mọi người (kỉ niện tuổi
thơ cắp sách tới trường, hình ảnh mùa thu yên lặng quê Việt.
II. TRONG LÒNG MẸ (Những ngày thơ ấu)
- NGUYÊN HỒNG
1. Qua đoạn trích Trong lòng mẹ, hãy cm rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình.
=> Chất trữ tình là một nét đẹp tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn này,
thể hiện ở những vấn đề sau:
* Nội dung: Trước hết, tình huống đặt ra trong câu chuyện: đã lâu ngày mẹ không hỏi
thăm, cô ruột lại ngồi kể về mẹ với thái độ mỉa mai, coi thường. Tình huống ấy dễ làm cho
người con oán trách mẹ mình. Nhưng tình cảm của người con ở đây không hề một chút
mảy may thay đổi; ngược lại, vẫn tràn đầy niềm yêu thương, tin tưởng và còn có mơ ước
phá tan mọi cổ tục để cho mẹ không bị đau khổ. Dòng cảm xúc của nhân vật cũng được thể
hiện mãnh liệt qua những chi tiết miêu tả cảm động nghẹn ngào khi Hồng sà vào lòng mẹ.
Sự căm giận, sự xót thương, sự đau khổ và niềm hạnh phúc luôn luôn đan xen lẫn nhau và
dường như đều ở đỉnh điểm của tâm trạng.
* Nghệ thuật: Cả chương truyện đều tràn đầy cảm xúc. Đặc biệt là đoạn sau – cảnh chú
bé gặp mẹ và nhào vào lòng mẹ, cảm xúc dâng trào như thác lũ….NH đã lắng nghe được
những âm vang sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế ở bên trong
- Nguyên Hồng gần gũi với Thạch Lam ở lối phân tích tâm lý tinh tế, lối viết đi sâu vào
cảm giác, có khả năng làm thức dậy mọi giác quan ở người đọc. (Cảm giác của cậu bé cô
đơn, tủi cực sau bao ngày đằng đẵng xa mẹ bỗng được lăn vào lòng mẹ: “tôi ngồi trên đệm
xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi …….vô cùng”

- Lối viết văn tự truyện tạo nên ở người đọc một sự đồng cảm, gần gũi và tin cậy, một
sự xúc động sâu lắng với những ấn tượng mạnh mẽ thắm thiết. Nhà văn đem phần trong
sáng nhất của tâm hồn ra giãi bầy trước công chúng. Qua sự chọn lọc và đào thải của thời
gian, những kỷ niệm, những cảm giác từ tuổi ấu thơ phải là những gì thật sự lắng đọng,
mạnh mẽ và sâu sắc đến mức có thể đi mãi với ta trong suốt cuộc đời.
- Ngoài những nghệ thuật trên, chúng ta trân trọng tài năng bẩm sinh của người nghệ sỹ.
Chương truyện này thực sự hấp dẫn gây xúc động đối với người đọc có lẽ bởi sau từng câu,
từng chữ đều thẫm đẫm tình cảm chân thành, tâm huyết của nhà văn.
- Những hình ảnh so sánh gây ấn tượng mạnh, giàu sức gợi cảm và lời văn dạt dào tình
cảm
* Ý nghĩa của chất trữ tình tăng sức hấp dẫn; toát lên tình mẫu tử thiêng liêng; làm cho
ý nghĩa câu chuyện trở nên sâu sắc, cảm động.
* Thái độ, tình cảm của tg.
2. Phải bé lại và …. Vô cùng”. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua đoạn trích “Trong
lòng mẹ”.
13


- => Giới thiệu tg, tp, đoạn trích hoặc nói về tình cảm, tấm lòng của mẹ sau đó dẫn
dắt kiến,
- Diến tả cảm xúc đau khổ của bé Hồng trong những ngày sống xa mẹ: nỗi cay
đắng, tủi cực khi phải ở xa mẹ; Sống xa mẹ tủi cực, thiếu vắng tình mẹ bao
nhiêu thì mới cảm nhận được tình mẹ quan trọng đến mức nào đối vời một đứa
trẻ.
- Chứng minh kiến qua biểu hiện của bé Hồng khi gặp lại mẹ và sống trong lòng
mẹ:hạnh phúc và sung sướng đến cực điểm
=> Tác giả rất hiểu tâm lí trẻ thơ: hiểu được mong muốn, khao khát tình mẹ của
những đứa con ph ải sống xa mẹ. Từ đó ta thấy được tấm lòng nhân đạo của tg và đó
cũng chính là giá trị nhân đạo của tp.
- Liên hệ đến bản thân khi được sống gần mẹ, sự quan trọng của tình mẹ đối với mỗi

người.
3. Có nhà nghiên cứu nhận định NH là nhà văn của phụ nữ và thiếu nhi. Nên hiểu ntn
về nhận định đó? Qua đoạn trích em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
=>
* Giải thích: Vì sao Nguyên Hồng được đánh giá là nhà văn của phụ nữ và trẻ em
Đề tài: Nhìn vào sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, người đọc dễ nhận thấy hai đề tài
này đã xuyên suốt hầu hết các sáng tác của nhà văn: Những ngày thơ ấu, Hai nhà nghỉ, Bỉ
vỏ…
Hoàn cảnh: Gia đình và bản thân đã ảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác của nhà văn. Bản thân
là một đứa trẻ mồ côi sống trong sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần lại còn bị gia
đình và xã hội ghẻ lạnh .
Nguyên Hồng được đánh giá là nhà văn của phụ nữ và trẻ em không phải vì ông viết nhiều
về nhân vật này. Điều quan trọng ông viết về họ bằng tất cả tấm lòng tài năng và tâm huyết
của nhà văn chân chính. Mỗi trang viết của ông là sự đồng cảm mãnh liệt của người nghệ
sỹ , dường như nghệ sỹ đã hoà nhập vào nhân vật mà thương cảm mà xót xa đau đớn, hay
sung sướng, hả hê.
* Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ .
a. Nhà văn đã thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc cho nỗi bất hạnh của người phụ nữ
Thấu hiểu nỗi khổ về vật chất của người phụ nữ. Sau khi chồng chết vì nợ nần cùng túng
quá, mẹ Hồng phải bỏ đi tha hương cầu thực, buôn bán ngược xuôi để kiếm sống . Sự vất
vả, lam lũ đã khiến người phụ nữ xuân sắc một thời trở nên tiều tụy đáng thương “Mẹ tôi ăn
mặc rách rưới, gầy rạc đi ”…
Thấu hiểu nỗi đau đớn về tinh thần của người phụ nữ : Hủ tục ép duyên đã khiến mẹ Hồng
phải chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu với người đàn ông gấp đôi tuổi của mình. Vì
sự yên ấm của gia đình, người phụ nữ này phải sống âm thầm như một cái bóng bên người
chồng nghiện ngập. Những thành kiến xã hội và gia đình khiến mẹ Hồng phải bỏ con đi tha
hương cầu thực , sinh nở vụng trộm dấu diếm.
b. Nhà văn còn ngượi ca vẻ đẹp tâm hồn, đức tính cao quý của người phụ nữ:
Giàu tình yêu thương con. Gặp lại con sau bao ngày xa cách, mẹ Hồng xúc động đến nghẹn
ngào. Trong tiếng khóc sụt sùi của người mẹ, người đọc như cảm nhận được nỗi xót xa ân

hận cũng như niềm sung sướng vô hạn vì được gặp con. Bằng cử chỉ dịu dàng âu yếm xoa
đầu, vuốt ve, gãi rôm…mẹ bù đắp cho Hồng những tình cảm thiếu vắng sau bao ngày xa
cách.
c. Là người phụ nữ trọng nghĩa tình
Dẫu chẳng mặn mà với cha Hồng song vốn là người trọng đạo nghĩa, mẹ Hồng vẫn trở về
trong ngày dỗ để tưởng nhớ người chồng đã khuất.
d. Nhà văn còn bênh vực, bảo vệ người phụ nữ:
Bảo vệ quyền bình đẳng và tự do , cảm thông vời mẹ Hồng khi chưa đoạn tang chồng đã
tìm hạnh phúc riêng.
14


Tóm lại: Đúng như một nhà phê bình đã nhận xét “Cảm hứng chủ đạo bậc nhất trong sáng
tạo nghệ thuật của tác giả. Những ngày thơ ấu lại chính là niềm cảm thương vô hạn đối với
người mẹ . Những dòng viết về mẹ là những dòng tình cảm thiết tha của nhà văn. Không
phải ngẫu nhiên khi mở đầu tập hồi ký Những ngày thơ ấu, nhà văn lại viết lời đề từ ngắn
gọn và kính cẩn: Kính tặng mẹ tôi” . Có lẽ hình ảnh người mẹ đã trở thành nguồn mạch
cảm xúc vô tận cho sáng tác của Nguyên Hồng để rồi ông viết văn học bằng tình cảm
thiêng liêng và thành kính nhất.
* Nguyên Hồng là nhà văn của trẻ thơ.
a. Nhà văn thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc cho nỗi khổ, nội bất hạh của trẻ thơ.
Nhà văn thấu hiểu nỗi thống khổ cả vạt chất lẫn tinh thần : Cả thời thơ ấu của Hồngđược
hưởng những dư vị ngọt ngào thì ít mà đau khổ thì không sao kể xiết : Mồ côi cha, thiếu
bàn tay chăm sóc của mẹ, phải ăn nhờ ở đậu người thân. Gia đình và xã hội đã không cho
em được sống cuộc sống thực sự của trẻ thơ …nghĩa là được ăn ngon, và sống trong tình
yêu thương đùm bọc của cha mẹ, người thân. Nhà văn còn thấu hiểu cả những tâm sự đau
đớn của chú bé khi bị bà cô xúc phạm …
b. Nhà văn trân trọng, ngợi ca phẩm chất cao quý của trẻ thơ:
Tình yêu thương mẹ sâu sắc mãnh liệt. Luôn nhớ nhung về mẹ. Chỉ mới nghe bà cô hỏi
“Hồng, mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mợ mày không?”, lập tức, trong ký ức của

Hồng trỗi dậy hình ảnh người mẹ.
Hồng luôn tin tưởng khẳng định tình cảm của mẹ dành cho mình. Dẫu xa cách mẹ cả về
thời gian, không gian, dù bà cô có tính ma độc địa đến đâu thì Hồng cũng quyết bảo vệ đến
cùng tình cảm của mình dành cho mẹ. Hồng luôn hiểu và cảm thông sâu sắc cho tình cảnh
cũng như nỗi đau của mẹ. Trong khi xã hội và người thân hùa nhau tìm cách trừng phạt mẹ
thì bé Hồng với trái tim bao dung và nhân hậu yêu thương mẹ sâu nặng đã nhận thấy mẹ chỉ
là nạn nhân đáng thương của những cổ tục phong kiến kia. Em đã khóc cho nỗi đau của
người phụ nữ khát khao yêu thương mà không được trọn vẹn. Hồng căm thù những cổ tục
đó: “Giá những cổ tục kia là một vật như …..thôi”
Hồng luôn khao khát được gặp mẹ. Nỗi niềm thương nhớ mẹ nung nấu tích tụ qua bao
tháng ngày đã khiến tình cảm của đứa con dành cho mẹ như một niềm tín ngưỡng thiêng
liêng, thành kính. Trái tim của Hồng như đang rớm máu, rạn nứt vì nhớ mẹ. Vì thế thoáng
thấy người mẹ ngồi trên xe, em đã nhận ra mẹ, em vui mừng cất tiếng gọi mẹ mà bấy lâu
em đã cất dấu ở trong lòng.
c. Sung sướng khi được sống trong lòng mẹ.
Lòng vui sướng được toát lên từ những cử chi vội vã bối rối từ giọt nước mắt giận hờn,
hạnh phúc tức tưởi, mãn nguyện.
d. Nhà thơ thấu hiẻu những khao khát muôn đời của trẻ thơ:
Khao khát được sống trong tình thương yêu che chở của mẹ, được sống trong lòng mẹ
III. TỨC NƯỚC VỠ BỜ
1. Giải thích ý nghĩa nhan đề “tức nước vỡ bờ”.
=> - Giải thích: Đây là câu tục ngữ được ông cha ta đúc kết từ ngày xưa. Câu tục ngữ có
nghĩa đen: Khi nước dâng lên quá mức không chịu được thì bờ sẽ bị vỡ.; Nghĩa bóng: Khi
con người bị dồn vào bế tắc, không chịu được nữa sẽ phải vùng dậy đấu tranh. Ta thấy kinh
nghiệm dân gian được đúc kết trong câu tục ngữ đó đã bắt gặp sự khám phá chân lí, đời
sống của cây bút hiện thực Ngô Tất Tố. Ngô Tất Tố đã thể hiện chân lí đó 1 cách sinh động,
đầy thuyết phục. Đoạn trích chẳng những làm toát lên cái logic hiện thực tức nước vỡ bờ ,
có áp bức có đấu tranh mà còn toát lên cái chân lí. Con đường sống của quần chúng bị áp
bức chỉ có thể là con đường đấu tranh để tự giải phóng, không có con đường nào khác.
- Phân tích tác phẩm

+ Tức nước: Nạn sưu thuế
+ Vỡ bờ: Chị Dậu tức quá, liều mạng cự lại (Bản chất tính cách của chị là hiền lành, chất
phác, siêng năng), chị đã phải rất vất vả khi gánh vác công việc gia đình,..anh Dậu ốm
nặng…); Lời nói phản kháng:…
15


- Đánh giá nhận thức, quan điểm tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố:
Nhà văn tuy chưa nhận thức được chân lý cách mạng nên chưa chỉ ra được con đường
đấu tranh tất yếu của quần chúng lao động, quần chúng bị áp bức nhưng bằng cảm quan
hiện thực mạnh mẽ, nhà văn đã cảm nhận được xu thế tức nước vỡ bờ và sức mạnh to lơn
của tức nước vỡ bờ. Và có thể nói : cảnh tức nước vỡ bờ trong đoạn trích đã dự báo cơn bão
táp quần chúng nhân dân nổi dậy sau này(CM tháng 8)
2. Bộ mặt tàn ác bất nhân của bọn cai lệ và người nhà lí trưởng – hiện thân của hiện
thực xã hội pk bấy giờ.
=> Trong phần hai của văn bản này xuất hiện các nhân vật đối lập với chị Dậu. Trong đó
nổi bật là tên cai lệ. Cai lệ là viên cai chỉ huy một tốp lính lệ. Hắn cùng với người nhà lí
trưởng kéo đến nhà chị Dậu để tróc thuế sưu, thứ thuế nộp bằng tiền mà người đàn ông là
dân thường từ 18 đến 60 tuổi (gọi là dân đinh) hằng năm phải nộp cho nhà nước phong kiến
thực dân; sưu là công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm cho nhà nước đó. Gia
đình chị Dậu phải đóng suất thuế sưu cho người em chồng đã mất từ năm ngoái cho thấy
thực trạng xã hội thời đó thật bất công, tàn nhẫn và không có luật lệ.
- Theo dõi nhân vật cai lệ, ta thấy ngòi bút hiện thực NTT đã khắc họa hình ảnh tên cai lệ
bằng những chi tiết điển hình thật sắc sảo.
+ Vừa vào nhà, cai lệ đã lập tức ra oai “gõ đầu roi xuống đất”, hách dịch gọi anh Dậu là
“thằng kia”, “mày” và xưng “ông”, “cha mày”. “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua,
còn sống đấy à? Nộp tiền sưu mau!”
+ Cai Lệ trợn ngược hai mắt, hắn quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của
nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”
+ Vẫn giọng hầm hè: “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà

mày đi, chửi mắng thôi à!....”
+ Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh
Dậu : “tha này! tha này!.. Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn
đến để trói anh Dậu.”
=> Ngòi bút của NTT thật sắc sảo, tinh tế khi ông không dùng một chi tiết nào để miêu tả
suy nghĩ tên cai lệ trong cảnh này. Bởi vì lũ đầu trâu mặt ngựa xem việc đánh người, trói
người như là việc tự nhiên hàng ngày, chẳng bao giờ thấy động lòng trắc ẩn thì làm gì
chúng còn biết suy nghĩ? Nhà văn đã kết hợp các chi tiết điển hình về bộ dạng, lời nói,
hành động để khắc hoạ nhân vật. Từ đó ta thấy tên cai lệ đã bộc lộ tính cách hống hách, thô
bạo, không còn nhân tính. Từ hình ảnh tên cai lệ này, ta thấy bản chất xã hội thực dân
phong kiến là một xã hội đầy rẫy bất công tàn ác, một xã hội có thể gieo hoạ xuống người
dân lương thiện bất kì lúc nào, một xã hội tồn tại trên cơ sỏ của các lí lẽ và hành động bạo
ngược.
3. Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu để làm rõ câu chủ đề sau: Nhưng chị
Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng
một khả năng phản kháng mãnh liệt.
=> Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn
tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt. Thật vậy, khi bị đẩy tới đường cùng, chị đã
vùng dậy chống trả quyết liệt, thể hiện một thái độ thật bất khuất. Khi tên cai lệ dã thú ấy
vẫn không thèm trả lời, còn “tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi cứ nhảy vào cạnh anh
Dậu, thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt: “chị Dậu nghiến hai hàm răng:
“mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” Chị chẳng những không còn xưng hô “cháu
- ông”, mà cũng không phải “tôi – ông” như kẻ ngang hàng, mà lần này, chị xưng “bà”, gọi
tên cai lệ bằng “mày”! Đó là cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân, thể hiện sự
căm giận và khinh bỉ cao độ, đồng thời khẳng định tư thế “đứng trên đầu thù”, sẵn sàng đè
bẹp đối phương. Lần này chị Dậu đã không đấu lí mà quyết ra tay đấu lực với chúng. Cảnh
tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai đã cho ta thấy sức mạnh ghê gớm và tư thế ngang
hàng của chị Dậu, đối lập với hình ảnh, bộ dạng thảm hại hết sức hài hước của hai tên tay
sai bị chị “ra đòn”. Với tên cai lệ “lẻo khoẻo” vì nghiện ngập, chị chỉ cần một động tác
16



“túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, hắn đã “ngã chỏng quèo trên mặt đất! Đến tên người nhà lí
trưởng, cuộc đọ sức có dai dẳng hơn một chút (hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai
nấy đền buông gậy ra, áp vào vật nhau), nhưng cũng không lâu, kết cục, anh chàng “hầu
cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào
ra thềm! Vừa ra tay, chị Dậu đã nhanh chóng biến hai tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình
thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi tả. Lúc mới xông vào, chúng hùng hổ, dữ tợn bao nhiêu
thì giờ đây, chúng hài hước, thảm hại bấy nhiêu. Đoạn văn đặc biệt sống động và toát lên
một không khí hào hứng rất thú vị “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang
rất buồn thảm.
IV. LÃO HẠC – NAM CAO
Câu 1: Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp em hiểu gì về tình cảnh của người nông
dân trước cách mạng?
* Truyện đó giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ của người nông dân trước cách mạng:
1. Lão Hạc
a. Nỗi khổ về vật chất :
Cả đời thắt lưng buộc bụnglão cũng chỉ có nổi trong tay một mảnh vườn và một con
chó. Sự sống lay lắt cầm chừng bằng số tiền ít ỏi do bòn vườn và mà thuê. Nhưng thiên tai,
tật bệnh chẳng để lão yên ổn. Bao nhiêu tiền dành dụm được, sau một trận ốm đã hết sạch
sành sanh, lão đã phải kiếm ăn như một con vật . Nam Cao đã dung cảm nhìn thẳng vào
nôic khổ về vật chất của người nông dân mà phản ánh.
b. Nỗi khổ về tinh thần:
Đó là nỗi đau cả người chồng mát vợ, người cha mất con. Những ngày tháng xa con,
lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì thươn nhó con vì chưa làm tròn fbổn phận của
người cha . Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời lão phải sống trong cô độc .
Không người thân thích, lão phải kết bạn chia sẻ cùng cậu vàng
Nỗi đau, niềm ân hận của lão khi bán con chó . Đau đớn đến mức miệng lão méo
xệch đi .... Khổ sở, đau xót buộc lão phải tìm đến cái chết như một sự giải thoát . Lão đã
chọn cái chết thật dữ dội . Lão Hạc sống thì mỏi mòn, cầm chừng qua ngày, chết thì thê

thảm. Cuộc đời người nông dân như lão Hạc đã không có lối thoát
2. Con trai lão Hạc
Vì nghèo đói, không có được hạnh phúc bình dị như mình mong muốn khiến anh
phẫn chí, bỏ làng đi đồn điền cao su với một giấc mộng viển vông có bạc trăm mới về.
Nghèo đói đã đẩy anh vào tấn bi kịch không có lối thoát.
Không chỉ giúp ta hiểu được nỗi đau trực tiếp của người nông dân. Truyện còn giúp
ta hiểu được căn nguyên sâu xa nỗi đau của họ. Đó chính là sự nghèo đói và những hủ tục
phong kiến lạc hậu.
* Truyện ngắn Lão Hạc giúp ta hiểu được vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nông dân:
1. Lòng nhân hậu:
Con đi xa, bao tình cảm chất chứa trong lòng lão dành cả cho cậu vàng. Lão coi nó
như con, cưu mang, chăm chút như một đứa cháu nội bé bỏng côi cút : lão bắt rận, tắm ,
cho nó ăn bàng bát như nhà giầu, âu yếm, trò chuyện gọi nó là cậu vàng, rồi lão mắng yêu,
cưng nựng . Có thể nói tình cảm của lão dành cho nó như tình cảm của người cha đối với
người con.
Nhưng tình thế đường cùng, buộc lão phải bán cậu vàng. Bán chó là một chuyện
thường tình thế mà với lão lại là cả một quá trình đắn đo do dự. Lão cói đó là một sự lừa
gạt, một tội tình không thể tha thứ. Lão đã đau đớn, đã khóc, đã xưng tội với ông giáo ,
mong được dịu bớt nỗi dằng xé trong tâm can.
Tự huỷ diệt niềm vui của chính mình, nhưng lại xám hối vì danh dự lam người khi
đối diện trước con vật . Lão đã tự vẫn . Trên đời có bao nhiêu cái chết nhẹ nhàng, vậy mà
lão chọn cho mình cái chết thật đau đớn, vật vã...dường như lão muốn tự trừng phạt mình
trước con chó yêu dấu.
2. Tình yêu thương sâu nặng
17


Vợ mất, lão ở vậy nuôi con, bao nhiêu tình thương lão đều dành cho con trai lão .
Trước tình cảnh và nỗi đau của con, lão luôn là người thấu hiểu tìm cách chia sẻ, tìm lời lẽ
an ủi giảng dải cho con hiểu dằn lòng tìm đám khac. Thương con lão càng đauđớn xót xa

khi nhận ra sự thực phũ phàng : Sẽ mất con vĩnh viễn “Thẻ của nó .............chứ đâu có còn
là con tôi ”. Những ngày sống xa con, lão không nguôi nỗi nhó thương, niềm mong mỏi tin
con từ cuối phương trời . Mặc dù anh con trai đi biền biệt năm sáu năm trời, nhưng mọi kỷ
niệm về con vẫn luôn thường trực ở trong lão. Trong câu chuyện với ông giáo , lão không
quyên nhắc tới đứa con trai của mình
Lão sống vì con, chết cũng vì con : Bao nhiêu tiền bòn được lão đều dành dụm cho
con. Đói khát, cơ cực song lão vẫn giữ mảnh vườn đến cùng cho con trai để lo cho tương
lai của con.
Hoàn cảnh cùng cực, buộc lão phải đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã : Nếu sống,
lão sẽ lỗi đạo làm cha. Còn muốn trọn đạo làm cha thi phải chết . Và lão đã quyên sinh
không phải lão không quý mạng sống, mà vì danh dự làm người, danh dự làm cha. Sự hy
sinh của lão quá âm thầm, lớn lao.
3. Vẻ đẹp của lòng tự trọng và nhân cách cao cả
Đối với ông giáo người mà Lão Hạc tin tưởng quý trọng, cung luôn giữ ý để khỏi bị
coi thường . Dù đói khát cơ cực, nhưng lão dứt khoát từ hối sự giúp đỡ của ông giáo , rồi
ông cố xa dần vì không muốn mang tiếng lợi dụng lòng tốt của người khác . Trước khi tìm
đến cái chết, lão đã toan tính sắp đặt cho mình chu đáo. Lão chỉ có thể yên lòng nhắm mắt
khi đã gửi ông giáo giữ trọn mảnh vườn, và tiền làm ma. Con người hiền hậu ấy, cũng là
con người giầu lòng tự trọng. Họ thà chết chứ quyết không làm bậy. Trong xã hội đầy rẫy
nhơ nhuốc thì tự ý thức cao về nhân phẩm như lão Hạc quả là điều đáng trọng
* Truyện giúp ta hiểu sự tha hoá biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội
đương thời :
Binh Tư vì miếng ăn mà sinh ra làm liều bản chất lưu manh đã chiến thắng nhân cách trong
sạch của con người . Vợ ông giáo vì nghèo đói cùng quấn mà sinh ra ích kỷ nhỏ nhen, tàn
nhẫn, vô cảm trước nỗi đau của người khác .
Đề 2: Viết lời bình cho đoạn văn:
“Mặt lão đột nhiên co rúm lại …………..Lão hu hu khóc”
Yêu cầu học sinh chỉ ra được cái hay của đoạn văn :
- Về nội dung:
+ Đây là đoạn văn miêu tả ngoại hình nhưng lại làm rõ được sự đau khổ, day dứt, dằn vặt

của lão Hạc khi phải bán Cậu Vàng.
+ Đoạn văn thể hiện rõ tình cảm, thái độ của nhà văn Nam Cao đối với nhân vật lão Hạc:
thấu hiểu, chia sẻ, đồng cảm…Đó cũng chính là thái độ, tình cảm của nhà văn trước nỗi
khổ đau, bất hạnh của con người.
- Về nghệ thuật:
+ Từ ngữ trong đoạn văn có sự chọn lọc đặc sắc ( từ “ép” được dùng rất đắt ) và có sức gợi
tả cao.
+ Chi tiết chọn lọc tiêu biểu.
+ Bút pháp đặc tả được sử dụng rất thành công.
=> Tấm lòng và tài năng của nhà văn đã làm cho đoạn văn miêu tả ngoại hình nhưng mang
đầy tâm trạng.
*********************************************

Chuyên đề 4 (2 buổi): Văn bản truyện nước ngoài.
I. CÔ BÉ BÁN DIÊM

- AN ĐEC XEN
18


Bài tập 1: Cảm nhận về cách kết thúc truyện
“Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên
bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó
tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì
giá rét trong đêm giao thừa. Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa
những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Chẳng ai biết những cái kì diệu em
đã trông thấy và nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui
đầu năm”
- Em đã đi vào bầu ánh sáng vĩ đại, vào sống trong một thế giới của ánh sáng, tình thương,
nơi ấy có người bà hiền hậu thân thương, có những lò sưởi ấm, những bữa ăn thịnh soạn,

những cây thông trang hoàng rực rỡ, được sống trong sự bao dung chở che và lòng độ
lượng nhân từ vô hạn của Chúa. Em đã vĩnh viễn thoát khỏi những đọa đày trên mặt đất đau
thương, vĩnh viễn thoát khỏi những cơn đói hành hạ, thoát khỏi cái rét cắt da cắt thịt, khỏi
nỗi cô đơn, bất hạnh. Em ra đi thanh thản và mãn nguyện “đôi má hồng và đôi môi đang
mỉm cười”. Chắc hẳn gương mặt ấy sẽ còn ám ảnh độc giả bao thế hệ: cô bé ra đi trong
niềm vui, sự bao dung, tha thứ. Cô mỉm cười từ giã tất cả, tha thứ tất cả: những lời chửi
mắng thậm tệ, những trận đòn roi, những sự lạnh lùng vô cảm của con người…. Cô bé ra đi
tựa như một thiên thần, sau khi chịu đựng những đọa đày thế gian đã được trở về với Chúa,
về nước thiên đàng. Ở phương diện đó, kết thúc câu chuyện là một cái kết có hậu, ấm áp và
đầy tính nhân văn. Andersen đã không dùng đôi cánh tưởng tượng để thoát li mà cúi sát
xuống hiện thực khốc liệt của cuộc sống, để cảm thông và yêu thương những số phận bất
hạnh, để nhận ra và trân trọng những ước mơ trong sáng, thánh thiện của con người.
- Nhưng không hẳn là một cái kết hoàn toàn có hậu. Truyện của Andersen khép lại nhưng
lòng người đọc vẫn không nguôi băn khoăn, trăn trở, day dứt suy nghĩ về con người, cuộc
đời, về tình người, tình đời. Nhà văn không né tránh hiện thực nghiệt ngã. Cô bé có tâm
hồn trong sáng, thánh thiện ấy đã chết, chết trong chính đêm giao thừa, trong cái đói, cái rét
hành hạ. Một năm mới sang hứa hẹn những khởi đầu mới nhưng cô bé đã kết thúc cuộc
hành trình của mình tại chính ngưỡng cửa của năm mới. Chẳng có cơ hội, chẳng có tương
lai nào cho em. Trước khi chết vì đói, vì rét, em đã chết vì chính sự lạnh lùng, vô cảm, tàn
nhẫn, ích kỉ của con người. Em không dám về nhà vì sợ những lời chửi mắng, đánh đập của
bố, em trơ trọi, bơ vơ, tuyệt vọng chống chọi với cái giá rét trước ánh mắt vô cảm, thờ ơ
của những người qua đường, em cô đơn, buồn tủi khi mọi người vui vẻ, hân hoan đón chào
năm mới, em nằm đó trong những lời đàm tiếu vô tâm của mọi người. Em từ giã cõi đời,
giã từ cuộc sống vì không ai thương em, không ai che chở, bảo vệ em. Cái chết của em mãi
để lại nỗi xót thương, niềm day dứt như một câu hỏi ám ảnh trong lòng mỗi người: làm sao
để không bao giờ trên mặt đất này còn có những trẻ em bất hạnh như cô bé bán diêm ?
Truyện nhẹ nhàng, dung dị nhưng đặt ra những vấn đề vô cùng sâu sắc, thể hiện giá trị nhân
văn cao đẹp qua tấm lòng yêu thương, trân trọng con người của nhà văn. Cái kết truyện như
một câu hỏi đầy day dứt, như một lời đề nghị nhà văn gửi tới độc giả nhiều thế hệ, ở mọi
phương trời về cách sống, về thái độ, tình cảm đối với những người xung quanh, nhất là

những mảnh đời bất hạnh.
Bài tập 2: Cảm nghĩ của em về nhân vật cô bé trong truyện ngắn Cô bé bán diêm của
An-đec-xen.
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu cám nghĩ sâu sắc nhất về nhân vật cô bé bán diêm (ví
dụ: rất thương xót).
II. Thân bài:
Trình bày vì sao mình có cảm nghĩ đó.
Ví dụ: thương xót cô bé vì:
19


– Cô sống trong hoàn cảnh đáng thương.
– Nhất là tình cảnh của cô bé trong đêm Nô-en.
– Và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé
III. Kết bài:
Nhấn mạnh thêm cảm tưởng của mình, cũng có thể từ đó lên ăn thái độ thờ ơ của người đời
hoặc nghĩ đến bao thân phận các em nhỏ như thân phận cô bé bán diêm này…
Bài tập 4: Giá tri nhân đạo trong truyện
- Tác phẩm thể hiện khát vọng yêu thương , khát vọng hạnh phúc, và niềm tin của cô bé bán
diêm .
- Tác phẩm lên án xã hội tư bản thiếu tình tương giữa con người với con người.
- Tác phẩm còn bộc lộ sự chia sẻ, thương cảm của nhà văn .
Bài tập 5: Cho câu chủ đề sau: Truyện “Cô bé bán diêm” đã thể hiện niềm thương cảm
sâu sắc đối với một em bé bất hạnh”. Em hãy viết thành một đoạn văn (khoảng 8 dòng)
theo lối diễn dịch.
Viết được đoạn văn đúng chủ đề:
- Em bé tội nghiệp, đáng thương, cô đơn, rét buốt, chết đói khát trong đêm giao thừa, chẳng
ai đoái hoài.
- Nhà văn An-đéc-xen thông cảm, yêu thương, đó miêu tả thi thể em với đôi má hồng, đôi

môi đang mỉm cười, hình dung cảnh huy hoàng hai bà chỏu bay lờn trời
- Gợi người đọc lũng thương cảm sâu sắc
II. CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG O. HEN RI
1. Tình bạn cảm động giữa Xiu và Giôn xi
- Hai nữ hoạ sĩ trẻ ở hai miền quê khác nhau: một cô từ bang Men tới, cô kia quê ở Ca-lipho-ni-a và họ cùng thuê chung một phòng trọ nơi phố nghèo.
a. Cơ sở tình bạn giữa hai người.
+ Cùng sở thích về món rau diếp xoăn trộn dầu dấm và kiểu ống tay rộng
+ Cùng lựa chọn nghề hội hoạ: « hàng ngày làm việc lát con đường dẫn tới nghệ thuật
bằng những bức tranh minh hoạ cho những truyện ngắn của các tạp chí, do các nhà văn trẻ
viết để lát con đường của họ dẫn tới văn học »
+ Cùng cảnh nghèo. Họ vẽ tranh để kiếm cái lèn chặt dạ dầy thường hay trống rỗng
của họ và cao hơn nữa là để duy trì sự sống của chính họ mỗi khi mùa đông băng giá đến.
b Sự kiện cho ta thấy sự gắn bó giữa hai cô hoạ sĩ này không đơn thuần chỉ là mối
quan hệ của những người trọ cùng một nhà mà thân thiết như chị em ruột thịt
* Sự việc Giôn xi bị ốm. Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã « đánh ngã
hàng chục nạn nhân ». Đối với những người nghèo, cho dù họ là hoạ sĩ, thì đói rét và bệnh
tật thường xuyên là khách không mời, thường xuyên gõ cửa rình rập và đe doạ họ. Trong
mùa đông, điều đó càng trở nên ác liệt hơn.
=> Đây là nghệ thuật tạo dựng tình huống. Tác giả chọn bệnh tật làm đối tượng miêu
tả trực tiếp để đặc tả những phương diện khác. Chọn một nhân vật trong trạng thái ốm đau
bệnh tật làm tiêu điểm cho hành vi hoạt động của các nhân vật khác là đòn bẩy để từ đó làm
nổi lên các tình cảm nhân đạo, tạo ra thước đo phẩm chất nhân vật (chính trong hoàn cảnh
bi đát ấy, tình bạn được thử thách). Đây là một cách tạo dựng tình huống có vấn đề để dẫn
dắt tới cách giải quyết đột biến bất ngờ khi kết thúc truyện.
* Bệnh tình của Giôn xi ngày càng trầm trọng, tâm trạng tuyệt vọng, buông xuôi.
20


- Giôn xi bị viêm phổi, nằm liệt giường. Bác sĩ nói: « Bệnh tình của cô ấy có thể nói là
mười phần chỉ còn hy vọng được một thôi ».

- Bản thân Giôn xi là một cô gái ốm yếu và thiếu máu.
- Nghèo , không có tiền.
- Chưa từng thành công trong sự nghiệp.
=> Giôn xi không có một sợi dây ràng buộc nào đáng kể với cuộc sống.
- Cô muốn nhìn xem chiếc lá thường xuân cuối cùng bên cửa sổ đã rụng chưa.
- Một cô gái trong tình trạng sức khoẻ yếu ớt, gần như cạn kiệt sức sống.
- Giôn xi cảm thấy mình bất hạnh, bất lực trước bệnh tật, không tha thiết với cuộc
sống, đó là tâm trạng chán nản của kẻ chờ đợi phút chia tay với cuộc đời.
- Cô vô cùng yếu đuối và tuyệt vọng. Giôn xi có những dự cảm mình sẽ chết, đáng sợ
hơn là Giôn xi không cảm thấy luyến tiếc cuộc sống. Tâm hồn cô đã chuẩn bị sẵn sàng cho
một chuyến đi xa, chỉ chờ cho chiếc lá thường xuân bé nhỏ đang quằn quại trong gió lạnh
kia rụng xuống.
- Sự sụp đổ về tinh thần của cô hoạ sĩ trẻ bất hạnh làm cho bệnh tình ngày thêm trầm
trọng. Cuộc sống của Giôn xi giờ đây được ví như chiếc lá nhỏ nhoi, yếu ớt, mảnh mai kia.
Và cuộc đấu tranh để bảo vệ cái cuộc sống nhỏ nhoi, yêu ớt ấy là một cuộc đấu tranh với sự
chiến thắng tuyệt vời của tình người.
(Cô bệnh nhân ấy « yên trí là mình không thể khỏi được » đã bình thản lạnh lùng làm
vái việc nhìn qua cửa sổ trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiếc lá thường xuân
đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn Xi: chiếc lá là biểu tượng của thước đo thời
gian, thước đo cuộc đời. Cuộc đời của cô, cô đã xây dựng cho mình một niềm tin bất hạnh:
cô sẽ ra đi khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Một niềm tin định mệnh đớn
đau. « Trong khắp thế gian, cái cô đơn nhất là một tâm hồn đã chuẩn bị sẵn sàng cho
chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình. Những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này
cứ lơi lỏng dần từng cái một thì ý nghĩ kì quặc kia hình như lại càng choán lấy tâm trí cô
mạnh mẽ hơn ». Sự so sánh cuộc đời con người với chiếc lá mong manh trước làn gió mạnh
trong giá rét phũ phàng của mùa đông là một sự so sánh tuyệt vời sâu sắc. Đồng thời nó
cũng nói lên sự đồng cảm xót xa của nhà văn trước đồng loại. Nghèo thường đi đôi với hèn,
nhưng ở đây không phải là hèn trong phẩm cách mà là yếu đuối trong niềm tin, trong bản
lĩnh. Trong cuộc sống tựa vai vào người khác như vậy, Giôn xi tự cảm thấy mình là gánh
nặng cho người khác, cô đau khổ tự giầy vò vì thấy người khác phải chăm sóc mình, phải

bận tâm vì mình. Niềm hi vọng ở đây duy nhất cô đặt cả vào chiếc lá thường xuân vàng úa,
mỏng manh, nhỏ nhoi đang quằn quại trong gió lạnh. Cuộc đời của cô sẽ chấm dứt khi
chiếc lá cuối cùng đó lìa cành. Đây quả là một sự so sánh tuyệt vời rất phù hợp với kiểu tư
duy hình tượng Đông phương. Cuộc đời được ví với những cái mảnh mai yếu ớt, để đổ, dễ
vỡ, là ngọn đèn cạn dầu leo lét trước gió. Và cuộc đấu tranh để bảo tồn cái nhỏ nhoi ấy, để
bảo vệ cái yếu ớt ấy là phẩm chất tuyệt vời của tình người)
c. Xiu đã làm gì để bảo vệ Giôn xi ?
Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách, Xiu thương bạn vô cùng, cô
đã khóc « đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản ». Xiu lo âu và đã làm tất cả để
cứu Giôn xi.
- Cô vẽ nhiều hơn để có tiền mua thuốc và mua thức ăn cho bạn.
- Cô chăm sóc động viên bạn, nén nỗi xót thương lo lắng để nâng đỡ tinh thần cho bạn.
khi đứa em tội nghiệp « nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ » thì Xiu vẫn
21


kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua làn nước mắt : « Em thân yêu, em yêu dấu !... Em hãy hứa
với chị là hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa... Em hãy cố ngủ đi »
- Xiu đã tận tình chăm sóc em, lúc thì quấy nước súp gà, lúc thì pha sữa với rượu Boóc
đô, lúc thì đặt thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ men. Xiu đã giành giật
với tử thần để chạy chữa cho đứa em nuôi bé bỏng tội nghiệp.
=>Xiu là hiện thân của lòng trắc ẩn, vị tha, là một con người giầu đức hy sinh thầm
lặng, có một trái tim nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc động và
ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị em thuỷ chung, cao quý. Nhân vật Xiu toả sáng « bức
thông điệp màu xanh » của « chiếc lá cuối cùng »
2. Nhân vật cụ Bơ men.
- Hoàn cảnh
- Vẻ đẹp phẩm chất:
+ Giàu lòng thương người, giàu đức hi sinh.
+ Có ước mơ cao đẹp, có khao khát sáng tạo nghệ thuật cống hiến cho đời.

3. Vì sao có thể nói : « chiếc lá cuối cùng » là một hình tượng quan trọng, linh hồn của
truyện ngắn này ?
Không phải ngẫu nhiên hình ảnh chiếc lá trường xuân cuối cùng đã trở thành nhan đề
một truyện ngắn bất tử của nhà văn Mĩ lừng danh O.Hen ri. Đó là một chi tiết cảm động,
biểu tượng nghệ thuật bất ngờ, độc đáo mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
a. Chiếc lá được vẽ trong hoàn cảnh đặc biệt.
b. Chiếc lá trường xuân nhỏ bé tầm thường, do bàn tay một hoạ sĩ bình thường tạo ra
rất giống chiếc lá thật. Bức tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt chuyên môn tinh trẻ
của Giôn xi nhìn ngắm hoài mà sao không thể phân biệt nổi lá thật hay lá vẽ ? « Sau trận
mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài cả một đêm, tưởng chừng không bao giờ
dứt, vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng
trên cây. Tuy ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa đã nhuốm
màu vàng úa, tuy vậy chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành cách mặt đất chừng sáu thước.
Và « ngày hôm đó trôi qua và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn trông thấy chiếc lá
thường xuân đơn độc bám lấy cái cuống của nó trên tường và rồi, cùng với màn đêm buông
xuống, gió bấc lại lồng lộn, trong khi mưa vẫn đập mạnh vào cửa sổ và mái hiên thấp kiểu
Hà Lan mưa rơi lộp độp xuống mặt đất ». Chiếc màn xanh lại được kéo lên khi buổi sáng
lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó ».
c. Chiếc lá dũng cảm đó đã cứu sống một con người.
- Nhờ chiếc lá giả- lá vẽ (nhưng có thật) vào mặt bức tường trước khuôn cửa sổ mà cô
hoạ sĩ trẻ Giôn Xi dần khỏi bệnh. Hoạ sĩ già Bơ men đã cứu được cô gái đáng thương bằng
kiệt tác đầu tiên- và cũng là cuối cùng của mình, hay chính cô đã tự cứu cô bởi niềm hi
vọng lớn dần, mạnh ấm dần khởi nguồn từ chiếc lá lạ lùng, gan lì bám trụ, quyết không
chịu lìa khỏi ngọn dây leo loằng ngoằng.
- Chiếc lá cuối cùng xuất hiện kịp thời đúng lúc đó đã đem lại niềm tin vào sự sống
cho Giôn xi, đã thăng hoa nội lực cho Giôn xi, giúp cô chiến thắng gã « viêm phổi » dai
dẳng hiểm ác. Cô chợt hiểu ra: « có một cái gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy
để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào » và hi vọng « một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na
Plơ » lại trỗi dậy trong cô; cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực và
mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: « được năm phần mười rồi. Chăm sóc chu

đáo thì chị sẽ thắng và « cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng ». Không hẳn chiếc lá của
cụ Bơ men đã cứu Giôn xi khỏi tắt lịm đi như ngọn đèn mờ con con trước gió đông lạnh
22


buốt mà chính bàn tay già nua của người hoạ sĩ láng giềng nghèo, cô đơn trong đêm gió
tuyết ấy chỉ cố tạo nên niềm hi vọng, khơi bùng lên ngọn lửa tình đời sắp lụi tàn nơi trái tim
người đồng nghiệp trẻ không may.
d. Sự hội tụ phút thăng hoa giữa cái tài và cái tâm : Chiếc lá không phải chỉ được vẽ
bằng bút lông, bột màu mà bằng cả tình thương yêu bao la và lòng hi sinh cao thượng của
cụ Bơ- men.
- Bác Bơ men vẽ chiếc lá ấy trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng đã
rụng xuống. Do đắm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ men đã nhiễm bệnh sưng phổi
và đã qua đời sau đó hai ngày. Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá, bác
không phải không cảm thấy giá buốt, không phải không cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng
mình. Nhưng lòng thương yêu Giôn xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để cứu sống cô
đã thúc đẩy bác vượt lên trên giá buốt, hiểm nguy để vẽ chiếc lá cuối cùng.
- Thực ra chiếc lá cuối cùng đã rụng, còn lại mãi trên tường không phải là thần dược, nó là
tác phẩm nghệ thuật được tạo nên bởi tình yêu thương con người, của sự hi sinh cao cả,
quên mình tuyệt đối, vô tư tuyệt đối, là lòng yêu mến cuộc sống bỏng cháy của người hoạ sĩ
già. Chiếc lá cuối cùng, sáng tạo một đêm kết quả của tình yêu thương trĩu nặng dồn qua
ngòi bút xuất thần của cụ Bơ men.
e. Chiếc lá là một kiệt tác bởi cái giá của nó quá đắt: Cứu một người nhưng lại cướp
đi một người khác – chính người đã sản sinh ra nó : sự hi sinh lớn lao. « Chiếc lá » nối dài
một cuộc đời, cướp đi một cuộc sống, để lại trong bao thế hệ người đọc niềm xót xa,
thương kính người hoạ sĩ nghèo không may mắn, đồng thời lại vô cùng kinh ngạc về sức
mạnh diệu kì của nghệ thuật- đem lại cuộc sống và hi vọng cho con người. Dù phải đổi giá
cực đắt, nhưng nghệ có nghệ sĩ chân chính nào không vui lòng đánh đổi tất cả để lấy một
« chiếc lá cuối cùng ».
4. Đoạn trích 'chiếc lá cuối cùng' của nhà văn Ohenri để lại ấn tượng sâu sắc trong

lòng người đọc bởi ẩn chứa trong nó là sức mạnh của nghệ thuật hội họa.
- Giới thiệu khái quát đoạn trích “Chiếc lá cuối cùng”.
- Trước hết, chúng lòng yêu nghề, sức mạnh của nghệ thuật đã gắn kết cuộc sống của ba
họa sĩ nghèo. Họ luôn biết yêu thương, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau: Bác bơ men thường
làm mẫu vẽ cho các họa sĩ để kiếm tiền, khi Giôn-xi bị bệnh sưng phổi và tuyệt vọng không
muốn sống nữa thì ở bên cạnh cô có người bạn thân thiết là Xiu và bác Bơ men thay nhau
chăm sóc cô, luôn an ủi cô mỗi khi cô sợ sệt nhìn ra ngoài cửa sổ, những chiếc là cuối cùng
thường xuân còn rất ít.
- Sức mạnh của hội họa đã ươm mầm sự sống mang lại nghị lực cho Giôn-xi. “Chiếc lá
cuối cùng” trở thành kiệt tác vì nó như liều thần dược đã cứu được Giôn xi. và bác Bơ Men
đã âm thầm hi sinh cả mạng sống của mình để sáng tạo nên kiệt tác nghệ thuật chiếc là cuối
cùng.
- Đó là bức thông điệp về tình yêu thương, nhắc nhở mọi người, kêu gọi sự yêu thương giữa
con người với con người, kêu gọi nghệ thuật hướng về con người. Điều đó đã khẳng định
sức mạnh của nghệ thuật để phục vụ cuộc sống cuẩ nhân da.
- Suốt bốn mươi năm lao động, bác Bơ Men luôn thất bại nhưng đến phút cuối cùng, mục
đích giành lại sự sống cho một con người, bác đã hoàn thành kiệt tác của mình trong hoàn
cảnh vô cùng đặc biệt.
- Sức mạnh nghệ thuật hội họa trong 'chiếc là cuối cùng' cuẩ Ohen ri sáng người tinh thần
nhân đạo cao cả.
III. HAI CÂY PHONG Ai-ma-tốp
23


Bài tập 1. Ngòi bút miêu tả đậm chất hội họa của tác giả Ai-ma-tốp trong đoạn trích
“Hai cây phong”
A, Giải thích khái niệm: Ngòi bút miêu tả đậm chất hội họa là cách miêu tả bằng thứ ngôn
ngữ giàu hình ảnh khiến cho đối tượng được miêu tả được hiện lên với những đường nét,
hình ảnh, màu sắc,… cụ thể, sinh động.
B, Phân tích, chứng minh:

- Bức tranh thiên nhiên quê hương qua ngòi bút miêu tả của tác giả:
+ Đoạn văn mở đầu miêu tả vị trí không gian làng Ku-hu-rêu và thảo nguyên Ca-dắcxtan(dc:…) Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã làm hiện lên 1 không gian bao la của vùng
thảo nguyên, mênh mông và nổi lên giữa khoảng mênh mông ấy là hình ảnh rặng núi với
những khe nước ào ào đổ xuống, hình ảnh con đường sắt băng qua cánh đồng chạy tít tới
chân trời như những điểm nhấn đầy sinh động giúp người ta hình dung rõ nét hình ảnh một
miền quê yên bình giữa thiên nhiên hoang dã và thơ mộng.
+ Đoạn thơ miêu tả cảnh vật quê hương bao la dưới tầm nhìn của lũ trẻ khi chúng ngồi
trên cành cao nhất của 2 cây phong ngắm nhìn phong cảnh quê hương. Bức tranh được vẽ
bằng nét bút phóng khoáng, mềm mại: không gian thảo nguyên bao la, hoang vu mất hút
trong làn sương mờ đục với những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc
mong manh,..” Màu sắc hài hào, nền nã, phông nền lá màu xanh pha lẫn màu bang bạc của
dòng sông và đám mây, làm tăng them vẻ bí ẩn và huyền ảo, đầy quyễn rũ của miền đất lạ.
+ Biện pháp so sánh:…
+ Biện pháp nhân hóa:
+ Cách dung từ ngữ giàu sức gợi tả:Biếng biếc, …làm cho hình ảnh hiện lên sinh động,
giàu sức gợi tả.
Bài tập 2. VB Hai cây phong giúp em bồi đắp những tình cảm gì
"Hai cây phong" là một tác phẩm sinh động, gợi tả sâu sắc về tình bạn gắn bó giữa con
người- thiên nhiên, kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ; tình yêu quê hương sâu nặng. Tác phẩm này là
những trang hồi ký, hoài niệm về một ấu thơ vui vẻ bên những người bạn thiên nhiên.
Chúng gắn bó với "tôi" như hình với bóng. Nếu được ngồi dưới tán lá sum suê và bóng râm
mát rượi của hai cây phong thì thật là thích. Vào năm học cuối cùng, "chúng tôi" còn chạy
lên phá tổ chim. Những trò nghịch trẻ con thì không bao giờ dừng lại. Họ leo lên những
cành cao ngất, tựa như trên mây, nhìn ngắm những vùng đất xung quanh. Những vùng đó
mở ra trước mắt các cậu bé là một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh
sáng. Đúng là những gì ta có được ở tuổi thơ thì sẽ còn mãi mãi. Cho đến khi "tôi" trưởng
thành, đã là một hoạ sĩ, thì tình bạn, tình yêu thiên nhiên vẫn mãi trong lòng. Mỗi khi
xuống tàu, bước chân trên mảnh đất quê hương, điều đầu tiên người họa sĩ nghĩ đến là đưa
mắt tìm người bạn tri kỉ của tuổi thơ- hai cây phong. Chỉ bằng những ngôn từ bình dị, lời
văn chân thành và đặc biệt, bằng tình yêu quê hương sâu sắc, Ai- ma- tốp đã viết lên tác

phẩm NGƯỜI THẦY ĐẦU TIỂN (tiêu biểu là đoạn trích "Hai cây phong"). Tác phẩm văn
học này đã giúp em thêm yêu tuổi thơ, yêu quê hương hơn.
Bài tập 3. Tình yêu cố hương đằm thắm, thiết tha, lòng biết ơn người thầy đầu tiên đã
trồng cây và trồng người nơi thảo nguyên hoang vu mênh mông trong văn bản “Hai
cây phong”
“Người thầy đầu tiên” là tác phẩm xuất sắc của Ai-ma-tốp, nhà văn xứ Cư-rơ- gư-xtan của
nước Cộng hòa ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Hai cây phong là phần đầu của
truyện gợi tả cảnh sắc làng Ku-ku-rêu, hồi tưởng lại những kỉ niệm êm đềm về hai cây
phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của
mình.

24


Trích đoạn này đã thể hiện một cách đằm thắm, thiết tha tình yêu cố hương, biểu lộ lòng
biết ơn người thầy đầu tiên đã trồng cây và trồng người nơi thảo nguyên hoang vu mênh
mông.
Trước hết tình yêu quê hương đã được thể hiện cụ thể qua bức tranh cảnh sắc làng
Ku-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa
trở về thăm làng. Những tiếng: “ làng Ku-ku-rêu chúng tôi”…, ‘‘phía dưới làng tôi…”,
“phía trên làng tôi” cất lên thật gợi cảm, đầm ấm và mến thương biết bao ! Làng ở “ven
chân núi” trên một cao nguyên. Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Có “thung lũng đất
vàng”, có cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan “mênh mông”. Có khe nước “ào ào từ nhiều
nguồn đã đổ xuống”, có rặng núi Đen và con đường sắt “băng qua đồng bông chạy tít đến
tận chân trời phía tây”. Cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đường
nét đậm nhạt, cao thấp, gần xa làm hiện lên một không gian nghệ thuật rất đẹp với bao yêu
mến tự hào của một đứa con đối với cố hương, của một họa sĩ tài hoa trước thiên nhiên kì
thú. Sau câu chữ là bao cảm xúc dâng trào, với bao bồi hồi thương nhớ.
Nhớ làng Ku-ku-rêu đối với đứa con xa quê trở về là nhớ hai cây phong trên đồi cao ở đầu
làng. Họa sĩ biết hai cây phong “từ thuở bắt đầu biết mình ”, một sự gắn bó thiết tha với cả

một đời người. Hai cây phong lớn “như những ngọn hải đăng đặt trên núi” tìrn gây ấn
tượng đối với bất cứ ai, dù “đi từ phía nào” đến thăm làng Ku-ku-rêu, Riêng đối với họa sĩ,
mỗi lần về thăm quê nhà đã “từ xa đưa mắt nhìn hai cây phong thân thuộc: ấy” và lự coi đó
là “bổn phận đầu tiên” của mình. Với họa sĩ, tình yêu quê hương đã chan hòa, đã gắn bó với
tình thương nhớ hai cây phong lớn đầu làng.
Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nhớ “với một nỗi buồn da diết”; nên càng về gần tới
làng lại càng nhớ. Đứa con li hương tự hỏi thầm lòng mình: “Ta sắp được thấy chúng chưa,
hai cây phong sinh đôi ấy ? Mong sao -chóng về tới làng; chóng lên đồi mà đến với hai cây
phong “. Và hạnh phúc biết bao đối với đứa con xa quê lâu ngày mới trở về, được “đứng
dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất “.
Nhớ cây phong đối với khách tha hương là nhớ “tiếng nói riêng”, “tâm hồn riêng, chan
chứa những lời ca êm diu” của nó. Nhớ cây phong là nhớ dáng hình của nó, nhớ thân cây
“nghiêng ngà”. nhớ âm thanh “rì rào” của lá cành “lay động” cả ban ngày hay ban đêm. Aima-tốp dã sáng tạo nên hàng loạt ẩn dụ. so sánh và nhân hóa để gợi tả và biểu cảm về
‘‘tiếng nói riêng”, “tâm hồn riêng” của hai cây phong quê nhà: “như một làn sóng thủy triều
dáng lên, vỗ vào bãi cát”, “như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyền qua lá cành,
như một đốm lửa vô hình”… Có lúc Hai cây phong tưởng như đang trầm tư “bỗng im bặt
một thoáng” rồi “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”… Nếu cây tre,
luỹ tre làng ta, trong “Bão bùng thân bọc lấy thân – Tay ôm tay níu tre gắn nhau thêm”
(Nguyễn Duy), thì cây phong làng Ku- ku-rêu, cây phong thảo nguỵên trong mây đen và
bão dông bị xô gãy cành”, nó vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng
rực” Hai cây phong có một sức sống vô cùng mãnh liệt, biểu tượng cho bao phẩm chất tốt
đẹp của con người quê hương, con người thảo nguyên.
Đây Là một đoạn văn hay nhất, giàu hình tượng và biểu cảm nhất nói về hai cây phong, thể
hiện một sự tưởng tượng kì diệu, phong phú, với tất cả tình yêu nồng hậu đối với hoa cỏ,
cây lá
… “Trong làng tôi không thiếu gì các loại , nhưng Hai cây phong này khác hẳn… và reo
vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Họa sĩ yêu hai cây phong quê nhà với tất cả tấm lòng và tình nghĩa thủy chung, như ông đã
tâm sự: “Tuổi trẻ của tôi dã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc
gương thần xanh”. “Mảnh vỡ của chiếc gương thân xanh” ấy là tâm hồn tuổi thơ vô cùng

trong sáng.
25


×