Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực ngành CNTT nhằm đáp ứng yêu cầu mới của toàn cầu hóa trong thời kỳ hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.02 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
QUAN HỆ LAO ĐỘNG
Đề tài: Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực ngành CNTT nhằm đáp ứng yêu cầu
mới của toàn cầu hóa trong thời kỳ hội nhập.

Hà nội tháng 7 năm 2016
1


LỜI NÓI ĐẦU

Công nghệ thông tin (CNTT) đang tham gia ngày càng sâu rộng vào mọi
mặt của đời sống xã hội và trở thành công cụ không thể thiếu đối với mọi cá
nhân, tổ chức. Trong đó, nhân lực CNTT đóng vai trò then chốt trong việc
nghiên cứu, sản xuất và phát triển các sản phẩm, dịch vụ CNTT phục vụ nhu cầu
của các ngành, lĩnh vực kinh tế xã hội. Mục tiêu của nhiều quốc gia và
Việt Nam là phát triển đội ngũ người làm CNTT đủ mạnh đáp ứng yêu cầu trong
nước và hướng tới xuất khẩu lao động ra khu vực và thế giới. Thực tế ở nước ta
hiện nay, sự phát triển nguồn nhân lực CNTT vẫn chưa theo kịp với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ, dẫn đến tình trạng thiếu hụt về cả quy mô và chất
lượng. Trước thềm hội nhập, bài toán đào tạo nhân lực ngành CNTT trở thành
thách thức lớn đối với các cá nhân và đơn vị đào tạo CNTT trong nước. Từ thực
tiễn cấp bách nhóm sinh viên chọn đề tài “Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực
ngành CNTT nhằm đáp ứng yêu cầu mới của toàn cầu hóa trong thời kỳ hội
nhập” để nghiên cứu môn học Quản trị nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn cầu
hóa.

2


MỤC LỤC



3


NỘI DUNG
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng: là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, nguồn
nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động, không phân biệt người
đó đang được phân bố vào ngành nghề, lĩnh vực, khu vực nào.
Theo nghĩa hẹp: là lực lượng đảm đương lao động chính của xã hội,
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động.
Theo quan điểm thống kê thị trường lao động: theo quy định của Tổng cục
Thống kê thì nguồn nhân lực gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang ở trong
các tình trạng sau đây: đang thất nghiệp, đi học, làm nội trợ trong gia đình mình,
không có nhu cầu làm việc.. hoặc một số tình trạng khác chưa tham gia lao động.

2. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức, cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế,… trên quy mô toàn
cầu.
Về kinh tế toàn cầu hóa được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói
chung và tự do hóa thương mại hay tự do thương mại nói riêng. Cũng ở góc độ
kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các

dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa.

3. Đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo là hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động tiếp thu và rèn
luyện các kĩ năng cần thiết để thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của mình.

4


Đào tạo nguồn nhân lực là một loại hoạt động có tổ chức, được thực hiện
trong một thời gian nhất định và nhằm đem đến dự thay đổi nhân cách và nâng
cao năng lực của con người.
Là quá trình học tập để chuẩn bị con ngưởi cho tương lai, để họ có thể
chuyển tới công việc mới trong thời gian thích hợp.
Là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân một công việc mới dựa trên
những định hướng tương lai của tổ chức.
Theo các quan niệm trên, khi nói đến đào tạo nguồn nhân lực là nói đến
việc trang bị cho nười lao động: kiến thức phổ thông, kiến thức chuyên nghiệp,
kiến thức quản lý… Từ đó cho thấy, Đào tạo nguồn nhân lực là hoạt động làm
cho con người trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định. Là
quá trình học tập để làm cho con người có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ có
hiệu quả hơn trong công tác của họ.
Đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết cho sự thành công của tổ chức và sự
phát triển chức năng của con người. Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ
được thực hiện bên trong một tổ chức, mà còn bao gồm một loạt những hoạt
động khác được thực hiện từ bên ngoài, như: học việc, học nghề và hành nghề.
Kết quả của quá trình đào tạo nguồn nhân lực sẽ nâng cao chất lượng, phát triển
nguồn nhân lực đó.


4.

Định hướng của nước ta về đào tạo nguồn nhân lực ngành công
nghệ thông tin trong bối cảnh toàn cầu hóa
4.1. Định hướng phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2020
Tại Quyết định số 698/QĐ-TTG năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ : Phê
duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020 nêu:
+) Xây dựng nguồn nhân lực CNTT đủ phẩm chất, năng lực làm chủ công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, với cơ cấu hợp lý, đáp ứng kịp thời và thường xuyên nhu
cầu xây dựng và phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Đảm bảo đủ nhân
lực CNTT phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước và một phần thị trường
5


nước ngoài. Không ngừng nâng cao nhận thức, phổ cập kiến thức và kỹ năng sử
dụng các ứng dụng và dịch vụ CNTT cho toàn xã hội. Đến năm 2020, 70% lao
động trong các doanh nghiệp được đào tạo về CNTT.
+) Nâng cao chất lượng và tăng số lượng giảng viên, giáo viên CNTT,
điện tử, viễn thông ở các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp và dạy nghề. Đến năm 2020, trên 90% giảng viên đại học và trên 70%
giảng viên cao đẳng về CNTT có trình độ thạc sĩ trở lên, trên 30% giảng viên đại
học có trình độ tiến sĩ.
+) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ giáo viên dạy tin
học cho các cơ sở giáo dục phổ thông. Đến năm 2020, toàn bộ học sinh các cơ sở
giáo dục phổ thông và các cơ sở giáo dục khác được học ứng dụng CNTT.
4.2. Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin đến
năm 2020
Theo đó tại Quyết định số 1755/QĐ-TTG năm 2010 của Thủ tướng Chính
phủ : Phê duyệt Đề án "Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ

thông tin và truyền thông" cũng nêu:
Mục tiêu đến năm 2020: đạt 80% sinh viên công nghệ thông tin và truyền
thông tốt nghiệp ở các trường đại học đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để
tham gia thị trường lao động quốc tế. Tổng số nhân lực tham gia hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin đạt 1 triệu người, trong đó bao gồm
nhân lực hoạt động trong nước và nhân lực tham gia xuất khẩu. Tỷ lệ người dân
sử dụng Internet đạt trên 70%.
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VIỆT NAM
II.

Công nghệ thông tin cùng sự phát triển của internet, thương mại điện tử
đang trở thành một lĩnh vực phát triển rất mạnh mẽ, nó thúc đẩy các ngành sản
xuất dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới, và đặc biệt quan trọng với các nước đang
phát triển trong đó có Việt nam. Công nghệ thông tin là chiếc chìa khoá để mở
cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Mạng thông tin là môi trường lý tưởng cho sự
6


sáng tạo, là phương tiện quan trọng để quảng bá và nhân rộng nhanh vốn tri thức,
động lực của sự phát triển, thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội, phát triển
năng lực của con người. Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính
và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội. Và với sự ra đời của Internet kết nối toàn cầu, thì ngành
Công nghệ thông tin ngày càng trở nên “đắt giá” là một phần không thể thiếu đối
với sự phát triển của xã hội ngày nay. Đây là ngành học được đầu tư và chú trọng
ở mọi đất nước, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và
tự do hoá thương mại đã và đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại

mà ở đó, CNTT là phương tiện không thể thiếu giúp rút ngắn mọi khoảng cách
địa lý và thu hẹp mọi giới hạn giữa các quốc gia. Vì vậy, để vận hành, phát triển
các hệ thống và các ứng dụng công nghệ thông tin, đòi hỏi một nguồn nhân lực
rất lớn và vẫn còn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo.
1.
Thực trạng nhu cầu nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin
ở nước ta hiện nay.
Theo báo cáo về ngành CNTT do VietnamWorks công bố cuối năm 2015,
trong 3 năm gần đây, số lượng công việc của ngành này đã tăng trung bình
47%/năm. Tuy nhiên, số lượng nhân sự ngành này chỉ tăng ở mức trung bình
8%. Nguyên nhân chính là số công ty tuyển dụng tăng 69% so với năm 2012 và
số công ty phần mềm tăng đến 124% chỉ trong vòng 4 năm. Theo ước tính của
VietnamWorks, nếu tiếp tục tăng trưởng nhân lực ở mức 8%, VN sẽ thiếu hụt
khoảng 78.000 nhân lực CNTT mỗi năm và đến năm 2020 sẽ thiếu 1.000.000
nhân lực, chiếm hơn 78% tổng số nhân lực CNTT thị trường cần. Tuy nhiên, để
đạt được tỉ lệ người tìm việc so với công việc ngành IT ở mức 17 ứng viên cho
mỗi công việc (tỉ lệ năm 2013), chúng ta cần khoảng 1,2 triệu nhân lực ngành IT
vào năm 2020. Hiện nay để đáp ứng nhu cầu thị trường, một số doanh nghiệp,
nhà đầu tư tại Việt Nam đã phải sang Philippines, Myanmar… để tuyển nhân
lực. Số lượng việc làm dồi dào khiến “cuộc chiến” thu hút, giữ chân nhân tài
CNTT giữa các công ty ngày càng gay gắt.
7


Với nhu cầu như vậy có thể thấy ngày càng khan hiếm nguồn nhân lực làm
việc trong ngành CNTT và số lượng thiếu hụt cứ gia tăng mỗi năm. Đa số doanh
nghiệp CNTT hiện tại chọn giải pháp săn đón các bạn sinh viên khá giỏi từ năm
3, 4 tại các trường uy tín. Các vị trí tuyển dụng của doanh nghiệp thường tập
trung trong phát triển ứng dụng trên nền tảng di động, điện toán đám mây, bảo
mật và an ninh mạng, quản trị mạng...”. Tuy nhiên câu chuyện thiếu nhân lực

CNTT không chỉ gói gọn ở số lượng mà còn nằm ở chất lượng.
Hơn nữa trong bối cảnh ứng dụng CNTT ngày càng trở nên sâu rộng như
hiện nay ở nước ta thì không thể không nhắc đến nhu cầu cấp thiết về nhân lực
đảm bảo an toàn an ninh thông tin (ATTT) trong các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp. Đội ngũ chuyên gia ATTT ở nước ta hiện nay thực sự chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tế cả về số lượng và chất lượng. Hiện tại, đội ngũ làm ATTT
trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chủ yếu là các cán bộ CNTT làm kiêm
nhiệm. Đa phần các cán bộ ATTT của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp hiện
nay chưa được đào tạo chính quy, chuyên sâu về ATTT, chưa có các chứng chỉ
của các tổ chức có uy tín trong nước, quốc tế về ATTT. Cả nước hiện nay chỉ
mới có 02 trường có đào tạo chuyên ngành ATTT (Học viện Kỹ thuật Mật mã và
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông). Với tình hình này thì đến 2020, số
sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành ATTT vào khoảng 4.600 sinh viên. Trong khi
đó, theo khảo sát nhanh của Bộ TTTT, chỉ tính riêng khối các cơ quan nhà
nước, đến năm 2020 cả nước cần khoảng khoảng 7.840 chuyên gia ATTT mới có
thể đáp ứng được yêu cầu về số lượng.
2.
thông tin

Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghệ

2.1.Thuận lợi trong công tác đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông
tin
Vấn đề về phát triển đội ngũ nhân lực CNTT đã được Đảng, Chính phủ
quan tâm, đưa vào trong hầu hết các văn bản pháp luật về CNTT. Luật CNTT đã
dành trọn một mục (Điều 42 đến 46) quy định các nội dung về Phát triển nguồn
nhân lực CNTT. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển
nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 theo Quyết
8



định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009. Kế hoạch này đã đặt ra các mục tiêu cụ
thể, đề ra nhiều giải pháp thúc đẩy đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực CNTT từ
cả phía cung cấp và phía sử dụng:
chú trọng đổi mới trong đào tạo, tăng
cường phổ cập tin học cho xã hội, đẩy mạnh đầu tư phát triển nhân lực CNTT.
Trong Đề án Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và
truyền thông (Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010), phát triển nhân lực
CNTT được xem là nhiệm vụ hàng đầu. Mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là phát
triển được 1 triệu người tham gia hoạt động trong lĩnh vực CNTT. Ngày
28/5/2012, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã ban hành Quy
hoạch phát triển nhân lực ngành Thông tin và Truyền thông giai đoạn 2011 –
2020 (Quyết định số 896/QĐ-BTTTT), trong đó nhân lực CNTT là một nội dung
quan trọng. Có thể nói, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực CNTT đã định vị
được vai trò và được quan tâm chỉ đạo của Chính phủ trong suốt những năm
qua. Đó là một yếu tố thuận lợi để nguồn nhân lực CNTT tại Việt Nam có điều
kiện duy trì tốc độ phát triển và đạt được những bước tiến trong thời gian tiếp
theo.
Bên cạnh thuận lợi về chính sách pháp lý, lợi thế không nhỏ trong việc
phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam chính là số lượng các cơ sở đào tạo
chính quy dài hạn về CNTT tương đối dồi dào. Trong hơn 400 trường đại học và
cao đẳng trên cả nước, có 2/3 trường có đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực CNTT.
Chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng chuyên ngành CNTT cũng tăng theo từng
năm, trong đó chỉ tiêu tuyển sinh đến năm 2013 (khoảng 67,518 sinh viên). Số
lượng người tốt nghiệp ngành CNTT tăng đều đặn hàng năm, năm 2013 đạt
khoảng 42.896 người tăng hơn 8.000 người so với năm 2010, năm 2015 (khoảng
556.000 sinh viên) trong đó trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 65,0%. Có
thể nói, số lượng người học và tốt nghiệp ngành CNTT tương đối đông đảo và
một phần trong số đó đã đáp ứng được những yêu cầu cao trong khi làm việc và
nghiên cứu về CNTT.


9


Biểu đồ 1: Số lượng trường ĐH, CĐ có đào tạo về CNTT, điện tử, viễn thông

Biểu đồ 2: Chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ chuyên ngành CNTT, điện tử, viễn thông

Biểu đồ 3: Tỉ lệ tuyển sinh ĐH, CĐ chuyên ngành CNTT, điện tử, viễn thông

10


Nội dung

2010

2011

2012

2013

Số lượng SV ĐH, CĐ CNTT, điện
tử, viễn thông thực tế được tuyển

56.338

55.197


57.917

55.001

Số lượng SV ĐH, CĐ CNTT, điện
tử, viễn thông đang học

169.156

173.107

169.302

176.614

Số lượng SV ĐH, CĐ CNTT, điện
tử, viễn thông đã tốt nghiệp

34.498

41.908

40.233

42.896

Bảng 1: Số lượng sinh viên CNTT, điện tử, viễn thông
Trước đây, đa số quan điểm cho rằng: các chứng chỉ và các khóa ngắn hạn
về CNTT chỉ mang tính chất bổ sung và bổ trợ cho đào tạo chính quy CNTT thì
hiện nay loại hình này đang đóng vai trò như một phương thức cung cấp nhân

lực có trình độ thực tiễn cao hơn so với loại hình đào tạo truyền thống. Vì vậy,
ngày càng có nhiều người tham gia vào các khóa đào tạo này. Hiện có nhiều cơ
sở đào tạo phi chính quy liên kết với nước ngoài như Aptech, NIIT,
Informatics Vietnam, Informatics Singapore, KENT... Bên cạnh đó là các cơ sở
đào tạo trong nước chuyên sâu về lĩnh vực CNTT như: SaigonCTT, HanoiCTT,
BKIS, Học viện mạng Netpro, Học viện mạng IPMAC, Athena… Các đơn vị
này chủ yếu dựa vào hệ thống giáo trình của các hãng công nghệ lớn trên thế giới
(như Juniper, Cisco, Nokia-Checkpoint, Trend Micro, FoundStone…) và cấp
chứng chỉ CNTT của chính hãng đó. Đây là con đường ngắn nhất để người lao
động kiếm được việc làm ở các công ty, bởi lẽ các chứng chỉ này đa phần được
công nhận trên toàn thế giới. Ngoài ra, còn một số lượng lớn các cơ sở liên kết
với các trường đại học nước ngoài được các trường đại học ở các thành phố lớn
triển khai. Đó là chưa nói đến các trung tâm tin học đào tạo các khoá ngắn hạn,
đào tạo theo chuyên ngành, đào tạo từ xa và đào tạo trong doanh nghiệp lớn ở Hà
Nội, Thành phố Hồ chí minh, Đà Nẵng... Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, số
lượng trung tâm đào tạo hiện nay đã phần nào đáp ứng đủ về nhu cầu đào tạo
11


ngắn hạn. Đây cũng là một tín hiệu thuận lợi để cải thiện chất lượng nhân lực
CNTT.
2.2.Những khó khăn trong việc đào tạo nguồn nhân lực ngành công
nghệ thông tin ở nước ta hiện nay.
Mặc dù đã xây dựng được một số văn bản quy phạm thúc đẩy phát triển
nhân lực CNTT nhưng các văn bản này chủ yếu tập trung vào những quy định về
mục tiêu, giải pháp, tổ chức hệ thống, chưa có cơ chế tài chính đủ mạnh, thiếu
những quy định xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi và thu hút các thành phần
kinh tế trong tham gia đào tạo nhân lực hay ưu đãi sử dụng nhân lực CNTT.
Ngoài ra, chưa có các chính sách đặc thù dành riêng cho đào tạo nhân lực CNTT.
Do vậy, việc áp dụng các chính sách chung của các ngành đã không đẩy nhanh

được tốc độ, gây dựng nhanh nguồn nhân lực chủ chốt cho ngành kinh tế tri thức
này của Việt Nam. Nhìn chung, thực tế đến nay, việc triển khai thực hiện các Kế
hoạch, Đề án được phê duyệt còn rất hạn chế.
Dự báo năm 2020, nhu cầu nhân lực CNTT là hơn 1.000.000 người nhưng
khả năng đáp ứng tối đa hiện nay của Việt Nam với 400 trường đại học, cao đẳng
chỉ có thể đào tạo khoảng 600.000 sinh viên. Tuy nhiên, theo thống kê của Viện
Chiến lược Công nghệ thông tin - Bộ Thông tin và Truyền thông chất lượng sinh
viên ngành công nghệ thông tin của Việt nam hiện nay còn thấp, 72% sinh viên
ngành Công nghệ thông tin không có kinh nghiệm thực hành, 42% thiếu kỹ năng
làm việc nhóm, chỉ khoảng 15% sinh viên mới tốt nghiệp đáp ứng được yêu cầu
của doanh nghiệp. Trong khi đó sinh viên CNTT sau khi tốt nghiệp chưa thể gia
nhập ngay thị trường lao động trong môi trường công nghiệp và thị trường quốc
tế. Doanh nghiệp sử dụng lao động thường phải mất thời gian và kinh phí đào tạo
lại bởi một số hạn chế cơ bản của sinh viên sau khi ra trưởng như trình độ ngoại
ngữ còn yếu (cụ thể là tiếng Anh), thiếu khả năng làm việc độc lập và theo
nhóm, kĩ năng giao tiếp, thuyết trình, trình bày ý tưởng, thuyết phục đối tác,
quản lý thời gian và tiến độ... Theo đánh giá của các doanh nghiệp nước ngoài
hoạt động trong lĩnh vực CNTT ở Việt Nam, chỉ khoảng 1/10 ứng viên đáp ứng
được yêu cầu. Đa số các sinh viên muốn được tuyển dụng, làm việc tại các công
12


ty lớn hoặc chuyên về CNTT đều phải học thêm các chứng chỉ quốc tế, chủ yếu
là về lập trình hoặc quản trị mạng.
Sự thiếu hụt các chuyên gia đầu ngành, các giảng viên có trình độ cao, có
đẳng cấp quốc tế về lĩnh vực CNTT đang là một vấn đề nan giải. Hoạt động
nghiên cứu khoa học về CNTT tại các trường đại học còn yếu: rất ít các bài báo
khoa học được công bố trên các tạp chí uy tín của thế giới. Đây cũng là một lý do
làm cho chất lượng đào tạo còn yếu mặc dù nguồn nhân lực CNTT phát triển
mạnh về số lượng. Đặc biệt, rất thiếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo công nghệ thông

tin (CIO), lãnh đạo quản lý CNTT, quản lý các dự án CNTT và các kỹ sư trưởng
về CNTT.
Hệ thống cơ sở đào tạo chứa được đầu tư xứng đángcập nhật về công nghệ
nên được tích hợp vào giáo trình dạy Công Nghệ Thông Tin trên toàn quốc. Giới
công nghệ Việt Nam đang quan tâm khá nhiều đến các khái niệm Dữ Liệu Lớn,
Lập Trình Di Động, Công Nghệ Đột Phá trong khởi nghiệp và Mã Nguồn Mở.
Tất cả các khái niệm này đều đã phổ biến trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, giáo
trình tại các trường dạy Công Nghệ Thông Tin vẫn ít khi đề cập đến.
Loại hình đào tạo ngắn hạn, cơ sở đào tạo và số lượng, chủng loại các
chứng chỉ quốc tế về CNTT hiện nay tại Việt Nam khá phong phú. Tuy nhiên đa
phần các chứng chỉ này đều được cung cấp bởi một số hãng công nghệ và một số
tổ chức lớn về CNTT trên thế giới. Điều này gây ra tình trạng gây ra tình trạng
độc quyền và lệ thuộc vào một số dòng sản phẩm nhất định của các hãng này.
Chương trình đào tạo tin học phổ cập đã được triển khai khá rộng ở mọi
cấp học nhưng nội dung chương trình học vẫn chưa được cập nhật kịp thời so với
sự phát triển nhanh của công nghệ. Cơ sở vật chất còn lạc hậu nên vẫn chủ yếu
nặng về đào tạo lý thuyết. Hệ thống các chương trình đào tạo và cấp chứng chỉ
chưa có sự liên thông nên có sự đào tạo lặp lại, gây lãng phí và khó khăn trong
việc đánh giá, sử dụng nguồn nhân lực và bảo đảm quyền lợi của người học.
Bên cạnh đó mặc dù đã có sự gia tăng về số lượng, nhưng năng suất lao
động của nhân lực CNTT Việt Nam còn khá thấp. Năng suất lao động bình quân
trong mảng gia công xuất khẩu phần mềm mới chỉ đạt bình quân khoảng 13.000
13


USD/người/năm. Tại một số doanh nghiệp phần mềm lớn, có nhiều dự án gia
công cho nước ngoài, năng suất cũng chỉ đạt 17.000-20.000 USD/người/năm. So
sánh với một số nước trong khu vực, mức năng suất bình quân của nhân lực
CNTT Việt Nam chỉ bằng khoảng 45% so với Ấn Độ, và 65% so với Trung
Quốc. Điều đó có thể khiến ngành này đang dần mất đi sức hấp dẫn với người

làm và người học trong giai đoạn tới đây.
GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN Ở NƯỚC TA TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
III.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình quốc tế
hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu sắc, bên cạnh sự hợp
tác là sự cạnh tranh và ngày càng quyết liệt; việc tham gia vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế; chất lượng
nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh và sự thành
công của mỗi quốc gia. Thực tế ở nước ta hiện nay, sự phát triển nguồn nhân lực
CNTT vẫn chưa theo kịp với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, dẫn đến tình
trạng thiếu hụt về cả quy mô và chất lượng. Đòi hỏi phải có những giải pháp
mang tính đồng bộ.
1.
Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp, quy trình đào
tạo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực CNTT.
- Xây dựng và cập nhật thường xuyên chương trình đào tạo CNTT, bảo
đảm sự liên thông của các trình độ đào tạo, tăng tính thiết thực của chương trình
và tăng tỷ lệ thực hành ở các môn học CNTT, loại bỏ các chương trình và môn
học lạc hậu, các môn học không đáp ứng hoặc không phù hợp yêu cầu thực tế.
Thiết lập diễn đàn qua kênh email để tham khảo ý kiến phản hồi từ cựu sinh viên
và các đơn vị sử dụng lao động CNTT về chương trình nội dung đào tạo. Khuyến
khích sinh viên tham gia các khóa đào tạo và thi lấy các chứng chỉ chuyên môn
về CNTT của các tổ chức quốc tế và các tập đoàn đa quốc gia về CNTT và viễn
thông. Các trường đại học, cao đẳng tuyển chọn, tiếp thu có chọn lọc và triển
khai đào tạo theo các chương trình CNTT tiên tiến của thế giới một cách thiết
thực;
14



- Đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo giáo
viên CNTT tại các trường sư phạm; tăng cường giảng dạy về ứng dụng CNTT
trong dạy và học, áp dụng các công nghệ giáo dục tiên tiến;
- Xây dựng chương trình giảng dạy về CNTT theo mô đun kiến thức, cập
nhật theo công nghệ mới và triển khai đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học.
Áp dụng chương trình này cho các cấp học và giáo dục thường xuyên.
2. Mở rộng quy mô, hình thức đào tạo CNTT
- Tạo thuận lợi cho việc thành lập cơ sở đào tạo CNTT phù hợp, nhằm
đáp ứng các nhu cầu đào tạo nhân lực CNTT các trình độ;
- Mở rộng quy mô, loại hình đào tạo về CNTT ở các cơ sở đào tạo CNTT;
- Mở rộng quy mô đào tạo, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo về
CNTT của các cơ sở đào tạo giáo dục thường xuyên. Ban hành cơ chế, chính
sách phù hợp nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo liên thông các trình độ về CNTT;
- Đẩy mạnh đào tạo theo đặt hàng của các doanh nghiệp và theo nhu cầu
của xã hội. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự liên kết đào tạo giữa
các cơ sở sử dụng và các cơ sở đào tạo nhân lực CNTT. Phát triển các mô hình,
hình thức phối hợp, hợp tác và hỗ trợ đào tạo, đáp ứng theo nhu cầu của các
doanh nghiệp, của xã hội;
- Tiếp tục đào tạo văn bằng 2 trình độ đại học về CNTT;
- Tăng cường giảng dạy, nâng cao kỹ năng sử dụng máy tính và ứng dụng
CNTT cho sinh viên ở tất cả các ngành học;
- Đẩy mạnh đào tạo từ xa qua mạng phục vụ cho mọi loại hình đào tạo.
Quy định điều kiện hoạt động đào tạo qua mạng, công nhận giá trị pháp lý của
văn bằng, chứng chỉ trong hoạt động đào tạo trên môi trường mạng và thực hiện
kiểm định chất lượng đào tạo qua mạng đối với các cấp học.
3. Tăng cường xã hội hóa công tác phổ cập tin học cho toàn xã hội.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực CNTT dưới nhiều hình thức. Thu hút và tạo điều kiện
15



thuận lợi để các trường đại học, các nhà khoa học ở nước ngoài hợp tác và tham
gia giảng dạy CNTT tại Việt Nam;
- Các cơ quan, doanh nghiệp có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phổ cập
thường xuyên về kiến thức CNTT cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động; triển khai các chương trình đào tạo về ứng dụng CNTT cho cán bộ quản lý
và lãnh đạo các cơ quan, doanh nghiệp; các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về
xây dựng, triển khai, quản lý và giám sát các dự án ứng dụng CNTT cho cán bộ
chuyên trách về CNTT;
- Xây dựng các giải pháp nhằm thu hút mạnh mẽ mọi nguồn lực xã hội
phục vụ thiết thực cho công tác đào tạo nhân lực CNTT. Phát huy đầy đủ, hiệu
quả vai trò tổ chức thực hiện, động viên, giám sát của các tổ chức chính trị, xã
hội, nghề nghiệp trong mọi hoạt động liên quan đến công tác đào tạo nhân lực
CNTT.
4. Tăng cường đầu tư tài chính cho phát triển nguồn nhân lực CNTT
- Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách cho đào tạo nhân lực CNTT, điện tử
và viễn thông thông qua các chương trình, dự án của Kế hoạch tổng thể này và
thông qua các kế hoạch, đề án đào tạo khác;
- Sử dụng ngân sách nhà nước hàng năm chi thực hiện các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ để triển khai các nghiên cứu và triển khai ứng dụng về CNTT;
- Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước thành lập cơ sở
đào tạo nhân lực CNTT theo quy định của pháp luật, đầu tư vào đào tạo nhân lực
CNTT theo hướng dịch vụ CNTT. Có chính sách cho cơ sở đào tạo được hưởng
ưu đãi trong hoạt động đào tạo CNTT tương đương với các doanh nghiệp sản
xuất phần mềm;
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, chương trình, giáo trình,
tài liệu, học liệu và mạng phục vụ đào tạo CNTT, điện tử, viễn thông và ứng
dụng CNTT ở tất cả các cơ sở giáo dục. Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho một số
cơ sở đào tạo trọng điểm về CNTT, điện tử, viễn thông đạt trình độ tiên tiến

trong khu vực và quốc tế;
16


- Có chính sách đóng góp kinh phí đào tạo hợp lý của người học;
- Ưu tiên đầu tư cho các cơ sở giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và
hải đảo và những vùng đặc biệt khó khăn;
- Khuyến khích các nhà sản xuất phát triển chương trình cung cấp máy
tính và kết nối Internet với giá ưu đãi cho giáo viên, sinh viên và học sinh.
- Sử dụng nguồn vốn ODA đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực CNTT, xây
dựng mạng giáo dục và một số cơ sở đào tạo CNTT chất lượng cao.
5. Tăng cường dạy tiếng Anh và dạy CNTT bằng tiếng Anh và các
ngoại ngữ khác cũng như các kỹ năng mềm cho sinh viên.
- Thông qua triển khai chương trình dạy ngoại ngữ 2009 – 2020 khuyến
khích các trường đại học giảng dạy CNTT, điện tử, viễn thông bằng tiếng Anh;
mời giảng viên người nước ngoài, chuyên gia Việt kiều tham gia giảng dạy bằng
tiếng Anh trực tiếp hoặc qua mạng cho các môn CNTT; tuyển chọn và sử dụng
trực tiếp các tài liệu, giáo trình về CNTT bằng tiếng Anh; có chính sách khuyến
khích và ưu đãi cho sinh viên viết và bảo vệ đồ án, luận văn tốt nghiệp và tiểu
luận bằng tiếng Anh hay các ngoại ngữ khác; sử dụng song ngữ khi biên soạn và
công bố chương trình đào tạo;
- Chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ tiếng Anh cho đội ngũ giảng viên,
giáo viên CNTT, điện tử, viễn thông ở các trường để có thể giảng dạy bằng tiếng
Anh. Nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Anh cho giảng viên, giáo viên dạy
ngoại ngữ ở các cơ sở đào tạo nhân lực CNTT.
- Khuyến khích sử dụng các ngoại ngữ khác trong đào tạo về CNTT.
6. Phát triển mạng giáo dục (EduNet)
- Triển khai kết nối Internet băng thông rộng và kênh thuê riêng qua cáp
quang đến tất cả các đơn vị quản lý giáo dục và cơ sở giáo dục.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về ứng dụng CNTT hằng năm

cho giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, sinh viên, học sinh qua mạng nhằm
tiết kiệm thời gian, kinh phí và đạt hiệu quả giảng dạy cao.
17


7. Đẩy mạnh dạy tin học và ứng dụng CNTT trong trường phổ thông.
- Tiếp tục triển khai giảng dạy môn tin học, nâng cao kỹ năng sử dụng
CNTT cho học sinh phổ thông các cấp học;
- Cập nhật chương trình, nội dung giảng dạy theo hướng mô đun kiến
thức hiện đại, thiết thực, thay vì dùng một bộ chương trình và sách tin học cứng;
- Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông nhằm đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng giáo viên tự tích hợp CNTT vào từng môn
học thay vì học trong môn tin học. Giáo viên các bộ môn chủ động tự soạn và tự
chọn tài liệu và phần mềm (mã nguồn mở) để giảng dạy ứng dụng CNTT;
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên dạy
tin học đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và ứng dụng CNTT trong giảng dạy,
trước hết ở cấp trung học phổ thông;
- Xây dựng và ban hành chuẩn về kiến thức và kỹ năng ứng dụng CNTT
đối với giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục.
8. Các giải pháp khác
- Xây dựng cơ sở dữ liệu cán bộ khoa học công nghệ ở trong nước và
chuyên gia Việt kiều ở nước ngoài về CNTT, nhằm phục vụ chính sách thu hút
các nhà khoa học có trình độ cao về CNTT ở trong nước và ngoài nước tham gia
công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về CNTT tại các cơ sở đào tạo đại học
Việt Nam;
- Tổ chức các diễn đàn trao đổi về đào tạo nhân lực CNTT, điện tử, viễn
thông nhằm đáp ứng nhu cầu giới thiệu, góp ý, giao dịch và liên kết giữa các
trường đại học và các doanh nghiệp CNTT, điện tử, viễn thông và các tổ chức
kinh tế khác;


18


KẾT LUẬN

Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và
đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại mà ở đó, CNTT là phương
tiện không thể thiếu giúp rút ngắn mọi khoảng cách địa lý và thu hẹp mọi giới
hạn giữa các quốc gia. Trước thềm hội nhập, bài toán đào tạo nhân lực ngành
CNTT trở thành thách thức lớn đối với các cá nhân và đơn vị đào tạo CNTT
trong nước. Điều này càng đặc biệt cấp thiết khi Việt Nam tham gia vào các Hiệp
định Thương mại Tự do. Vì vậy cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đào tạo
nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin trong bối cảnh toàn cầu hóa để có thể
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hệ thống đào tạo nhân lực công
nghệ thông tin, nâng trình độ đào tạo nhân lực công nghệ thông tin của nước ta
tiếp cận trình độ quốc tế và tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế. Từng
bước trở thành một trong những nước cung cấp nhân lực ngành công nghệ thông
tin trong khu vực và toàn cầu.

19



×