Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Đề tài NCKH ĐƯỜNG lối CÔNG NGHIỆP hóa của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM và sự NGHIỆP THỰC HIỆN ĐƯỜNG lối CNH hđh của SINH VIÊN đại học BÁCH KHOA hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.84 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC:
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VÀ SỰ NGHIỆP THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI CNH-HĐH CỦA
SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
GV HƯỚNG DẪN: TH.S NGUYỄN THỊ HUYỀN
SINH VIÊN THỰC

MSSV

HIỆN
NGUYỄN KHẮC QUÝ
HÀ XUÂN THUYÊN
NGUYỄN CHÍ CƯỜNG

201112020
201112302
20111222

LỚP
CNTT-TT 2.4- K46
CNTT-TT 2.2- K56
ĐT-VT 09- K56

Hà Nội, tháng 4 năm 2013

MỤC LỤC



Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đất nước ta đang trên đà công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, với
tiến trình mục tiêu thoát ra khỏi trong những nước kém phát triển, trở
thành một nước công nghiệp hiện đại trước năm 2020. Do đó việc xác
định đường lối tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Đảng là việc
hết sức quan trọng, bởi đó là động lực phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều
kiện tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng và là tiền đề cho việc xây
dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu
quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Trước đây, nước Anh thực hiện
CNH (công nghiệp hóa) đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau, chỉ
mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các nước công
nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực quá trình này
trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri
thức, với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ
gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới… đúng như tiên đoán của


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng


C. Mác và Ph. Ăng - ghen từ giữa thế kỷ XIX: “Tri thức sẽ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp’’. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời
đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi
kịp các nước đi trước. Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát
triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn. Ở đại
hội X của Đảng đã chỉ rõ: “chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hôi chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Quan niệm chủ trương đẩy mạnh CNH-HĐH (công nghiệp hóa- hiện đại
hóa) gắn với phát triển kinh tế tri thức là bước phát triển mới trong nhận
thức hết sức đúng đắn của Đảng ta, hiểu rõ và nhận thức được tầm quan
trọng của việc này, cũng vừa là tầng lớp sinh viên trí thức – nguồn nhân lực
chính định đoạt tương lai, vận mệnh của đất nước sau này, để hiểu rõ hơn
đường lối công nghiệp của Đảng cũng như chia sẻ với toàn bộ thanh niênsinh viên về nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của mình trong tiến trình phát
triển đất nước,

nhóm sinh viên chúng em đã quyết định chọn đề tài:

“Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam và việc
nghiên cứu, học tập đường lối công nghiệp hóa của sinh viên Đại học
Bách khoa Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của nhóm mình. Để có cơ hội
này, chúng em xin được cảm ơn giảng viên, Ths. Nguyễn Thị Huyền đã tạo
điều kiện, hướng dẫn và cho phép chúng em cơ hội tìm hiểu và thực hiện đề
tài. Cuối cùng, mặc dù đề tài đã được chúng em chuẩn bị sử dụng hết khả
năng của mình để tìm hiểu, nghiên cứu, thực hiện song chúng em biết đề tài
của mình không tránh khỏi có điểm thiếu xót nên rất mong bên phía các quý



Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

thầy, cô giáo cũng như bạn đọc xem xét và góp ý kiến để chúng em có thể
rút kinh nghiệm, hoàn chỉnh đề tài hơn nữa. Chúng em xin chân thành cám
ơn!
2. Tình hình nghiên cứu
Việt Nam tiến hành đường lối công nghiệp hóa bắt đầu từ đại hội III năm
1960 từ đó đến nay công nghiệp hóa là một đề tài được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu tiêu biểu như:
1. Đặng Phong (2009), Tư duy kinh tế Việt Nam (1975 -1989), Nhà xuất

bản Tri thức, Hà Nội.
2. Nguyễn Xuyến (2007), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quy Nhơn.
3. Trần Thị Chúc (2010), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: thực trạng và
giải pháp, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Các đề tài trên đã đề cập đến nhiều nội dung như, trong đó vấn đề luôn được
nêu ra là vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa? Vậy công nghiệp hóa- hiện
đại hóa là gì? Tính tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam. Thực trạng quá trình công nghiệp hóa những năm trước đổi
mới…
Tuy vấn đề CNH-HĐH đã được nghiên cứu và công bố rộng rãi, đã và đang
thực hiện nhiều năm nay song vấn đề:“Đường lối công nghiệp hóa của Đảng
cộng sản Việt Nam và việc nghiên cứu học tập đường lối công nghiệp hóa
của sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội” vẫn là một đề tài hết sức cần thiết
giúp cho chúng em có thể vận dụng những kiến thức của môn học vào công
việc và cuộc sống sau này. Chính vì lý do đó mà nhóm chúng em vẫn quyết
định chọn đề tài này để làm đề tài NCKH của mình.



Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

3. Mục đích nghiên cứu
Khái quát hóa đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể giúp cho sinh viện Đại học Bách khoa
Hà Nội có phương pháp học tập hiệu quả nội dung này.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI
năm 1986 đến nay.
5. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, logic,
lịch sử và các phương pháp chung của khoa học xã hội.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài giúp sinh có cái nhìn tổng quát và logic về vấn đề công nghiệp
hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên về vẫn đề công
nghiệp hóa.
7. Kết cấu của đề tài :
Đề tài gồm 2 chương và 7 mục.

CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

1.1. Khái niệm về công nghiệp hóa - hiện đại hóa

Vào thế kỷ XVII, XVIII, khi cuộc cách mạng công nghiệp được tiến
hành ở Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ
công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng theo dòng thời gian, khái
niệm công nghiệp hóa luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội, của khoa học công nghệ, điều đó chứng tỏ rằng: khái niệm công
nghiệp hóa mang tính lịch sử trải qua một thời gian dài. Dựa trên việc kế
thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại và rút kinh nghiệm
trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ bẩy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII(tháng 11994) Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: “Công nghiệp hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các nền hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. “
Như vậy, công nghiệp hóa theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong
phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để
chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như trước đây mà bao hàm
cả về các hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về ngành dịch vụ và quản lí
kinh tế- xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên
tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Bên cạnh đó, quá trình
công nghiệp hóa còn cần phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức và vận hành xã hội,
nâng cao chất lượng sống của người dân trong cả nước, tích cực xoá đói
giảm nghèo, phấn đấu tăng mức thu nhập bình quân đầu người cả nước.
1.2. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

Đại hội lần V(T3-1982) của Đảng xác định trong chặng đường đầu

tiên của thời kỳ quá độ là lấy nông nghiệp làm đầu, ra sức phát triển công
nghệ sản xuất hàng tiêu dung; xây dựng và phát triển công nghiệp nặng
trong giai đoạn này có mức độ, vừa sức thiết thực, có hiệu quả trong nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công
nghiệp hóa trước mắt. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn đến mục tiêu và bước
đi của CNH. Tiếc rằng, việc làm của chúng ta đã không đúng với thực tế gây
kết quả nghiêm trọng.
Kế thừa tinh thần Ðại hội V, nêu cao ý thức nhìn thẳng vào sự thật,
nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Ðại hội VI của Ðảng (12-1986) đề ra
đường lối đổi mới toàn diện, theo đó trên lĩnh vực kinh tế đã nhấn mạnh tập
trung vào ba chương trình: sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng
tiêu dùng; sản xuất hàng xuất khẩu, coi đó là nội dung chính của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên, là những tiền đề
cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo. Từ đó kéo dài khoảng 10 năm, chúng ta ít nói tới công
nghiệp hóa, trên thực tế sự lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý, điều hành của
Nhà nước đã tập trung vào ba chương trình kinh tế đó, nhằm đưa đất nước
thoát khỏi khó khăn.
Bắt đầu từ Ðại hội VIII chúng ta nói công nghiệp hóa gắn với hiện đại
hóa cho phù hợp với thời đại cách mạng khoa học và công nghệ đang tiến
như vũ bão. Và trong điều kiện mới, khi khoa học và công nghệ có những
thay đổi phi thường hàng ngày hàng giờ, khi phát sinh xu hướng toàn cầu
hóa kinh tế, khi hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan thì chúng ta
có những cơ hội mới xen lẫn với cả những thách thức mới, đều to lớn chưa
từng thấy. Trong bối cảnh ấy, tận dụng lợi thế của nước đi sau, chúng ta có
thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn thời gian hơn so với


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng


những nước đi trước khác, nhờ tranh thủ những kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến, hiện đại nhất; đó là lợi thế ta tận dụng nhưng đồng thời ta cũng phải
luôn luôn tự cảnh báo về khả năng biến thành bãi thải công nghiệp và lệ
thuộc vào nước ngoài. Ở đây, lãnh đạo và tổ chức thực hiện quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có một trình độ kinh tế chính trị sâu
sắc, bảo đảm kinh tế bao giờ cũng là cơ sở của chính trị, chính trị là thượng
tầng kiến trúc vừa phản ánh kinh tế lại vừa chi phối, hướng dẫn kinh tế, để
cuối cùng mục tiêu chung vẫn là công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiệu quả nhất.
Trong các Báo cáo chính trị, các chiến lược và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm cũng như 5 năm, thì các Ðại hội IX, Ðại hội X của
Ðảng đã quan tâm đến xây dựng và phát triển công nghiệp công nghệ cao,
công nghiệp phần mềm, nhìn nhận kinh tế tri thức là xu thế mới của đời sống
kinh tế thế giới. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức để đưa nước ta ra khỏi
các nước kém phát triển; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Báo cáo Chính trị tại Ðại
hội IX đã đề cập đến một vấn đề cốt lõi của công nghiệp hóa, đó là “Xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu
sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng”. Báo cáo
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 tại
Ðại hội X thì ghi: “Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng,
công nghiệp quốc phòng, góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công
nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện
tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.”



Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

Ðó đều là những phương hướng tốt, tuy nhiên thực tiễn đang đặt ra
rằng cần phải nhận thức tốt hơn nữa, điều hành tốt hơn nữa để thể hiện vai
trò quyết định của sản xuất tư liệu sản xuất, trước hết là phải quan tâm xây
dựng và phát triển ngành cơ khí (cơ khí nặng, cơ khí chính xác, cơ điện tử,
ngành luyện kim, hóa chất… ), đồng thời quan tâm đến phát triển công nghệ
thông tin (công nghệ phần mềm…), kỹ thuật số, kỹ thuật mạng… trang bị
cho cả nền kinh tế quốc dân và quốc phòng.
Không thể phủ nhận một thành tựu hiển nhiên của 20 năm đổi mới là
công nghiệp nước nhà có bước phát triển mạnh mẽ, chiếm hơn 40% GDP,
nông nghiệp chỉ còn chiếm 20% GDP, lao động trong nông nghiệp chỉ còn
khoảng 60% tổng lao động xã hội. Tuy nhiên, cần nghiêm khắc nhận ra rằng
tỷ trọng công nghiệp gia công còn lớn, phần lớn thiết bị, máy móc, nguyên
liệu phải nhập từ bên ngoài, công nghiệp phụ trợ lại yếu kém nên giá trị gia
tăng trong công nghiệp còn thấp và thiếu bền vững. Ðiện lực tăng lên, nhưng
sản xuất thép thì quá nhỏ bé so với nhu cầu, những hóa chất cơ bản thì cơ
bản là nhập khẩu, ngành cơ khí sa sút nghiêm trọng.
Hàng tiêu dùng nước ta hiện nay rất phong phú, nhưng yếu tố nước
ngoài chiếm phần chủ yếu. Việc thực thi lao động ở nước ta còn vất vả, nặng
nhọc, gần như cơ bản vẫn dẫm chân tại chỗ ở trình độ thủ công.Chúng ta
cũng có những lo lắng chính đáng về công nghiệp quốc phòng, làm sao cho
luôn luôn tương xứng với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều
kiện mới.Cần suy ngẫm, nâng tầm tư duy về đường lối, quan điểm trong
phát triển công nghiệp, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Tình hình hiện nay: máy cho sản xuất, máy cho tiêu dùng, máy lớn,
máy nhỏ đều phụ thuộc vào nước ngoài, hằng năm phải nhập hàng tỷ đô-la,
đây là cái yếu cơ bản của nền kinh tế ở nước ta. Cho nên, sắp tới phải tập
trung sức khắc phục yếu kém đó và đấy cũng là thực hiện tốt tư tưởng Hồ



Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

Chí Minh: “Một nước độc lập, ắt phải có công nghiệp nặng” (Hồ Chí Minh
toàn tập, quyển 7, trang 208). Làm được như vậy là chúng ta vừa bảo đảm
phát triển nền kinh tế quốc dân, vừa bảo đảm độc lập tự chủ vừa có cơ sở
nâng cao căn bản và vững chắc đời sống nhân dân.
Xét theo góc độ lợi ích của xã hội thì con đường phát triển công
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta, về thực chất là đụng chạm
tới quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu chỉ nhằm lợi ích trước mắt, tiêu
dùng quá mức nền kinh tế cho phép, thậm chí biến thành một “xã hội tiêu
dùng”, thì đó là một xã hội không còn triển vọng tương lai, mất cả kinh tế
mất cả văn hóa, sớm muộn cũng mất độc lập tự chủ, tự đánh mất mình. Còn
lãng phí, thì phải lên án đó là tội ác (lãng phí tài nguyên, lãng phí thời gian,
lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng…), vì nó tốn tiền của một cách vô ích,
chẳng nhằm vào tiêu dùng cá nhân và cũng chẳng nhằm vào tiêu dùng sản
xuất.
Ngược lại, nếu chỉ nhằm lợi ích lâu dài, tích lũy quá cao, không chú ý
tới đời sống trước mắt của nhân dân, thì sẽ mất động lực phát triển kinh tế,
thậm chí mất cả nguồn để tích lũy. Còn tham nhũng, bòn rút ngân sách Nhà
nước, là chống lại cả tích lũy và tiêu dùng của nhân dân, rút cuộc chống lại
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Tóm lại, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tích lũy và tiêu dùng, đấu tranh có hiệu quả với các lực cản của cả tích
lũy và tiêu dùng, là một cơ sở quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa.
Nông nghiệp tuy có vai trò to lớn, đặc biệt tạo ra đủ lương thực là một
tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, nhưng vẫn không thể là
nguồn tích lũy chủ yếu. Kinh nghiệm thế giới cho thấy một khi đã có công

nghiệp nặng thì nguồn tích lũy chủ yếu cho công nghiệp hóa chính là bản
thân công nghiệp, mà trước hết và to lớn hơn hết lại là từ công nghiệp nặng.


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

Chính công nghiệp nặng cung cấp các thiết bị, công cụ, tạo điều kiện cho lao
động và nâng cao năng suất lao động khắp các ngành kinh tế quốc dân, từ
sản xuất đến dịch vụ, từ đó tạo nên lợi nhuận – nguồn của mọi tích lũy.
Trong điều kiện ngày nay, khi “công nghiệp phần mềm”, “kỹ thuật số”, “kỹ
thuật mạng”… đóng vai trò quan trọng, kể cả trong đời sống hằng ngày và
tích lũy cho phát triển tương lai thì công nghiệp nặng cũng tạo ra “phần
cứng” để chuyển tải “phần mềm” và “số hóa” đó. Nói cách khách, chính
công nghiệp nặng là nguồn sâu xa tạo ra tích lũy của toàn xã hội, cái lãi của
công nghiệp nặng phải được tính theo hiệu quả kinh tế toàn xã hội. Ngoài ra,
bản thân công nghiệp nặng cũng trực tiếp tạo ra tích lũy.
Ở nước ta, từ hàng chục năm nay, nhất là trong vài năm gần đây cũng
cho thấy một số các ngành như dầu khí, luyện kim… không những là nguồn
thu lớn cho ngân sách Nhà nước, mà theo đó còn là những nguồn tích lũy
quan trọng nhất để công nghiệp hóa nước nhà. Dĩ nhiên, không thể xem nhẹ
vai trò của những ngành công nghiệp nhẹ hay nông, lâm ngư nghiệp và dịch
vụ trong vấn đề này. Những mặt hàng được phát triển đúng tiềm năng và lợi
thế cũng có thể đóng góp to lớn cho nguồn tích lũy, chẳng hạn trong mấy
năm nay các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày, giấy, chế biến
nông lâm thủy sản, dịch vụ, du lịch… vẫn luôn có những đóng góp đáng kể
cho ngân sách nhà nước và theo đó cho tích lũy quốc gia, song tác dụng
quan trọng nhất của nó phải kể đến tạo được nhiều việc làm cho người lao
động.
Nhà nước đóng vai trò quyết định tổ chức tích lũy và định hướng sử

dụng tích lũy cho đầu tư phát triển có hiệu quả nhất. Một mặt, Nhà nước
phải thực hiện cả việc thu ngân sách và phân phối chi ngân sách thật tốt.
Nguồn thu ngân sách phát triển bao giờ cũng là cơ sở để phát triển chi ngân
sách, tăng khả năng tích lũy của Nhà nước dành cho đầu tư phát triển. Chi


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

ngân sách tốt là phải quán triệt đường lối chính trị và kinh tế của Ðảng và
Nhà nước, góp phần tích cực phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân.
Mặt khác, Nhà nước giữa vai trò quyết định trong khuyến khích, định
hướng cho các doanh nghiệp và dân cư trong việc phân phối tổng sản phẩm
làm ra, cân bằng quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, chú ý tiết kiệm tiêu
dùng để đầu tư cho phát triển. Trải qua 20 năm đổi mới, xuất phát từ chỗ
chưa có tích lũy, ngày nay chúng ta đã nâng mức tích lũy cho đầu từ phát
triển của toàn xã hội lên 31% GDP.Ðây chính là một nguồn lực chủ yếu và
quan trọng nhất để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Tiết kiệm vốn là một quy luật kinh tế - quy luật số 1 của sản xuất xã
hội như Mác nói. Ðối với nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa thì tiết
kiệm càng là quy luật thép.Tiết kiệm phải là một quốc sách hàng đầu để đầu
tư cho phát triển kinh tế. Phải tiết kiệm trong sản xuất và tiết kiệm trong tiêu
dùng, tiết kiệm sức người, sức của, đặc biệt sử dụng đất đai tài nguyên (một
loại tư liệu sản xuất quý giá nhất nhưng lại không thể sinh sôi, nảy nở), một
cách tiết kiệm và hiệu quả nhất như ông cha ta vẫn thường nói “tấc đất tấc
vàng”. Người người tiết kiệm, nhà nhà tiết kiệm, cả nước tiết kiệm, vì hôm
nay và một tương lai bền vững.
Phải tính toán kỹ, thực hành tiết kiệm trong từng chuyến thăm nước
ngoài, trong từng dự án, từng công trình, tránh những công trình có tính hình

thức, kém hiệu quả thiết thực. Phải tránh tệ những điều như: phô trương hình
thức, tốn kém nhiều tiền của mà hiệu quả thấp trong nhiều những hội nghị,
nhiều kỳ họp, nhiều lễ hội… Cần phát động một phong trào thi đua yêu nước
rộng lớn: cần kiệm để công nghiệp hóa, xây dựng nước nhà, mưu cầu hạnh
phúc cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dạy, làm cho công nghiệp hóa là một sự nghiệp cách mạng.


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.Nó đòi hỏi đường lối quan
điểm và cả bước đi, cách làm đúng đắn.Thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa sẽ quyết định thắng lợi của thời kỳ quá độ.Công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa vừa mang tính nhân dân vừa mang tính Ðảng sâu sắc, là một sự
nghiệp cách mạng rất vẻ vang của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Trước đó, từ đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: Nước ta cần đẩy mạnh
công nghiệp hóa. Và Công Nghiệp hóa gắn với Hiện Đại hóa. Nhưng trong
thời đại ngày nay, khi mà mức sống vật chất và tinh thần cao.Thì việc hiện
đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức sẽ sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Những quan điểm này được hội nghị lần thứ bảy, Ban
chấp hành Trung Ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các
đại hội VIII, IX, X của Đảng.
Dưới đây là khái quát những quan điểm cơ bản về đường lối công nghiệp
hóa hiện đại hóa của Đảng ta hiện nay:
Một là, CNH gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chúng ta có lợi thế của các nước đi sau
không cần phải trải qua tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên công nghiệp rồi
mới sang kinh tế tri thức.

Khi đó công nghiệp hóa được biểu hiện là quá trình thay thế lao động
thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, thay thế bởi công nghệ vận hành.
Bên cạnh đó xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra
nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại đã tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Vì vây, để hiện đại hoá, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp
hóa từ lâu.Đại hội X của Đảng xác định rất rõ mục tiêu công nghiệp hoá,


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

phát triển bền vững lực lượng sản xuất, lực lượng quốc phòng-an ninh. Ở đại
hội Đảng X đã nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt.
Quan điểm công nghiệp hoá-hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức.”
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác
động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội
nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như
thách thức đối với đất nước ta. Trong bối cảnh đó, đất nước ta có thể rút
ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp CNH với
HĐH và sử dụng ưu thế của một nước đến sau được sử dụng thành tựu của
kinh tế tri thức của các nước khác trên thế giới.
Hai là, CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. CNH nâng cao chất lượng cuộc sống,
quy mô thế nào, công nghiệp hóa, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là
những ngành dựa vào tri thức. Hạn chế đầu tư tràn lan, nhiều thành phần,

trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Do đó,ở đâu công
nghiệp hoá, hiện đại hóa được tiền hành trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa,sai mục đích. HĐH đất nước, kém hiệu quả và lãng
phí thất thoát còn ở thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị
trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thu hút
công nghệ hiện đại. Bởi vì khi đầu tư vào lĩnh vực nào.HĐH nền kinh tế
nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Ví dụ như:
công nghệ thông tin,công nghệ sản xuất, khai thác theo thị trường kinh tế tri
thức. Hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

và hội nhập quốc tế. Ở thời kỳ trước đổi mới phương thức phân bổ nguồn
lực để CNH được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung.Phổ cập và
sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
công nghiệp, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán cân nhắc kỹ càng,
HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu
quả mọi nguồn lực của nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để
đẩy nhanh quá trình CNH, của mọi thành phần kinh tế, học hỏi kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, công nghệ sinh học, dịch vụ được ứng dụng khoa học công
nghệ cao, công nghiệp hóa – hiện đại hóa không phải chỉ là công việc của
nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân
Ba là: người lao động là yếu tố quan trọng nhất, hiện đại hoá, chịu sự
cải tạo, bền vững.
Thời kỳ đổi mới, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo
thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, các
nguồn lực khác là những khách thể, lấy phát huy nguồn lực con người làm

yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó
có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn
đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội. Tính vô tận,
nếu biết chăm lo gìn giữ phát triển tài nguyên thiên nhiên cũng có hạn nên
phải thực sự cân nhắc, suy xét khi sử dụng. Trong khi đó nguồn lực con
người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận, Trí tuệ con người có sức
mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá. Đó là cơ sở làm cho năng
lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá
trình vô tận, có thể bị cạn kiệt khi khai thác, bởi lẽ con người là nguồn lực
duy nhất biết tư duy. Để thực hiện được phụ thuộc vào chất lượng của nguồn
nhân lực. Trước hết các nguồn lực khác như vốn, khai thác của con người và
nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, ứng dụng khoa học công nghệ, có


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, giới để
tiêu thụ các sản phẩm của nước ta… Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng khó
phát triển. Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, bồi dưỡng và khai thác
hợp lý, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối,
chúng chỉ có tác dụng khi có sự tác động của các yếu tố con người, vị trí địa
lý… còn tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng.
Xây dựng CNXH ở Việt Nam thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, hiện đại hoá kết hợp và phát triển công nghệ nội sinh
nhất là công nghệ thông tin, nâng cao đời sống vật chất cũng như y tế, năng
cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, con người là
một trong hai yếu tố cần thiết của quá trình CNH.
Bốn là: khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công
nghiệp hoá. Khi định hướng phát triển HĐH gắn với phát triển kinh tế tri

thức thì phát triển khoa học công nghệ là tất yếu và bức xúc phải đẩy mạnh
việc chọn lọc nhập công nghệ. Do đó việc phát triển giáo dục, bồi dưỡng
tinh thần của nhân dân phải được đề cao thì thực hiện CNH-HĐH mới hiệu
quả và bền vững.
KHCN vai trò quyết định tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và phát triển kinh tế nói chung. Nước ta
tiến lên CNXH từ nền kinh tế kém phát triển, áp dụng KHCN còn kém so
với các nước trên thế giới, lại phát triển định hướng theo nền KTTT thì phát
triển KHCN là tất yếu và bức xúc.
Năm là: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo
tồn đa dạng sinh học. Tiếp tục cơ cấu phân bố kinh tế thi hành chiến lược


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

xóa đói- giảm nghèo với các khu vực khó khăn. Đẩy mạnh và lan rộng
CNH-HĐH ở những khu vực trọng điểm và lân cận nó.
Mục đích của quá trình CNH là nâng cao năng suất lao động, Vì thế
trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất,công nghệ sinh học và công
nghệ vật liệu mới, phải cải thiên lực lượng lao động rút ngắn khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng… Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững lao
động song phải có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường tự nhiên và
bảo tồn đa dạng sinh học: giảm chi phí sản xuất và không hại đến môi
trường. Thì việc đẩy nhanh CNH mới thực sự bền vững. Nếu không có con
người thì quá trình CNH không diễn ra, nếu không có bảo vệ môi trường tự
nhiên, phát triển văn hóa thì CNH sẽ không vững bền. Nước ta tiến lên chủ
nghĩa từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học,việcbảo tồn đa
dạng sinh học, công nghệ còn ở trình độ thấp, sự tăng trưởng kinh tế nước ta

đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
1.3. Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với nền kinh tế tri thức
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế(OECD) và tổ chức APEC vào
năm 2000 đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh ra phải phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.”
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có sự tác động to lớn
đên sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành
tựu mới của khoa học và công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên
công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những
ngành kinh tế truyền thống như: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được
ứng dụng khoa học công nghệ cao. Dù còn có những định nghĩa khác nhau,
song khi nói tới nền kinh tế tri thức có thể nhận diện thông qua những đặc


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

trưng chủ yếu sau:Khác với nền kinh tế nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào
tự nhiên, chủ thể chính là nông dân với phẩm chất cần cù, chịu khó trong
việc sử dụng các công cụ thủ công “cày chìa vôi” để sản xuất; nền kinh tế
công nghiệp, chủ thể là công nhân thành thạo trong thao tác các công cụ cơ
khí, thì nền kinh tế tri thức với chủ thể là công nhân trí thức với phẩm chất
sáng tạo trong sử dụng có hiệu quả tri thức và công nghệ cho phát triển kinh
tế, quản lý xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.Họat động chủ yếu nhất
trong nền kinh tế tri thức là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri
thức, biến tri thức thành giá trị. Tri thức đã trở thành nguồn lực hàng đầu,
mà giá trị của nó chiếm tỷ trọng cao, nhiều khi chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong
sản phẩm.Với nền kinh tế tri thức, nhân tài trí thức được coi trọng, quyền sở
hữu trí tuệ trở thành yếu tố quan trọng. Tri thức trở thành hình thức cơ bản

nhất của vốn, quan trọng hơn cả tài nguyên, sức lao động. Lực lượng sản
xuất từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên chuyển dần sang dựa chủ yếu vào
năng lực trí tuệ của con người.Nền kinh tế tri thức phát huy tối đa năng lực
sáng tạo của con người trong vận dụng tri thức và sáng tạo ra trí thức mới,
biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người
và phát triển xã hội một cách nhanh chóng. Bởi vậy, vòng đời của một sản
phẩm, một công nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong
ngày càng rút ngắn; trước đây vòng đời công nghệ tính bằng nhiều thập kỷ,
ngày nay tính bằng năm, thậm chí tính bằng tháng. Tốc độ đổi mới công
nghệ rất nhanh chóng.
Vai trò của nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát
triển của nhân loại, đóng vai trò mang ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển
xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách
lạc hậu. Từ tri thức cho chúng ta những công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa. Quá trình đó sẽ
giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên
liệu mới, năng lượng mới v..v.manglạitạo ra nhiều giá trị sử dụng mới hơn,
đáp ứng tốt hơnnhu cầu ngày càng cao của xã hội, giảm bớt việc khai thác
các nguồn tài nguyên hiện hữu, mà trước đó ta đã quá lạm dụng và lệ thuộc.
KTTT (kinh tế tri thức) là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. KTTT được hình thành, phát triển trên cơ sở
các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao.Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến
quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế.Nó thúc đẩy công nghiệp phát

triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh
học.
KTTT thúc đẩy công nghiệp cần phát triển không ngừng,từ việc gia
tăng hàm lượng sản phẩm khoa học – kỹ thuật, nâng cao giá trị sử dụng, giá
trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp là lợi thế phát triền kinh tế thông tin
hướng đến một nền văn minh cao hơn. KTTT thúc đẩy trí nghiệp ở các
ngành dịch vụ. Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động
kỹ thuật cao là thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất. Trong nền
KTTT việc làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các
ngành đó mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế,
giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống, tiền tệ với nhiều hình
thức phong phú, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều.Cơ
cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc.Nó thúc đẩy việc nâng cao đời
sống xã hội. Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Đặc trưng của nền kinh
tế tri thức đó chính là hàm lượng tri thức.
Trong nền KTTT: thì qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn
được thay đổi. Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

xuất của xã hội, cần ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên, làm thay đổi cơ cấu
giá trị sản phẩm. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, làm cho
năng suất lao động ngày càng tăng. Theo hướng tri thức hóa, tài nguyên và
vốn tiền tệ thương mại như trước đây. Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu
thường xuyên đối với mọi người, lao động chất xám, các sản phẩm trí tuệ
dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức, lao động trí óc tăng lên. Những trung
tâm công nghệ cao được hình thành nhiều chủng loại sản phẩm tung ra ngày
càng đa dạng hơn, chất lượng sản phẩm cũng cao hơn sử dụng công nghê

nhiều hơn… điều này tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã
hội. cường độ lao động chân tay ngày cảng giảm đi còn lượng tri thức công
nghệ sử dụng ngày càng tăng. Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đất nước từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi
đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến hơn, chúng ta
nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất với năng suất lao động xã hội
ngày càng cao hơn. Không có lực lượng sản xuất với năng suất lao động xã
hội cao thì không thể nói đến Chủ nghĩa xã hội. Mà muốn có lực lượng sản
xuất, năng suất lao động cao thì không thể chỉ dựa vào nông nghiệp sử dụng
lao động thủ công, mà cần phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi
mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh,
hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác
chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Đảng ta xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ‘’Quyết tâm thực
hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá
trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

rộng’’. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố
và mở rộng.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải
trải qua CNH. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển
lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất
lao động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng

cường vai trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị
trường. Đồng thời, CNH-HĐH là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều
kiện tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng và là tiền đề cho việc xây
dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả
vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi
sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước
và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này.Ở Đại hội lần thứ IX,
lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về phát triển
KTTT gắn liền với định hướng CNH-HĐH đất nước ta: “Đi nhanh vào công
nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về
công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và
dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong
suốt các giai đoạn phát triển.Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố
phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta’’. Tới Đại
hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu
thành đường lối CNH-HĐH đất nước: ‘’Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi
KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát triển mạnh


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị nâng cao dựa nhiều vào tri thức; kết
hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất
của nhân loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều
rộng, sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng

cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “phát
triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh,
bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn
cầu hóa, chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế
nông-công nghiệp lên KTTT. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá
trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình
này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát
triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-HĐH với phát triển KTTT.
Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công
cụ cơ khí, cho năng suất lao động không cao; thì nền KTTT, chủ thể là công
nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri
thức đã mang tới kết quả cao hơn nhiều. Phát triển KTTT nước ta là thực thi
chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng
nhanh giá trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài nguyên và lao động. Nước ta
xác định, KTTT là công cụ hàng đầu để rút ngắn thời gian thực hiện quá
trình CNH-HĐH.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển
KTTT là lựa chọn để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

thẳng vào công nghệ cao, công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm
lượng tri thức, giá trị gia tăng cao. Trong ‘’Chiến lược phát triển kinh tế xã

hội 2011-2020, ngoài một số mục tiêu khối lượng như: tăng trưởng GDP
bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng
3.000 USD… còn có một số chỉ tiêu về chất lượng, như là những nấc thang
trên lộ trình CNH-HĐH, phát triển KTTT. Cụ thể là: tỷ trọng các ngành
công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; giá trị sản phẩm công
nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng
đạt 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm; giảm tỷ lệ
lao động nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Để đạt những chỉ tiêu trên điều tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất
công nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá
trị nội địa trong sản phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ
thông tin, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản, năng
lượng… và đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn bằng cách đổi
mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức
khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng công nghệ sinh học
làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông - lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để
tăng nhanh hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm. Chúng ta cần
phải đẩy mạnh việc sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng nhiều
hình thức khác nhau, như nhập khẩu trực tiếp công nghệ; nhập khẩu công
nghệ gián tiếp qua thu hút đầu tư; mua bằng tăng chế hay mời chuyên gia
nước ngoài vào làm việc. Nhưng điều quan trọng hơn, ngoài phần nhập khẩu
công nghệ cứng như nói ở trên, cần chủ động học hỏi và nhập khẩu những


Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa
của Đảng

công nghệ mềm như công nghệ quản lý, kinh nghiệm sử dụng nhân tài, đổi

mới thể chế kinh tế… và đổi cách cải tiến để thích nghi với điểu kiện nước
ta. Công nghệ và tri thức của nhân loại sau một thời gian luôn bị thay thế bởi
công nghệ và tri thức mới, do đó việc tiếp cận với chúng là liên tục và không
có điểm dừng.Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình CNH-HĐH
gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
Nội hàm phát triển bền vững nền kinh tế ở nước ta, Ðại hội XI xác
định: Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên
hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Có
sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải
luôn coi trọng việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống. Xuất phát điểm là
một nước nông nghiệp đi lên xây dựng CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hoá,
để phát triển nền kinh tế tri thức cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai
quá trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và chuyển
từ kinh tế nông – công nghiệp lên kinh tế tri thức trong điều kiện chuyển đổi
cơ chế từ kế hoạch hoá, tập trung quan điểm hướng sang cơ chế thị trường
định hướng XHCN.
Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ
công nghệ trung gian để đi ngay vào công nghệ tiên tiến, công nghệ
cao.Song, điều đó không có nghĩa cho phép chúng ta có thể chủ quan, nóng
vội, đốt cháy giai đoạn mà bỏ qua những mục tiêu của phát triển bền
vững. Quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri
thức và phát triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi
chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:


×