Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỀ TÁC ĐỘNG CỦA AMIANG TRẮNG ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƯỜI BIỆN PHÁP QUẢN LÍ PHÙ HỢP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.54 MB, 135 trang )



CHƯƠNG TRÌNH HỘI NGHỊ

04 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

05 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


THAM LUẬN

NHỮNG QUAN NIỆM SAI VÀ
SỬ DỤNG SAI CỦA CƠ QUAN
QUỐC TẾ NGHIÊN CỨU
UNG THƯ VỚI CỤM TỪ
“PHÂN LOẠI CÁC CHẤT GÂY
UNG THƯ”: TRƯỜNG HỢP
CHẤT AMIĂNG

06 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

David Bernstein
Geneva, Switzerland
Allen Gibbs
Khoa Bệnh học, Khoa y Trường Đại học Wales, Cardiff,
Vương Quốc Anh
Fred Pooley
Đại học Cardiff, Cardiff, Vương Quốc Anh
Arthur Langer
Khoa sau Đại học và Trung tâm Đại học,
Đại học Thành phố New York, NY, Mỹ


Ken Donaldson
Trường Y, Đại học Edinburgh, Edinburgh, Vương Quốc Anh
John Hoskins
Haslemere, Vương Quốc Anh
Jacques Dunnigan
Đại học Sherbrooke, Sherbrooke, Qc, Canada

07 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


Indoor Built Environ 2007;16;1:1–5

08 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

TÓM TẮT

Trong các nghiên cứu bệnh ung thư ở người, Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung
thư đã thực hiện một chương trình “chuyên khảo” đánh giá rủi ro gây ung thư
của các chất hóa học đối với con người. Các số liệu thu thập được cung cấp
thông tin đáng kể về rủi ro gắn với các chất được gọi là chất gây ung thư. Tuy
nhiên, thông tin này không được sử dụng trong các lược đồ phân loại của IARC
mặc dù cụm từ “rủi ro” đã được đưa vào tựa đề và nội dung của chuyên khảo
này. Do đó, một số chính phủ và một số nhóm gây sức ép chính trị sử dụng mô
hình xác định tính nguy hại này nhằm củng cố lý do cấm các chất mà không
tiến hành đánh giá rủi ro. Sự nhầm lẫn và sử dụng lẫn lộn các từ “nguy hại”
và “rủi ro” đồng nghĩa với việc số liệu về mức độ nguy hại thường được đánh
đồng với số liệu về rủi ro. Các phản ứng chính trị thường thấy sẽ là, lấy Nguyên
lý Đề phòng làm lý do để tăng cường các hành động thể chế một cách quá
mức. Rất tiếc là việc loại bỏ các chất vì tính nguy hại vốn có có thể dẫn tới việc
chối bỏ các lợi ích lớn cho xã hội và làm suy yếu sự phát triển bền vững. Không

gì có thể minh họa tốt hơn cho việc này là trường hợp của chất khoáng được
gọi chung là amiang. Các bằng chứng hiện có phân biệt rõ tính nguy hại của
amiang chrysotile và amiang amphibole, nhưng bảng phân loại hiện hành của
IARC không cho thấy sự khác biệt này. Mặc dù thực tế, khi sử dụng theo cùng
một phương thức, amiang amphibole gây ra nhiều bệnh hơn rất nhiều so với
amiang chrysotile. Một số lượng rất lớn các bằng chứng hiện có chỉ rõ rằng
amiang chrysotile có thể được sử dụng một cách an toàn với rủi ro rất thấp.
Các sản phẩm xi măng như ống nước và các tấm vật liệu dùng trong xây dựng
nhà ở cung cấp những sản phẩm đa dạng với mức chi phí hợp lý cho các nước
đang phát triển. Việc loại bỏ những sản phẩm này không cứu mạng người mà
thậm chí là ngược lại.

GIỚI THIỆU

Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư (IARC) là một cơ quan được Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) tài trợ với sứ mệnh là hợp tác và thực hiện các nghiên
cứu về nguyên nhân gây bệnh ung thư ở người, cơ chế gây ung thư, và
phát triển các chiến lược khoa học để kiểm soát bệnh ung thư. Năm 1970,
Hội đồng Điều hành IARC đã thông qua nghị quyết liên quan tới vai trò của
IARC trong việc tư vấn chính phủ các nước các ý kiến chuyên môn, độc lập
và khoa học về các chất gây ung thư trong môi trường. Để đạt được điều
đó, Hội đồng Điều hành khuyến nghị IARC nên chuẩn bị một chương trình
“chuyên khảo” đánh giá rủi ro gây ung thư của các chất hóa học đối với con
người – tiêu đề ban đầu của tuyển tập. Ngay từ khi bắt đầu từ đầu những
năm 1970, “Chương trình” đã rà soát hơn 885 chất, và các tài liệu chuyên
khảo của IARC trở nên nổi tiếng với sự đầy đủ, chính xác, và công minh. Với
các số liệu này, ta có cơ hội để cung cấp thông tin có ý nghĩa cho các nước
để ước tính rủi ro gắn với các chất được coi là chất nguy hại tới người dân
tại nước đó. Những thông tin về quá trình phơi nhiễm với người, các điều
kiện thực tế khi sử dụng, phơi nhiễm tích luỹ đối với hóa chất, tác dụng

dược động học của chất lên cơ thể người, v.v. trong nhiều trường hợp khá

09 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


(2) Indoor Built Environ 2007;16:1–5

đầy đủ để ta mô tả tính nguy hại một cách toàn diện. Tuy nhiên, thông tin
này hầu như không được sử dụng trong bảng phân loại của IARC. Thực
tế, việc IARC vẫn cố tình sử dụng từ “rủi ro” trong tựa đề và nội dung bài
chuyên khảo mặc dù thực tế họ không hề thực hiện bất kỳ đánh giá rủi
ro nào là điều đáng phải xem xét lại. Trong lời tựa đề các chuyên khảo của
IARC luôn khẳng định: “Cuốn chuyên khảo là kết quả bước đầu trong đánh
giá rủi ro gây ung, trong đó có kiểm tra mọi thông tin liên quan nhằm đánh giá
mức độ tin cậy của bằng chứng hiện có rằng ở mức phơi nhiễm nhất định với
một chất, xác suất bị bệnh ung thư ở người có thể thay đổi. Bước thứ hai là định
lượng rủi ro” [1]. Tuy nhiên, bước định lượng rủi ro này hiếm khi được thực
hiện. Bỏ qua đánh giá rủi ro, một số chính phủ và nhóm gây sức ép chính
trị (thường là các tổ chức phi chính phủ hoặc NGO) thường chỉ căn cứ vào
bước xác định chất độc hại để thúc đẩy lý do cấm sử dụng một loại chất.
Họ không hề có động thái thực hiện đánh giá định lượng rủi ro phù hợp để
tránh hậu quả không mong muốn.

QUAN NIỆM
SAI TRONG
THUẬT NGỮ

nguy hại [gây ung thư] kể cả khi rủi ro với mức độ phơi nhiễm hiện nay rất
thấp, bởi vì cách sử dụng mởi hoặc các trường hợp phơi nhiễm chưa được
biết đến có thể khiến gia tăng rủi ro thực tế một cách đáng kể”.

Do đó chúng ta có thể nhận ra rằng việc xác định chất nguy hại là điều thiết
yếu nhưng chưa đủ để có được một đánh giá rủi ro, trong đó bao gồm số
liệu phơi nhiễm qua thời gian và ước tính rủi ro khả nghi trong điều kiện sử
dụng thực tế. Do có sự nhầm lẫn về khái niệm và sử dụng lẫn lộn thuật ngữ
“nguy hại” và “rủi ro”, nỗi sợ quá đáng trước kết cục không mong muốn như
ung thư thường gặp ở nhiều bộ phận công chúng, bị chi phối bởi dữ liệu

Bảng 1. Nhóm I: Các chất, hỗn hợp, và hoạt động

Các hợp chất hoặc vật liệu được đánh giá trong Chuyên khảo IARC số 1-94
được đưa vào một danh sách bao gồm các chất, hỗn hợp, và tình huống
phơi nhiễm đã được đánh giá cho đến nay và gọi chung nó là “Nhóm 1” –
nhóm chất gây ung thư ở người [2].
Danh sách này được cập nhật lần cuối vào tháng 9/2006. Trong đó có 99
chất, hỗn hợp, và hoạt động. 99 hạng mục này được chia thành 3 phần:
“Các chất và nhóm chất”; “Hỗn hợp”; “Tình huống phơi nhiễm”. Những ví dụ
minh họa được lấy từ ba phần này được thể hiện trong Bảng 1.
Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: Chúng ta có phải cấm các chất có mặt trong
“Nhóm 1 – Các chất, hỗn hợp và hoạt động” của IARC? Câu trả lời đương
nhiên là Không! Lý do là bởi vì bảng phân loại của IARC chỉ xác định và mô
tả đặc điểm (nguy hại) của các chất, hỗn hợp, hoạt động này. Trong đó
không bao gồm đánh giá rủi ro, hay nói cách khác là xác suất thể hiện độc
tính trong điều kiện sử dụng ngày nay và các tình huống phơi nhiễm liên
quan. Việc làm rõ sự khác biệt này rất quan trọng: “nguy hại” không phải là
“rủi ro” (Bảng 2). Bảng phân loại của IARC chỉ nói về sự nguy hại chứ không
phải là rủi ro. Thật vậy, việc xếp một chất là loại nguy hại cũng chỉ nói lên
được một điều là nó gây hại.

Bảng 2. Phân biệt giữa nguy hại và rủi ro
Định nghĩa nguy hại: một nguồn gây rủi ro không có nghĩa là nó sẽ xảy ra. Nguy hại dẫn tới rủi ro chỉ

khi có quá trình phơi nhiễm and nếu sự phơi nhiễm đó có khả năng dẫn tới hậu quả tiêu cực.
Đánh giá rủi ro: là quá trình bao gồm việc kết hợp số liệu, xác định nguy hại, qua trình phơi nhiễm, và
mối quan hệ giữa liều lượng – phản ứng nhắm xác định bản chất chất xác suất của tác dụng tiêu cực.

Trong “Lời mở đầu Các chuyên khảo của IARC đánh giá các chất có rủi ro
gây ung thư ở người” được đăng trên mạng internet vào tháng 1/2006 [3]
đã nói rằng “Chất nguy hại [gây ung thư] là một chất có khả năng gây ung
thư trong một số trường hợp, trong khi đó rủi ro ung thư là ước tính giá trị
kỳ vọng của tác dụng gây ung thư khi bị phơi nhiễm với một chất gây ung
thư. Cuốn chuyên khảo này là một bài tập đánh giá chất nguy hại, mặc dù
từ trước đến nay từ “rủi ro” đều xuất hiện trong tựa đề. Việc phân biệt giữa
chất nguy hại và rủi ro rất quan trọng. Các chuyên khảo xếp loại một chất là

10 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

11 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


về nguy hại được hiểu lầm thành rủi ro. Quan điểm sai này thường dẫn đến
phản ứng chính trị trước nỗi sợ được cảm nhận, và đôi khi được kích khích
bởi các tổ chức NGO chuyên hoạt động về một lĩnh vực hạn hẹp chèo lái
truyền thông vốn ưu ái những tin giật gân và gây áp lực để đưa ra những
quy định quá đáng. Một số chính quyền và NGO tìm cách cấm tất cả các vật
liệu nguy hại bằng cách viện dẫn Nguyên lý Phòng ngừa và lập luận rằng
kết quả của viện dẫn đó là vô hại, tức là cẩn tắc vô ưu. Tuy nhiên, việc loại
bỏ các chất đơn chỉ vì nguy hại thuộc tính đã chối bỏ lợi ích đáng kể của xã
hội và có thể cản trở phát triển bền vững. Nếu chúng ta nhìn theo khía cạnh
khác có thể thấy rõ việc cấm các chất nguy hại đáng kể sẽ dẫn tới việc loại
bỏ nguồn điện cho các hộ gia đình do nó có tính chất nguy hiểm gây chết
người trong gia đình.


CÁC NGOẠI LỆ:
CHÍNHTRỊ HAY
KHOA HỌC

TRƯỜNG HỢP
CHẤT KHOÁNG
AMIANG

là amiang là chrysotile hay là “amiang trắng”. Trong khi đó, 5 khoáng chất
amiang amphibole gồm có crocidolite hay là “amiang xanh” và amosite hay
là “amiang nâu”. Với số lượng bằng chứng ngày càng nhiều về “tính nguy
hại” rõ rệt của chrysotile so sánh với các dạng amphibole khác nhau của
amiang, giờ đã đến lúc ta phân biệt các đặc điểm về tính nguy hại của hai
loại amiang này. Mặc dù cuốn phân loại của IARC hiện hành không làm rõ sự
khác nhau giữa các loại amiang, không ít nghiên cứu “đánh giá rủi ro” được
thực hiện trong các cuộc điều tra kéo dài nhiều năm giữa hai họ amiang đã
khẳng định rủi ro liên quan đến sử dụng chrysotile hoàn toàn khác với rủi ro
khi sử dụng amphhibole. Thực tế, sợi khoáng amiang amphibole crocidolite
và amosite, hai loại duy nhất có ý nghĩa về thương mại, đã và đang tiếp tục
gây ra số lượng bệnh nhiều hơn nhiều so với amiang chrysotile khi các sợi
đó được sử dụng theo cùng một cách [5].

Hãy một lần nữa xem xét 99 chất và các tình huống phơi nhiễm được IARC
xác định là nguyên nhân gây ung thư khi phơi nhiễm với hỗn hợp phức
hợp. Liệu pháp Oestrogen và tất nhiên cả thuốc uống tránh thai, hóa chất
hóa trị liệu dùng trong điều trị một số bệnh ung thư, sản xuất cao su, ủng,
giày, đồ gỗ và tủ, sơn nhà là những chất và nơi làm việc ghi nhận tỷ lệ bệnh
ung thư cao hơn bình thường. Và cũng đừng quên rằng đồ uống có cồn
thuộc nhóm 1 các chất gây ung thư [4]. Việc cấm các chất và các nơi làm

việc này sẽ gây ra sự hỗn loạn trên toàn cầu. Ít nhất là vì lý do này, IARC nên
bổ sung vào tài liệu của họ lời cảnh báo về những hậu quả tiềm tàng và
không mong muốn nếu kiếm soát quá nghiêm ngặt hoặc cấm.

Cuối cùng, hiện nay người ta đã công nhận rằng thời gian tồn tại trong phổi
(độ bền sinh học) lâu hơn nhiều của sợi amphibole hít phải là một trong các
yếu tố quan trọng lý giải vì sao chúng có khả năng gây bệnh cao hơn rất
nhiều so với chrysotile [6, 7]. Các đánh giá định lượng gần đây đã phân tích
số liệu từ các khảo sát dịch tễ học hiện có nhằm khẳng định khả năng gây
bệnh của các loại sợi amiang khác nhau khẳng định sự khác biệt về rủi ro
gắn với chrysotile và amphibole [5, 8]. Các nghiên cứu độ bền sinh học thử
nghiệm được xuất bản gần đây [9-12] đã củng cố mạnh mẽ sự khác biệt về
dịch tễ học nhận thấy khi phơi nhiễm với amiang chrysotile hoặc amiang
amphibole.

Khi làm việc với các chất có thể gây hại, tức là, những chất có tính nguy
hại có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, cách tiếp cận ba mũi nhọn
truyền thống sau được áp dụng:

Hơn nữa, rất nhiều nghiên cứu dịch tễ học [13] cho thấy không có bằng
chứng gia tăng rủi ro bệnh ung thư từ phơi nhiễm với chrysotile ở ngưỡng
phơi nhiễm nghề nghiệp cho phép (~1 sợi/ml, trung bình 8 - giờ), theo
khuyến cáo của Nhóm các chuyên gia được thành lập bởi WHO tại Oxford
(1989). Gần đây nhất, một nghiên cứu đối chứng thực hiện ở nhiều trung
tâm tại Châu Âu [14] cho thấy phơi nhiễm nghề nghiệp với amiang không
hề tạo ra gánh nặng về ung thư phổi ở nam giới tại Trung và Đông Âu, trong
khi đó, ngược lại ở Vương Quốc Anh, rủi ro ung thư phổi tăng sau khi phơi
nhiễm với amiang. Các tác giả gợi ý rằng sự khác biệt về loại sợi và tình
huống phơi nhiễm có thể lý giải cho kết quả này.


Xác định nguy hại (mô tả đặc điểm);
Đánh giá rủi ro;
Quản lý rủi ro.
Quy trình phân loại của IARC chỉ tham chiếu bước đầu tiên trong số các
bước trên: “xác định nguy hại”. Quy trình này không tham chiếu bước “đánh
giá rủi ro”, bước này như đã đề cập ở trên, cần bao gồm nhiều yếu tố về liều
lượng và thời gian phơi nhiễm. Do đó, bảng phân loại của IARC không có
ý nghĩa khi sử dụng làm công cụ “quản lý rủi ro” trong việc sửa điều chỉnh
quy định, chính sách, và không thể áp dụng được nếu không có bước đánh
giá rủi ro phù hợp.
Cần phải làm rõ rằng từ “amiang” là một thuật ngữ thương mại chung được
dùng để mô tả một nhóm sáu khoáng chất từ hai họ sợi silicat hoàn toàn
khác nhau: serpentine và amphibole. Loại Serpentine duy nhất được gọi

12 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

Các phương pháp được sử dụng ngày nay để kiểm soát phơi nhiễm với
chrysotile tại nơi làm việc đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua.
Do đó, thay cho nồng độ từ 50 đến 100 sợi/cm3 như trước kia, hiện tại phơi
nhiễm thường ở dưới mức 1 sợi/cm3, và có rủi ro không đáng kể về ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe [5, 15]. Kinh nghiệm trong 50 năm sử dụng cho
thấy cần phải tránh chất amphibole. Tuy nhiên, số lượng lớn các bằng chứng
ngày nay cũng cho thấy chrysotile có thể được sử dụng một cách tương đối
an toàn với rủi ro kèm theo thấp, không đáng kể. Chrysotile trong các sản
phẩm xi măng như ống nước và tấm xi măng sử dụng trong xây dựng nhà

13 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


giúp sản phẩm linh hoạt hơn, giúp chống chịu với nhiệt độ và thời tiết khắc

nghiệt. Các sản phẩm này cũng được sản xuất với mức chi phí hợp lý với
các nước đang phát triển. Việc cấm sử dụng chrysotile sẽ không cứu mạng
người mà thậm chí là ngược lại. Ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới,
hiện vẫn còn tồn tại hàng nghìn ngôi làng không có hệ thống đường dẫn
nước sạch đầy đủ. Tháng 11/2006, Học viện Quốc gia Mỹ chỉ ra rằng thiếu
nước uống là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong ở trẻ em [16]. “Theo
báo cáo mới đây thuộc Chương trình Phát triển các Liên Hợp Quốc, thực trạng
thiếu nước uống chính là nguyên nhân thứ hai dẫn tới các ca tử vong ở trẻ
em trên toàn thế giới. Có gần 2 triệu trẻ em bị chết do nước nhiễm bẩn hàng
năm. Cũng theo báo cáo này, trên toàn thế giới, có khoảng 1,1 tỷ người không
được tiếp cận với nước sạch, và khoảng 2,6 tỷ người thiếu hệ thống vệ sinh phù
hợp. Mặc dù nhiều nước đang cải thiện vấn đề sử dụng nước, hệ thống thoát
nước và số lượng hộ gia đình có hệ thống hố xí vẫn không đáp ứng đủ (nhu
cầu) dẫn tới bệnh dịch lây lan. Ở Peru, trẻ em ở nhà có hệ thống hố xí và nước
sạch có 59% cơ hội sống sót so với các em không có, và ở Ai Cập, con số này
là 57%”. Riêng ở Ai Cập, hiện tại có khoảng 2.400 ngôi làng không có cơ sở
hạ tầng để phân phối đủ nước sạch. Để đối mặt với vấn đề này, Học viện
Nghiên cứu Khoa học Ai Cập xem xét thực tế chrysotile không nguy hiểm
nếu áp dụng các biện pháp công nghiệp và y tế cần thiết trong các nhà
máy, gần đây đã yêu cầu cho mở lại và cho hoạt động lại các nhà máy sản
xuất chrysotile và tạo cơ hội việc làm cho 3.500 công nhân và kỹ thuật viên.
Đây chính là minh chứng cho hậu quả nghiêm trọng về khía cạnh kinh tế
và phát triển đang đề nặng lên các cuốc gia đang phát triển do chủ nghĩa
đế quốc môi trường của các nhóm gây áp lực chính trị đang lan rộng cách
hiểu sai về hai khái niệm nguy hại và rủi ro.

14 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

TÀI LIỆU
THAM KHẢO


1. (accessed 15
December 2006)
2. (accessed 15
December 2006)
3. />(accessed 15 December 2006)
4. IARC: Alcohol drinking. Monographs on the evaluation of carcinogenic
risks to humans. Lyon, France, 1988. vol. 44: pp. 416.
5. Hodgson JT, Darnton A:The quantitative risks of mesothelioma and lung
cancer in relation to asbestos:Ann Occup Hyg 2000; 44(8): 565–601.
6. Wagner, JC, Pooley FD: Mineral fibers and mesothelioma.Thorax
1986;41:161–166.
7. Albin M, Pooley FD, Strömberg U, Attewell R, Mithar R, Johansson
L,Welinder H: Retention patterns of asbestos fibers in lung tissue among
asbestos cement workers. Occup Environ Med 1994;51:205–211.
8. Paustenbach DJ, Finley BL, Lu ET, Brorby GP, Sheehan PJ: Environmental
and occupational health hazard associated with the presence of
asbestos in brake linings and pads (1900 to present) :A «state-of-the-art»
review: J Toxicol Environ Hlth, Part B 2004;7:33–110.
9. Bernstein D, Rogers R, Smith P: The Biopersistance of Canadian chrysotile
asbestos following inhalation: Inhal Toxicol 2003;15: 1247–1274.
10. Bernstein D, Rogers R, Smith P: The biopersistance of Brazilian chrysotile
asbestos following inhalation: Inhal Toxicol 2004; 16:745–761.
11. Bernstein D, Rogers R, Smith P: The biopersistance of Canadian chrysotile
asbestos following inhalation: Final results through 1 year after cessation of
exposure. Inhal Toxicol 2005; 17:1–14.
12. Bernstein D, Hoskins JA: The Health Effects of Chrysotile: Current
perspectives based upon recent data: Regulatory Toxicol Pharmacol
2006;45:252–264.
13. Liddell FDK, McDonald JC, McDonald A: The 1891-1920 birth cohort

of Quebec chrysotile miners and millers: Development from 1904 and
mortality to 1992: Ann Occup Hyg 1997; 41:13–35.
14. Carel R, Olsson AC, Zaridze D, Szeszenia-Dabrowska N, Rudnai P, Lissowska
J, Fabianova E, Cassidy A,A, Mates D, Bencko V,Foretova L, Janout V, Fevotte
J, Fletcher T, Mannetje A, Brennan P, Bofetta P: Occupational Exposure to
Asbestos and Man-made Vitreous Fibres and Risk of Lung Cancer: A multicentre casecontrol study in Europe: Occup Environ Med (published as 10.1136/
oem.2006.027748 in oem.bmj.com, 19 October (2006)).
15. Concha-Barrientos M, Nelson D, Driscoll T, Steenland N, Punnett L,
Fingerhut M, Prüss-Ustün A, Corvalan C, Leigh J, Punnett L,Tak S: Comparative
quantification of health risks: global and regional burden of disease attributable
to selected major risk factors; in Ezzati M, Lopez AD, Rodgers A, Murray CJL
(eds). Geneva: World Health Organization 2004; chapter 21, pp.1651–1801.
16. 1127.html (accessed 15
December 2006)

15 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


THAM LUẬN

GIỚI THIỆU TÀI LIỆU
AMIANG TRẮNG CỦA WHO

Thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Huyền
Chuyên viên Cục Quản lý Môi trường Y tế

16 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

17 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp



LOẠI TRỪ
CÁC BỆNH
LIÊN QUAN
ĐẾN AMIĂNG

Amiăng là một trong những chất gây ung thư nghề nghiệp, là nguyên nhân
của khoảng 1⁄2 số tử vong do ung thư nghề nghiệp
Năm 2003, Kỳ họp thứ 13 của Ủy ban liên tịch về Sức khỏe Nghề nghiệp của
Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến
nghị rằng cần quan tâm đặc biệt tới việc loại trừ các bệnh liên quan đến
amiăng.
Nghị quyết của Hội đồng Y tế Thế giới (WHA) số 58.22 năm 2005 về phòng
chống ung thư đã hối thúc các Quốc gia Thành viên chú trọng đặc biệt tới
các căn bệnh ung thư trong đó có yếu tố phòng tránh tiếp xúc, đặc biệt là
tiếp xúc với các hóa chất tại nơi làm việc và trong môi trường.
Năm 2007, Nghị quyết của WHA số 60.26 đã kêu gọi có những chiến dịch
toàn cầu để loại bỏ các bệnh liên quan đến amiăng.
Năm 2013, Nghị quyết của WHA số 66.10 đã đề cập đến việc phòng chống
các bệnh không lây nhiễm, kể cả ung thư.
Tiếp xúc với Amiăng, kể cả Amiăng trắng, gây ra ung thư phổi, thanh quản
và buồng trứng, ung thư trung biểu mô (một loại ung thư màng phổi và
màng bụng) và bệnh bụi phổi Amiăng (xơ hóa phổi).

TIẾP XÚC VỚI
AMIĂNG VÀ
TÁC ĐỘNG ĐỐI
VỚI
SỨC KHỎE
CÔNG CỘNG

LÀ LỚN

18 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

Hiện nay có khoảng 125 triệu người trên thế giới đang bị tiếp xúc với
amiăng tại nơi làm việ .
Theo ước tính toàn cầu, ít nhất có 107 000 người hàng năm chết do ung
thư phổi, ung thư trung biểu mô liên quan đến amiăng và bệnh bụi phổi
amiăng do tiếp xúc nghề nghiệp.
Ngoài ra, có khoảng 400 ca tử vong do tiếp xúc không liên quan đến nghề
nghiệp với amiăng. Gánh nặng các bệnh liên quan tới amiăng và̃ đang gia
tăng ngay cả ở các nước đã cấm sử dụng amiăng trong những năm đầu
thập niên 1990. Vì thời gian ủ bệnh dài đến khi phát bệnh vẫn còn là một
vấn đề đang tranh cãi, việc dừng sử dụng amiăng hiện nay sẽ làm giảm số
tử vong liên quan đến amiăng sau nhiều thập kỷ nữa.

19 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


TẤT CẢ CÁC
LOẠI AMIĂNG
ĐỀU GÂY
UNG THƯ Ở
NGƯỜI

Amiăng (actinolite, amosite - “amiăng nâu”, anthophyllite, chrysotile “amiăng trắng”, crocidolite - “amiăng xanh” và tremolite) đã được Cơ quan
Quốc tế Nghiên cứu về Ung thư (IARC) phân loại là chất gây ung thư cho
con người.
Tiếp xúc với amiăng trắng, amosite - “amiăng nâu” và anthophyllite và các
hỗn hợp có chứa crocidolite - “amiăng xanh” sẽ dẫn đến gia tăng nguy cơ

ung thư phổi.
Ung thư trung biểu mô đã được ghi nhận sau khi có tiếp xúc nghề nghiệp
với crocidolite, amosite, tremolite và amiăng trắng (chrysotile), cũng như
trong quần thể dân cư sinh sống ở xung quanh các nhà máy và mỏ amiăng
và ở những người chung sống với công nhân amiăng.

AMIĂNG
TRẮNG VẪN
ĐANG ĐƯỢC
SỬ DỤNG
RỘNG RÃI

Tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến amiăng liên quan đến loại, kích cỡ và
lượng sợi cũng như quá trình chế biến công nghiệp của amiăng Không có
ngưỡng nào được xác định đối với nguy cơ gây ung amiăng, kể cả amiăng
trắng. Hút thuốc lá làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi từ việc phơi nhiễm
với amiăng.
Ít nhất có 107.000 người chết hàng năm do ung thư phổi, ung thư trung
biểu mô và bụi phổi amiăng do kết quả bị tiếp xúc nghề nghiệp với amiăng.

20 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

Amiăng đã được sử dụng trong hàng ngàn sản phẩm với số lượng lớn như
tấm lợp nhà, ống dẫn nước, chăn chữa cháy và các vật liệu cách nhiệt cũng
như má phanh, gioăng và đệm của ô tô.
Do sự quan tâm ngày càng lớn về vấn đề sức khỏe, việc sử dụng amiăng
đã giảm xuống ở nhiều nước. Việc sử dụng crocidolite và các sản phẩm có
chứa loại sợi này và phun tất cả các dạng amiăng đều bị cấm theo Công
ước của ILO về vấn đề An toàn trong Sử dụng Amiăng (Số 162) từ năm 1986.
Tuy nhiên, amiăng trắng vẫn còn đang được sử dụng rộng rãi với khoảng

90% đang được dùng trong vật liệu xây dựng xi- măng amiăng, là lĩnh vực
được sử dụng lớn nhất ở các nước đang phát triển. Các dạng sử dụng còn
lại của amiăng trắng là cho các vật liệu chịu ma sát (7%), dệt may và các ứng
dụng khác.
Cho đến nay (cuối năm 2013), có 54 nước, bao gồm tất cả các quốc gia
thành viên của Liên minh Châu Âu (EU) đã cấm sử dụng tất cả các dạng
amiăng, kể cả amiăng trắng.

NHỮNG
KHUYẾN NGHỊ
CỦA WHO
VỀ PHÒNG
CHỐNG CÁC
BỆNH LIÊN
QUAN ĐẾN
AMIĂNG

Không có bằng chứng nào về ngưỡng cho tác động gây ung thư của
amiăng, kể cả amiăng trắng, và những nguy cơ ung thư gia tăng được ghi
nhận trong các quần thể bị phơi nhiễm với các mức độ rất thấp.
Cách thức hiệu quả nhất để loại trừ các bệnh liên quan đến amiăng là
ngừng sử dụng tất cả các loại amiăng.

21 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


CÁC CHIẾN
LƯỢC CỦA
WHO ĐỂ LOẠI
TRỪ CÁC BỆNH

LIÊN QUAN
ĐẾN AMIANG

Cách thức hiệu quả nhất để loại trừ các bệnh liên quan đến amiăng là
ngừng sử dụng tất cả các loại Amiăng;

PHẦN 2. CÁC
CÂU HỎI
VÀ TRẢ LỜI
THƯỜNG GẶP
(1)

Amiăng trắng không thực sự là Amiăng?
A trắng là một trong sáu dạng của A

quan tiếp tục gia tăng ngay ở nước đã cấm sử dụng A.
Chúngtacóthểchắcchắnlànhữngđánhgiákhoahọcvề amiăng của WHO và
IARC là hoàn toàn độc lập với những ảnh hưởng bên ngoài không? WHO,
IARC với sự đồng thuận quốc tế của chuyên gia khoa học: không có ngưỡng
nào được xác định cho các nguy cơ gây ung thu, đánh giá là cực kỳ nghiêm
túc và độc lập, loại bỏ các xung đột lợi ích tiềm năng.

Cung cấp thông tin về những giải pháp thay thế Amiăng với những chất thay
thế và phát triển các cơ chế kinh tế và công nghệ để thúc đẩy việc thay thế;
Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tiếp xúc với amiăng đã có và trong
khi loại bỏ amiăng (hủy không dùng).
Tăng cường các dịch vụ chẩn đoán sớm, điều trị và phục hồi chức năng đối
với các bệnh liên quan đến amiăng và thiết lập đăng ký cho những người
đã có và/hoặc đang có tiếp xúc với amiăng.


CÁC CÂU HỎI
VÀ TRẢ LỜI
THƯỜNG GẶP
(3)

Những hành động nào đã được các nước thực hiện hoặc đang được đề xuất
ở cấp độ quốc tế?

Chính sách của WHO về Amiăng là như thế nào?
Amiăng gây K (phổi, thanh quản và buồng trứng, ung thư trung biểu
mô (Kmàng phổi, màng bụng) và bụi phổi amiăng.

181 nước: Công ước Basel (1992) về Kiểm soát Vận chuyển và Thải bỏ xuyên
biên giới các Chất thải Nguy hại.
154 nước: Công ước Rotterdam (2004) về Quy trình cho phép có báo trước
đối với các Hóa chất Độc hại và Thuốc trừ sâu trong Thương mại Quốc tế.

Bệnh liên quan A có thể phòng ngừa được; hiệu quả nhất: ngừng sử
dụng tất cả các dạng của A.

Có thật là amiăng trắng ít có hại hơn các loại amiăng khác và vì thế không
cần phụ thuộc vào các biện pháp kiểm soát tương tự?

Tại sao WHO rất quan tâm đến Amiăng?
WHO làm giảm gánh nặng toàn cầu các bệnh không lây nhiễm (K, bệnh hô
hấp mãn tính);

Kết luận chắc chắn từ các đánh giá của WHO và IARC là amiăng trắng gây
ung thư.
Phơi nhiễm có thể có quá trình bảo dưỡng, phá dỡ, vứt bỏ chất thải xây

dựng, trong các thảm họa thiên nhiên.
Nguy cơ này có thể hoàn toàn được ngăn chặn (ngừng sử dụng A, sử dụng
các nguyên vật liệu và sản phẩm thay thế).

Dự phòng ban đầu làm giảm các chi phí dịch vụ CSYT, đảm bảo tính bền
vững về chi tiêu y tế.
WHO trao đổi với cấp chính quyền nào về Amiăng trắng và các dạng amiăng
khác và việc quản lý chúng?
Hội đồng Y tế Thế giới (WHA) ra quyết định tối cao cho WHO; họp thường
niên với 194 Quốc gia để khẳng định chính sách của WHO.

CÁC CÂU HỎI
VÀ TRẢ LỜI
THƯỜNG GẶP
(2)

Những hành động nào đã được các nước thực hiện ở cấp quốc gia? 50 Quốc
gia Thành viên WHO (2013) đã cấm sử dụng A khi xem xét chi phí và lợi ích
(chi phí y tế; mất năng suất lao động).

Người ta tiếp xúc/phơi nhiễm với amiăng như thế nào?: hít vào, ăn uống/
khai thác mỏ, nghiền A, sản xuất và sử dụng, bảo dưỡng và phá dỡ
Tại sao đề cập đến amiăng là một chất gây ung thư lại rất quan trọng khi
có rất nhiều các chất gây ung thư khác có thể thấy trong môi trường?” phơi
nhiễm amiăng có thể phòng tránh; thời gian ủ bệnh dài 40 năm; bệnh liên

22 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

CÁC CÂU HỎI
VÀ TRẢ LỜI

THƯỜNG GẶP
(4)

Nghiên cứu hiện tại hoặc tương lai về độc chất của Amiăng trắng có thể
thay đổi quan điểm hiện nay của WHO và IARC về việc gây ra ung thư
không? Hoàn toàn không.
Có sẵn thông tin gì về các sản phẩm thay thế, đặc biệt là nguyên vật liệu xây
dựng, khi có khẳng định là các chất sợi thay thế hiện đại cho amiăng trắng
bản thân chúng là độc hại hoặc tính độc hại chưa xác định được?
Rất nhiều chính phủ, các cơ quan khu vực và các tổ chức quốc tế đã lựa
chọn chất thay thế A, và các đánh giá về sức khỏe con người đối với các
nguyên vật liệu thay thế cũng đã được công bố.

23 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


Các ấn phẩm của WHO về amiăng

CÁC CÂU HỎI
VÀ TRẢ LỜI
THƯỜNG GẶP
(5)

Liệu thiếu báo cáo các ca K trung biểu mô ở cấp quốc gia có cho thấy không
có gánh nặng bệnh tật đáng kể do amiăng, vì vậy không có lý do phải hành
động do K trung biểu mô là một chỉ điểm cụ thể về việc phơi nhiễm amiăng?
Cần có các hệ thống giám sát mang tính hệ thống, bền vững ở cấp quốc
gia, nhưng thường không có.
Amiăng có khả năng gây Kphổi: K trung biểu mô (6:1), lớn hơn nguy cơ của
thuốc lá.

Tiền sử tiếp xúc thường bị bỏ xót.
Hiện nay không có bằng chứng ở cấp quốc gia không phải là.
bằng chứng không có.
Bài học kinh nghiệm: K trung biểu mô lớn vẫn đang xảy ra, thậm chí nhiều
năm sau việc phơi nhiễm rộng rãi đã bị ngăn chặn.

PHẦN 3.
THÔNG TIN
BỔ SUNG

Tiếp xúc với A chỉ là vấn đề nghề nghiệp, không có hoặc có ít nguy cơ đối
với quần thể nói chung không? Không.
Phơi nhiễm gia đình, nhân viên văn phòng, phơi nhiễm trong tự nhiên tại
những vùng có nhiều A trong đất, tại các điểm giao cắt giao thông đông
đúc, sửa chữa, phá dỡ nhà cửa, bảo dưỡng xe.

Các đánh giá được công bố về các vật liệu thay thế

Với nhà hoạch định chính sách: Ít hơn cho tiếp xúc nghề nghiệp và nhiều
hơn cho việc sử dụng vật liệu có A trong xây dựng?: do phơi nhiễm không
chủ ý của quần thể lớn hơn từ các nguyên vật liệu xây dựng bị hư hỏng , vất
bỏ chất thải xây dựng không phù hợp.
Việc sử dụng vật liệu có chứa A ở cộng đồng nghèo, đưa gia đình họ đến
gần phơi nhiễm A.

24 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

25 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp



PHẦN 4.
TÓM TẮT
KỸ THUẬT
ĐÁNH GIÁ
VỀ AMIĂNG
TRẮNG CỦA
WHO
SẢN XUẤT
SỬ DỤNG

Các đánh giá được công bố về các vật liệu thay thế
1. Sản xuất, sử dụng và tiếp xúc với Amiăng trắng
2. Tác động sức khỏe
Amiăng trắng luôn là loại amiăng chính được khai thác ở mỏ; trong năm
cao điểm sản xuất (1979), amiăng trắng chiếm hơn 90% tất cả amiăng được
khai thác ở mỏ. Với một ngoại lệ là những số lượng nhỏ (khoảng 0.2 triệu
tấn hàng năm, trong các năm 2007–2011) của amiăng amphibole được
khai thác ở Ấn Độ, amiăng trắng hiện tại là loại amiăng duy nhất đang được
khai thác. Sản xuất của thế giới năm 2012 được ước tính là 2 triệu tấn, nhà
sản xuất chính là Liên bang Nga (1 triệu tấn), Trung Quốc (0.44 triệu tấn),
Brazil (0.31 triệu tấn) và Kazakhstan (0.24 triệu tấn); sản xuất đã ngừng ở
Canada, một nước đến tận năm 2011 vẫn là một trong những nước sản xuất
chính. Mặc dù sản xuất trên thế giới đã giảm đáng kể từ cao điểm 5,3 triệu
tấn năm 1979, sản xuất vẫn duy trì ổn định trong thời gian những năm 2000
(2 - 2,2 triệu tấn).

CÁC CÂU HỎI
VÀ TRẢ LỜI
THƯỜNG GẶP
(5)


amiăng, trộn lẫn với các nguyên vật liệu thô khác và cắt khô các sản phẩm
có chứa amiăng bằng các công cụ mài mòn.

NHỮNG ẢNH
HƯỞNG SỨC
KHỎE

Ung thư phổi

Mô tả mạnh mẽ nhất về bằng chứng.

Hình thức cấm ở các nước có khác nhau (ví dụ có thể cho phép sử dụng hạn
chế, cho cơ khí chuyên ngành cao)

TIẾP XÚC NGHỀ
NGHIỆP

Phơi nhiễm với amiăng xảy ra khi hít thở phải những sợi mảnh chủ yếu từ
không khí bị ô nhiễm trong môi trường làm việc cũng như từ không khí
xung quanh trong vùng phụ cận của nguồn hay không khí trong nhà có
chứa các nguyên vật liệu có sợi amiăng.

Tử vong gia tăng do ung thư phổi đã thấy ở những công nhân mỏ amiăng
trắng, công nhân nhà máy sản xuất sản phẩm ma sát amiăng trắng và công
nhân cơ sở dệt bị phơi nhiễm với amiăng trắng.

Kết luận rằng có đủ bằng chứng về tất cả các loại amiăng, kể cả amiăng
trắng là chất gây ung thư phổi cho con người.


Tăng lên 54 nước tính đến 2014

Tiếp xúc không liên quan đến nghề nghiệp, cũng được gọi một cách rộng
rãi là phơi nhiễm môi trường, với amiăng có thể là do tiếp xúc trong nhà
(v.d. sống cùng trong hộ gia đình với những người đã bị tiếp xúc với amiăng
khi làm việc), không khí ô nhiễm từ những ngành công nghiệp liên quan
tới amiăng hoặc sử dụng các vật liệu mài mòn có chứa amiăng, hoặc các
khoáng chất amiăng có trong tự nhiên.

Tiếp xúc qua đường hô hấp, và ở mức thấp hơn, nuốt vào xảy ra khi khai
thác mỏ và nghiền amiăng (hoặc các khoáng chất khác bị nhiễm lẫn với
amiăng), sản xuất hay sử dụng các sản phẩm có chứa amiăng, và các ngành
công nghiệp xây dựng, ô tô và thải loại amiăng.

Kết luận của IARC về ung thư phổi

Các loại Amiăng (kể cả Amiăng trắng) đã bị cấm ở 32 nước tính đến 2007

TIẾP XÚC
KHÔNG LIÊN
QUAN ĐẾN
NGHỀ NGHIỆP

Phơi nhiễm cũng có thể xảy ra trong khi lắp đặt và sử dụng các sản phẩm
có chứa amiăng và bảo trì xe cộ.

Ung thư trung biểu mô
Ung thư trung biểu mô có liên quan tới tiếp xúc nghề nghiệp, trong gia
đình và môi trường với amiăng.
Những kết luận của IARC về ung thư trung biểu mô

Có đủ bằng chứng về việc gây ra ung thư ở người của tất cả các loại amiăng,
kể cả amiăng trắng.
Mô tả mạnh mẽ nhất về bằng chứng (1).

Mức độ phơi nhiễm cao nhất xảy ra trong khi đóng gói lại các công cụ chứa

26 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

GÁNH NẶNG
BỆNH TẬT
TOÀN CẦU

Không có nghiên cứu cụ thể nào về gánh nặng bệnh tật toàn cầu do
Amiăng trắng gây ra.
Trước đây, hơn 90% A và hiện nay 100% A sử dụng là A trắng, do vậy phơi
nhiễm với A phần lớn là phơi nhiễm với A trắng.

27 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


Ung thư phổi: Năm 2004, amiăng gây ra 41 000 ca tử vong do ung thư phổi.
Ung thư trung biểu mô: Ước tính gánh nặng toàn cầu, được cập nhật cho
năm 2004 đối với toàn cầu là 59 000 tử vong và 773 000 DALYs do ung thư
trung biểu mô ác tính.
Bệnh bụi phổi amiăng: Ước tính gánh nặng toàn cầu cho năm 2000 trên
thế giới là 7000 tử vong và 380 000 DALY do bệnh bụi phổi amiăng.

SỢI THAY
THẾ AMIĂNG
TRẮNG


Hội thảo của WHO về các Cơ chế của các Sợi gây ung thư và Đánh giá
những chất Thay thế Amiăng trắng được tổ chức tại IARC ở Lyon, Pháp, để
hưởng ứng lời yêu cầu từ Ủy ban Đàm phán Liên Chính phủ cho Công ước
Rotterdam về Quy trình Cho phép có báo trước đối với các Hóa chất độc hại
và Thuốc trừ sâu trong Thương mại Quốc tế (INC).
Các chất thay thế được Hội thảo của WHO bao gồm 12 chất thay thế amiăng
trắng do INC xác định để được WHO ưu tiên xem xét gồm 2 chất từ danh
mục thứ 2 do INC cung cấp để được xem xét nguồn lực cho phép và chất
nữa có số liệu được đệ trình theo yêu cầu đối với “kêu gọi số liệu” của công
chúng cho Hội thảo.

Tại 6 bệnh viện (2009-2011): Ghi nhận 447 trường hợp bệnh nghi ngờ liên
quan đến amiăng vào nhập viện.
46 trường hợp được chẩn đoán là ung thư trung biểu mô màng phổi chiếm
10,29%
Ung thư phổi: 76,51%
Ung thư phế quản: 12,3%
4 trường hợp dày màng phổi: 0,89%.
Trong 46 trường hợp được chẩn đoán ung thư trung biểu mô
Tuổi đời trung bình của nhóm nghiên cứu là 58.33 ± 9,5
Số trường hợp nam chiếm 56,52% và nữ là 43,48%.
13,04% có thông tin về tiền sử tiếp xúc liên quan đến amiăng.
Gửi 39 mẫu bệnh phẩm gửi sang Bệnh viện Hiroshima, Nhật Bản
8 trường hợp được xác định là ung thư trung biểu mô chiếm 20,51%.
Thông tin về tiếp xúc nghề nghiệp với amiăng chưa đầy đủ.
Giám sát trường hợp K trung biểu mô qua 9 trung tâm ghi nhận K

Các bệnh liên quan đến amiăng nghề nghiệp ở Việt Nam:


BỆNH LIÊN
QUAN ĐẾN
AMIĂNG Ở
VIỆT NAM

BệnhbụiphổiAmiăngđượccôngnhậnlàBệnh nghề nghiệp được đền bù ở
Việt Nam từ năm 1976,
Tớinăm2008:giámđịnhvàđềnbùđược3 trường hợp.
Nhiềubệnhliênquanđếnamiăngkhácchưa nằm trong danh mục là bệnh
nghề nghiệp được bảo hiểm nên chưa có thống kê đầy đủ.
Kết quả NCKH của Bộ Y tế giai đoạn 2010-2011
Tại cộng đồng: Hồi cứu 117 trường hợp bị tử vong ghi nhận do ung thư
màng 2007-2008 có:
29 trường hợp (24,79 %) được xác định lại là ung thư màng phổi
Có 52 trường hợp bị bệnh liên quan đến phổi (44,4%)
36 trường hợp bị tử vong do các bệnh khác là 30,8%.
Nghề nghiệp: làm ruộng chiếm 37,93%; công nhân 20,68%; các nghề
nghiệp khác 17,24%.

28 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

29 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


Các vấn đề liên quan đến nghiên cứu bệnh liên quan đến amiang ở
Việt Nam
Công tác giám sát sức khỏe định kỳ của người lao động thường không hiệu
quả vì thời gian ủ bệnh sau khi tiếp xúc với Amiăng thường kéo dài 20-30
năm, do đó, người lao động thường phát bệnh khi đã nghỉ hưu.
Thời gian ủ bệnh kéo dài 20-30 năm gây khó khăn trong quản lý hồ sơ, theo

dõi và khám phát hiện bệnh cho người lao động.
Năm 2012 IARC đã xác định amiang là chất gây ung thư nhóm 1 -> việc
nghiên cứu tiếp tục theo dõi trong công nhân tiếp xúc để chờ những hậu
quả sẽ chắc chắn xảy ra là không phù hợp với quan điểm y đức trong nghiên
cứu y học.
Đối với các nghiên cứu hồi cứu: Khó khăn trong việc khai thác tiền sử tiếp
xúc Amiang đối với người lao động và cộng đồng từ 20 - 30 năm trước là
việc không nhớ rõ thông tin, không biết về amiang, về việc chất tiếp xúc có
phải là amiang hay không.

30 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

31 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


THAM LUẬN

ĐÁNH GIÁ CƠ SỞ KHOA HỌC LẬP
TRƯỜNG CỦA WHO VỀ CÁC BỆNH
LIÊN QUAN ĐẾN AMIANG - ĐÁNH
GIÁ NHỮNG NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC ĐƯỢC CÔNG BỐ
GẦN ĐÂY NHẤT VỀ AMIANG
TRẮNG VÀ AMIANG MÀU; PHÂN
BIỆT ẢNH HƯỞNG SỨC KHOẺ
THEO LOẠI SỢI

32 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

Tiến sỹ David Bernstein

Nhà tư vấn độc học, Geneva, Thụy Sỹ
Jacques Dunnigan
Đại học Sherbrooke, Sherbrooke, QC, Canada
Thomas Hesterberg
Trung tâm độc học và sức khỏe môi trường,
Little Rock, Arhansas
Robert Brown
Dịch vụ độc học, Rutland, Anh
Juan Antonio Legaspi Velasco
Học viện Y tế Quốc gia Mexico
Raúl Barrera
Viện Quốc gia về bệnh hô hấp, Mexico, Mexico
John Hoskins
Nhà độc học độc lập, Haslmere, Anh
Allen Gibbs
Bệnh viện Llandough, Penarth, Anh

33 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


TÓM TẮT

Bài này cung cấp cơ sở để làm rõ sự khác biệt giữa amiang chrysotile và amiang amphibole (nâu
và xanh) về động học cũng như bệnh lý. Amiang chrysotile nhanh chóng bị tấn công trong môi
trường axit đại thực bào, tách ra thành các hạt ngắn trong phổi trong khi amiang amphibole
không bị tách và tạo ra phản ứng với cấu trúc sợi của chất khoáng này. Các nghiên cứu độc học
hít phải với chrysotile trong các điều kiện phổi không bị đầy chỉ ra rằng các sợi dài (>20 μm) được
thải ra khỏi phổi rất nhanh, không bị chuyển đến khoang màng phổi và không tạo ra phản ứng
xơ hoá. Các nghiên cứu độc học hít phải về chrysotile trong các điều kiện phổi không bị đầy
cho thấy các sợi dài (>20μm) nhanh chóng bị đào thải khỏi phổi, không di chuyển vào khoang

màng phổi và không tạo ra phản ứng xơ hoá. Ngược lại, sợi amiang amphibole dài và bền,
nhanh chóng (trong 7 ngày) di chuyển vào khoang màng phổi và gây ra xơ hóa mô kẽ và viêm
màng phổi. Phân tích định lượng các nghiên cứu dịch tễ học về các sợi khoáng đã xác định và
phân biệt được sự khác biệt về mức độ gây ung thư phổi và ung thư trung biểu mô của amiang
chrysotile và amiang amphibole. Những nghiên cứu này đã xét thực trạng amiang amphibole
đã được sử dụng thường xuyên. Như với các hạt khác trong không khí có thể hít phải, bằng
chứng cho thấy phơi nhiễm ở mức cao và kéo dài với amiang chrysotile có thể gây ra ung thư
phổi. Tầm quan trọng của nghiên cứu này và các nghiên cứu tương tự chính là ở chỗ chúng cho
thấy phơi nhiễm ở mức thấp với amiang chrysotile không có rủi ro nào về sức khoẻ có thể tìm
thấy. Do tổng liều lượng quyết định đến khả năng mắc bệnh và phát triển bệnh, nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng rủi ro về kết quả xấu có thể thấp mặc dù mức độ phơi nhiễm cao trong một thời gian ngắn.
Tóm tắt
Giới thiệu
Sự khác nhau giữa amiang serpentine và amphibole
Khả năng bền sinh học trong ống nghiệm
Sự liên quan của các nghiên cứu độc học hít phải
Mối liên hệ giữa độ dài và độ bền sinh học của sợi với độc học mãn tính
Các nghiên cứu “không quá tải” đánh giá tính độc của chrysotile
Nghiên cứu tính độc hít phải mãn tính
Nghiên cứu tính độc hít phải cận mãn tính
Nghiên cứu tinh độc hít phải ngắn hạn
Các nghiên cứu tính độc hít phải có thể chỉ ra điều gì?
Các nghiên cứu dịch tễ học
Đánh giá trong các nghiên cứu dịch tễ học được xem xét trong các đánh giá trước đó
Nghiên cứu đoàn hệ độc học chrysotile
Nghiên cứu ximang mật độ cao chrysotile
Nghiên cứu chrysotile không cụ thể ở sản phẩm ximang
Xem xét dịch tễ học chrysotile
Nghiên cứu đoàn hệ độc học chrysotile
Nghiên cứu ximang mật độ cao chrysotile

Nghiên cứu chrysotile không cụ thể ở sản phẩm ximang
Xem xét dịch tễ học chrysotile
Sử dụng và phơi nhiễm trong quá khứ và hiện tại
Thảo luận
Kết luận
Tuyên bố lợi ích
Tham khảo

34 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

35 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


GIỚI THIỆU

Các nghiên cứu khoa học gần đây đã đóng góp vào việc hiểu một cách hoàn
thiện hơn về rủi ro sức khỏe do amiang chrysotile khi được sử dụng trong
các sản phẩm mật độ cao ngày nay. Chìa khóa để hiểu điều này là phân
biệt về phơi nhiễm, liều lượng và phản ứng của chrysotile so với amphibole
như crocidolite, tremolite và amosite. Tài liệu này xem xét các nghiên cứu
khoa học được xác định là chỉ tập trung vào chrysotile hoặc chủ yếu vào
chrysotile và thảo luận xem các dữ liệu dịch tễ học và độc học gần đây hơn
giúp hội tụ cách hiểu của chúng ta về rủi ro của chrysotile như thế nào.
Việc gắn phơi nhiễm amiang với bệnh tật bắt đầu từ đầu thế kỷ 20
(McDonald & McDonald, 1996). Báo cáo của Wagner và cộng sự (1960), báo
cáo 33 trường hợp ung thư trung biểu mô, chủ yếu bắt nguồn từ vùng mỏ
crocidolite ở Tây Bắc tỉnh Cape ở Nam Phi (18 trên 33 trường hợp) theo nhận
định của các tác giả, có công lớn trong việc thiết lập mối quan hệ với phơi
nhiễm amiang. Trong khi mối quan hệ Wagner và cộng sự (1960) đã mô tả
tập trung chủ yếu vào các cá nhân làm việc chủ yếu trong mỏ crocidolite,

mức độ phơi nhiễm không được định lượng lúc bấy giờ. Tiếp đó, Selikoff và
cộng sự (1984), báo cáo về 632 công nhân vật liệu cách nhiệt phơi nhiễm
với amiang bắt đầu tham gia ngành này từ trước năm 1943 và được theo
dõi đến năm 1962; 45 người chết vì ung thư phổi hoặc màng phổi, trong
khi chỉ 6,6 ca tử vong được kỳ vọng xảy ra. Ba trong số các u màng phổi là
ung thư trung biểu mô; có một là ung thư trung biểu mô màng bụng. Việc
sử dụng thuật ngữ “amiang” để mô tả cả hai loại sợi, chrysotile và các thành
viên thuộc họ amphibole (amosite, crocidolite, tremolite, anthophyllite và
actinolite, trong đó chỉ có hai loại đầu là quan trọng trong công nghiệp)
và thực trạng thiếu thông tin đầy đủ về tiền sử nghề nghiệp là những hạn
chế quan trọng của những nghiên cứu dịch tễ học ban đầu, dẫn đến việc
xác định không phù hợp tính chất của phơi nhiễm với từng loại sợi cụ thể.
Những nhân tố này càng làm rối mọi thứ và ngăn chặn việc phân biệt mối
liên hệ của từng loại sợi với bệnh tật. Thêm vào đó, do “amiang” được sử
dụng thường xuyên cho cả hai loại sợi và các ứng dụng tương tự của chúng,
ta có thể hiểu được việc người ta tưởng rằng tất cả các loại sợi amiang có
khả năng gây bệnh tương tự. Về bản chất, việc dùng cùng 1 tên cho hai loại
sợi khác nhau hoàn toàn đã khiến người ta cào bằng thay vì phân biệt hai
loại này.
Do việc sử dụng thường xuyên thuật ngữ amiang cho tất cả các loại và
những hạn chế trong phân tích và xác định, phần lớn các nghiên cứu trong
những năm 1990 đưa ra ít cơ sở khoa học định lượng để phân biệt ảnh
hưởng của chrysotile và amphibole. NIOSH (2011) trong Lộ trình Amiang
của họ, nhận định rằng “thuật ngữ không chính xác và tính chất phức tạp
của khoáng vật đã ảnh hưởng đến sự tiến triển trong nghiên cứu. ‘Amiang’

36 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

SỰ KHÁC
NHAU CỦA

AMIANG
SERPENTINE

AMPHIBOLE

và ‘dạng amiang’ là 2 thuật ngữ thường được sử dụng nhưng thiếu độ chính
xác về mạt khoáng vật học. ‘Amiang’ là thuật ngữ được sử dụng cho một số
loại khoáng vật đã kết tinh theo một cách cụ thể có thể nhìn thấy được và
có một số tính chất có ích về mặt thương mại”. Và, “Việc sử dụng thuật ngữ
không theo tiêu chuẩn hoặc các thuật ngữ không được định nghĩa chính
xác khi báo cáo nghiên cứu gây khó khăn cho việc hiểu toàn diện ý nghĩa
của những nghiên cứu này hoặc để so sánh với kết quả của các nghiên cứu
khác”.
Thành phần vật lý và hóa học giúp phân biệt chrysotile - một sợi serpentine
- với các loại amphibole như amosite và crocidolite chỉ mới được xét đến gần
đây khi hiểu độc học và dịch tễ học của các sợi khoáng này. Việc sử dụng cái
tên phổ biến amiang cho cả hai loại sợi còn che đậy sự khác nhau quan trọng
giữa serpentine và amphibole. Thêm vào đó, một vài phương pháp xác định
tính chất sợi ban đầu còn thô sơ, trong đó độ dài và rộng của sợi nhìn chung
không được đề cập, kể cả khi loại sợi được báo cáo.
Chrysotile lần đầu được mô tả bởi von Kobell (1834). Cái tên chrysotile bắt
nguồn từ việc kết hợp hai từ Hy Lạp mang nghĩa “vàng” và “sợi”. von Kobell
mô tả rằng chrysotile được phân biệt [với sợi amphibole] bởi tính chất bị
phân hủy do axit. Cấu trúc vòng của Mg-analog của kaolinite được đưa ra bởi
Pauling (1930) do sự không khít của các tấm khối tám mặt và khối bốn mặt.
Cấu trúc tinh thể của amiang chrysotile lần đầu được xác định bởi Warren &
Bragg (1930). Sau đó, Noll & Kircher (1951) và Bates cùng cộng sự (1950) xuất
bản ảnh hiển vi điện tử cho thấy sợi chrysotile hình trụ và rỗng. Chrysotile là
một trong 3 dạng serpentine (antigorite, lizardite và chrysotile) được cho là
kết quả của các kết cấu khác nhau làm giảm sức căng khi hình thành (Evans,

2004; Veblen & Wylie, 1993; Wicks & O’Hanley, 1988).
Chrysotile có cấu trúc gần bằng Mg3Si2O5(OH)4 và là một tấm silicat gồm
các lớp silicat và bruxit. Lớp silicat là một khối bốn mặt trong mạng lưới gần
giống hình lục giác. Gắn với nó là một tấm khối tám mặt magie hidroxit,
trong đó ở một mặt, hai trên mỗi 3 hyđroxil được thay thế bằng oxy đỉnh của
khối bốn mặt silicat (Cressey & Whittaker, 1993). Kích thước khác nhau của 2
thành phần này gây ra sự không khít về cấu trúc khiến các lớp bị xoắn, hướng
tâm hoặc li tâm. Tường sợi được làm bằng xấp xỉ 12-20 lớp như vậy trong đó
có một ít sự bắt ngàm cơ học. Tuy nhiên, không có kết nối hóa học giữa các
lớp. Mỗi lớp dày khoảng 7,3 Å, với phần magie hidroxit của mỗi lớp nằm gần
bề mặt sợi nhất và khối bốn mặt ôxy silic nằm “trong” vòng xoắn (Whittaker,
1963, 1957; Tanji, 1985. Titulaer và cộng sự (1993, Bảng 2) báo cáo về cấu trúc
có nhiều lỗ rỗng của chrysotile qua kính hiển vi điện tử truyền dẫn (TEM).

37 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


Dựa trên một số mẫu, các tác giả xác định rằng độ dày của tường chrysotile
dao động từ 8 đến 15nm, với 11 đến 21 tấm ở mỗi tường ống.

Các sợi bị đào thải ở thang cuốn nhầy-mao được chuyển đến ruột nơi chúng
bị tấn công bởi môi trường axit còn mạnh hơn (axit hydrochloric, pH 1,2, Oze
& Solt (2010)).

Cấu trúc của chrystile được trình bày trong Hình 1 (như một tấm cuộn mặc
dù cũng có cả những tấm đồng tâm). Các hình trụ là các tiểu sợi chrysotile
bó lại thành sợi chrysotile. Magie ở mặt ngoài của cuộn và, như mô tả ở dưới,
lớp này dễ tan trong môi trường sinh học. Magie dễ dàng bị tấn công do
môi trường axit trong đại thực bào (pH 4 - 4,5), và tách khỏi cấu trúc tinh thể,
khiến tấm silicate trở nên thiếu bền vững. Quá trình này làm tấm cuộn của

sợi chrysotile vỡ ra thành các mảnh nhỏ. Những mảnh này dễ dàng bị đào
thải khỏi phổi bởi đại thực bào qua cơ chế loại bỏ bạch huyết và chất bẩn.

Ngược lại, sợi amphibole là các sợi đặc (Skinner và cộng sự, 1988; Whittaker,
1960). Cấu trúc của một amphibole là chuỗi đôi của khối bốn mặt silicat
với silicat ở bên ngoài sợi, khiến chúng rất mạnh và bền (Hình 2). Có năm
loại amphibole: anthophyllite, grunerite (amosite), riebeckite (crocidolite),
tremolite và actinolite. Trong đó, crocidolite và amosite là hai loại amphibole
duy nhất có tính ứng dụng quan trọng trong công nghiệp (Virta, 2002).
Tremolite, trong khi không được sử dụng trong thương mại, được tìm thấy
dưới dạng chất gây ô nhiễm ở các sợi khác hoặc các sợi khoáng công nghiệp
khác (ví dụ chrysotile và talc). Thành phần hóa học của sợi amphibole phức
tạp hơn và công thức hóa học lý tưởng hóa của năm loại amphibole được
tình bày dưới đây. Mặc dù các cấu trúc của chúng giống nhau, sự đa dạng
về cấu trúc này là một kết quả trực tiếp của thực tế rằng khung silicat có thể
chứa một hỗn hợp nhiều ion (như xác định bởi đá mẹ) trong không gian giữa
các dải silicate hình thành nên sợi (Speil & Leinewweber, 1969).
Crocidolite
Amosite
Tremolite
Anthophyllite
Actinolite

Hình 1: Mô tả sợi chrysotile dưới dạng giản đồ.
Chrysotile là một tấm cuộn hoặc vòng silicate
tập trung với magie ở bên ngoài tấm và silic bên
trong. Sợi chrysotile tan trong axit. Chrysotile
có công thức Mg3Si2O5(OH)4. Sợi bao gồm các
lớp hydroxit magie tích tụ lại ở tetrahedra ôxy
silicon. Các tường sợi làm từ 11 đến 21 lớp như

vậy, ở đó có một vài khóa chéo cơ. Tuy nhiên
không có bất cứ liên kết hóa học nào như vậy
giữa các lớp. Mỗi lớp dày khoảng 7,3 Å. Phần
Mg (OH)2 của các lớp phân tử là gần nhất với
bề mặt sợi; tetrahedra oxy silicon nằm ở bên
trong. Dưới các điều kiện acid của đại thực bào,
cấu trúc sợi bị yếu đi và các sợi dài vỡ ra thành
những phần nhỏ có thể bị đào thải khỏi phổi.

Cấu trúc tinh thể thường thấy ở khoáng vật amphibole gồm hai dải khối bốn
mặt silicat được đặt lưng đối lưng (Virta, 2002).
Do cấu trúc ma trận của sợi amphibole, chúng hầu như không tan ở bất kỳ
độ PH nào có thể diễn ra trong một cơ thể sống (Speil & Leineweber, 1969).
Một số kim loại làm ô nhiễm bề mặt liên quan như sắt có thể ion hoá và sau
đó phát tán khỏi sợi (Aust và cộng sự, 2011).

IN-VITRO
BIODURABILITY

38 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

(Na2 Fe32+ Fe23+) Si8 O22 (OH)2
(Fe2+,Mg)7 Si8 O22 (OH)2
Ca2 Mg5 Si8 O22 (OH)2
(Mg,Fe2+)7 Si8 O22 (OH)2
Ca2 (Mg,Fe2+)5 Si8 O22(OH)2

Phần magie hidroxit của mỗi lớp nằm gần bề mặt sợi nhất được phản ánh
trong đặc điểm hóa học của chrysotile kém bền với axit so với các chất
dạng amiang khác. Ví dụ amphibole có ôxy silicat nằm “bên ngoài” các lớp

và hidroxit ngụy trang bên trong, khiến chúng bền hơn với axit. Hargreaves
& Taylor (1946) báo cáo rằng nếu sợi chrysotile được xử lý bằng axit loãng,
magie có thể bị loại bỏ hoàn toàn. Silic hydrat còn lại, mặc dù ở dạng sợi,
nhưng đã mất hoàn toàn tính đàn hồi của sợi chrysotile ban đầu và có cấu
trúc “không xác định” hoặc “giống thủy tinh”. Wypych cộng sự (2005) đã kiểm
tra điều gì xảy ra với sợi chrysotile tự nhiên khi ngâm chiết axit trong điều

39 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


kiện có kiểm soát. Các tác giả báo cáo rằng các sản phẩm được ngâm chiết
gồm silic hỗn độn hiđrat hóa xếp lớp với một cấu trúc bị bóp méo giống với
lớp silicat tồn tại trong sợi khoáng nguyên bản. Các kỹ thuật xác định tính
chất tăng cường xác nhận sự đào thải các tấm giống brucit, để lại silic có
cấu trúc không xác định một cách rõ ràng. Suquet (1989) báo cáo đánh giá
sự phá hủy cấu trúc của chrysotile gây ra bởi xay nghiền hoặc ngâm chiết
axit. Tác giả báo cáo rằng “Ngâm chiết axit làm biến đổi chrysotile thành silic
hiđrat hóa không còn tính tinh thể, rỗng, dễ dàng vỡ thành các đoạn ngắn.
Nếu axit tấn công quá mạnh mẽ, những đoạn này biến thành vật liệu không
có hình thù”.
Seshan (1983) báo cáo rằng sau khi tiếp xúc với nước, axit mạnh và dịch dạ
dày mô phỏng, amiang chrysotile trải qua các biến đổi thành phần vật lý,
hóa học và bề mặt. Các tác giả cho biết bề mặt trở nên giống silic và do
phơi nhiễm với nước và axit, magie biến mất khỏi sợi. Các tác giả cũng chỉ ra
khi tiếp xúc với axit, ion magie thoát ra, để lại một mạng lưới silic không có
magie. Thêm vào đó, xử lý axit cũng phá hủy hình nhiễu xạ tia X của chrysotile
và làm thay đổi chỉ số khúc xạ của nó. Ngược lại, crocidolite lại không biến
đổi gì.
Larsen (1989) đánh giá các loại sợi tự nhiên và nhân tạo khác nhau bằng cách
nghiên cứu tính tan hệ thống trong ống nghiệm ở dung dịch sinh lý 37°C.

Trong đánh giá này có chrysotile và crocidolite. Tính tan được đánh giá bằng
việc đo silic trong dung dịch Gamble có thành phần tương tự dung dịch phổi
(không có các thành phần hữu cơ) sử dụng quang phổ kế hấp thu nguyên

Hình 2: Với amphibole, ion dương được thấy là
những vòng nhỏ nằm giữa các sợi được hình
thành từ silicate lưới đôi. Khi ion tan xảy ra
trong phổi, sợi amphibole trong những bó này
giải phóng ra thành các sợi đơn. Bản thân sợi
amphibole silicate lưới đôi là không tan trong
cả dung dịch phổi lẫn đại thực bào.

40 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

tử. Các tác giả chỉ ra rằng các giá trị không tan dao động từ vài nanogram silic
tan trên cm2 (chrysotile và crocidolite) đến nhiều nghìn ng/cm2 silic tan (sợi
thủy tinh) và sợi aramid và sợi cacbon được chứng minh là không tan. Với
chrysotile, các tác giả báo cáo rằng sau thí nghiệm bàn lắc kéo dài 6 tuần (hệ
thống kín) rằng 6ng/cm2 silic và 160 ng/cm2 magie đã tan.
Oze & Solt (2010) điều tra tính bền sinh học của chrysotile và tremolite trong
phổi và dịch dạ dày mô phỏng. Dịch dạ dày mô phỏng (SGF) gồm dung dịch
HCl và NaCl ở pH 1,2 và dịch phổi mô phỏng (SLF) là dung dịch Gamble được
điều chỉnh ở pH 7,4 ở 37°C. Các nghiên cứu được làm theo mẻ sử dụng 0,01,
0,1 và 1g sợi nền trong lọ 50ml trong 720 giờ trong các điều tĩnh. Không có
nghi ngờ gì về ảnh hưởng của số lượng lớn sợi như thế khi tiếp xúc dung dịch
và sự lắng tụ theo thời gian. Tính bền sinh học tương đối được xác định dưới
các điều kiện này là (từ cao nhất đến thấp nhất): tremolite (SLF)> chrysotile
(SLF) > tremolite (SGF)> chrysotile (SGF) khi xét đến diễn tích bề mặt lớn hơn
của chrysotile trên không lượng hoặc trên sợi so với tremolite. Silicat được
giải phóng từ chrysotile nhiều hơn gấp 30 - 66 lần trong điều kiện axit so với

pH trung tính. Các tác giả ước tính một sợi chrysotile sẽ tan nhanh hớn xấp xỉ
200 lần trong SLF và xấp xỉ 2,5 lần trong SGF so với tremolite. Các tác giả tính
toán được rằng một sợi amiang 1 x 10 μm sẽ tan hoàn toàn trong pH trung
tính trong vòng xấp xỉ 19 tháng trong khi 1 sợi tremolite có kích cỡ tương
đương tan trong 4 năm. Ở pH axit, một sợi chrysotile có kích thước tương tự
sẽ tan trong vòng xáp xỉ 33 giờ và 1 sợi tremolite tan trong xấp xỉ 9 tháng. Các
tác giả chỉ ra rằng những giá trị này dại diện cho ước tính các vòng đời sợi và
chưa xét đến những thay đổi trên diện tích bề mặt theo thời gian, hoặc các
điểm dễ tan hơn như chỗ khuyết tinh thể hoặc cạnh. Thêm vào đó, thời gian
này chưa tính đến quy trình viêm trong phổi được quan sát với tremolite và
ảnh hưởng của nó lên các tỉ lệ tan.
Trong một nghiên cứu khác sử dụng dung dịch Gamble, Osmon-McLeod và
cộng sự (2011) đánh giá độ bền của một số sợi bao gồm sợi amosite dài và
chrysotile dài. Trong nghiên cứu này, pH của dung dịch Gamble được điều
chỉnh xuống 4,5 để mô phỏng không bào thực bào (phagolysosomes) trong
đại thực bào, thứ được các tác giả mô tả là “khả năng là môi trường thoái biến
nhất mà một phân tử có thể gặp khi vào phổi và hấp thu đại thực bào. Độ
bền sợi được đánh giá căn cứ vào sự sụt giảm khối lượng sợi. Chrysotile phục
hồi với xấp xỉ 30% khối lượng ban đầu sau 24 tuần ủ. Amiang amosite phục
hồi 75% khối lượng ban đầu. Không có mẫu ống-nano cacbon nào trong
nghiên cứu này cho thấy sự sụt giảm khối lượng đáng kể trong 24 tuần với 1
ngoại lệ phục hồi chỉ 70% khối lượng ban đầu ở tất cả các điểm từ tuần thứ
3 trở đi. Các tác giả nhận định răng với chrysotile, phần trăm phục hồi phản
ánh khối lượng bị mất thật, tuy nhiên sự sụt giảm khối lượng ở mức thấp
của amiang amosite trong giai đoạn 24 tuần có thể được lý giải bởi sự mất

41 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


*Sợi WHO: được định nghĩa là sợi dài >5 μm, và chiều rộng hẹp hơn <3 μm và có tỷ lệ độ dài:chiều rộng

>3:1; WHO (1985)

đi của các sợi nhỏ trong mẫu. Chrysotile cho thấy không có sự khác biệt về
độ rộng sợi trung bình trong thời kỳ ủ nhưng lại thể hiện rõ sự sụt giảm về
độ dài. Tại tuần 0, mẫu chrysotile gồm hỗn hợp các sợi nhỏ và dây sợi nhỏ,
trong khi ở tuần thứ 10, chỉ còn lại các sợi nhỏ. Các tác giả bình luận rằng có
nhiều khả năng là việc ngắn đi phản ảnh chính xác hiện tượng các sợi bị thu
ngắn lại bên cạnh hiện tượng các bó sợi dài bị gãy. Khả năng gây bệnh của
những mẫu này cũng được đánh giá trong ống nghiệm bằng mô hình chuột
nhạy cảm với các ảnh hưởng viêm nhiễm của sợi. Osmon-McLeod và cộng
sự (2011) phát hiện ra rằng dữ liệu cho thấy sợi chrysotile dài mất 70% khối
lượng và sự sụt giảm rõ rệt về chiều dài với thời gian ủ dài trong dung dịch
Gamble, với việc giảm thiểu mức độ gây bệnh diễn ra đồng thời được quan
sát ở chuột được tiêm với mẫu thuộc tuần 0. Tuy nhiên, sợi amosite dài được
ủ trong 10 tuần cũng cho thấy sự sụt giảm về khối lượng khá giống với một
trong số ống-nano cacbon dài nằm trong cùng một điểm, nhưng không có
hiện tượng sợi bị thu ngắn lại, và chúng không mất đi khả năng gây bệnh.
Những nghiên cứu này minh hoạ sự khác biệt về tỷ lệ tan giữa chrysotile và
amiang amphibole trong môi trường trung tính và mối trường axit và giúp
chúng ta hiểu hơn kết quả của các nghiên cứu hít phải được bàn đến ở dưới.

Ý NGHĨA CỦA
CÁC NGHIÊN
CỨU ĐỘC HỌC
HÍT PHẢI ĐẦU
TIÊN

Các nghiên cứu độc học hít phải đầu tiên trên amiang thường khó hiểu. Mặc
dù những nghiên cứu này sử dụng phương pháp cũ kỹ để lượng quá nồng
độ và thông thường không đo được kích cỡ của sợi, chúng ta không nên bỏ

qua hoàn toàn những nghiên cứu này vì trong đó có thông tin, mặc dù hạn
chế, về phơi nhiễm ở công nhân có thể đã diễn ra. Nồng đồ phơi nhiễm được
xác định bằng kỹ thuật phân tích trọng lượng mà không xét đến số lượng sợi
hay độ dài và đường kính của sợi, và phân bố độ dài và đường kính của các
sợi động vật hít phải cũng hầu như không được xét đến. Để hoá lỏng các sợi
nhằm phục vụ cho việc tạo ra sol khí, các sợi thường được nghiền kỹ, điều đã
làm ngắn bớt và tạo ra một số lượng lớn hạt và sợi ngắn (Timbrell và cộng
sự, 1968).
Trong các nghiên cứu hít phải đầu tiên, ví dụ như của Vorwald và cộng sự
(1951), nồng độ bụi sợi trong phòng phơi nhiễm được tạo ra bằng cách xoay
mái chèo trong phễu bụi. Nồng đọ sol khí được báo cáo dựa trên kính hiển vị
nhẹ trong phạm vi 30 – 50 triệu hạt và sợi trên đơn vị ft3 – tương đương với
khoảng 500.000 hạt và sợi/cm3 nếu đo bằng TEM (Breysse và cộng sự, 1989).
Các nghiên cứu tiếp đó như của Gross và cộng sự (1967) ước tính phơi nhiễm
dựa trên nồng độ theo phân tích trọng lượng và báo cáo nồng độ trung bình
theo phân tích trọng lượng là 86mg/m3 (phạm vi 42-146mg/m3). Không có
thêm đặc điểm sol khí nào nữa được mô tả trong nghiên cứu này. Tiếp sau

42 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

đó, Wagner và cộng sự (1974) báo cáo về các nghiên cứu của chrysotile UICC
Canada và Rhodes được thử nghiệm với nồng độ 10mg/m3. Nồng độ theo
phân tích trọng lượng 10mg/m3 này trở thành nồng độ tiêu chuẩn cho các
nghiên cứu sau này của Wagner và các nhà nghiên cứu khác trong những
năm 1980, và một số nhà nghiên cứu gần đây tiếp tục báo cáo về các nghiên
cứu sử dụng nồng độ phơi nhiễm này.
Các nghiên cứu hít phải mãn tính với chrysotile lịch sử được trình bày trong
Bảng A1 (Phụ lục). Nồng độ phơi nhiễm trong tất cả các nghiên cứu đều được
xác định bằng phương pháp phân tích khối lượng. Trong số 16 nghiên cứu,
sáu không báo cáo về nồng độ sợi, tám báo cáo ước tính theo kính hiển vi

quan học tương phản pha (PCOM) và ba bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM).
Hai mẫu chrysotile hay được sử dụng nhất trong những nghiên cứu này được
lấy từ chrysotile UICC (Timbrell và cộng sự, 1968; Timbrell & Rendall, 1972)
hoặc chrysotile NIEHS (Pinkerton và cộng sự, 1983). Cả hai mẫu đều được
nghiền kỹ bằng những máy nghiền lớn.
Mẫu chrysotile UICC được nghiền bằng “Máy Nghiền Kinh (The Classic
Mill) điển được thiết kế bởi R. F. Bourne tại Công ty The Asbestos Grading
Equipment, Johannesburg, Nam Phi” (Timbrell và cộng sự, 1968). Timbrell
& Rendall (1972) mô tả “Máy Nghiền Kinh điển là một lại máy nghiền quét
không khí được lắp thêm địa rôto (đường kính 16 inch) với bốn đòn đập và
được lắp vào càng ngang chạy bằng động cơ điện với tốc độ lên tới 5.000
rpm”. Bằng sáng chế (số GB 3.490.704) trên máy nghiền trình bày thông tin
chi tiết hơn.
Đặc điểm của chrysotile NIEHS có thể được tìm thấy ở quyển của Pinkerton
và cộng sự (1983). Họ đề cập đến báo cáo NTIS của Campbell và cộng sự
(1980) về quá trình lấy tiêu bản mẫu. Chrysotile NIEHS được lấy tiêu bản từ
chrysotile loại 4 được sử dụng trong công nghiệp nhựa và được lấy tiêu bản
bằng cách cho chạy vật liệu qua máy nghiền mịn (hurricane pulverizer). Máy
nghiền mịn là một máy nghiền búa tác động ở tốc độ cao với chế độ xác định
kích cỡ có thể tái sử dụng các sợi/hạt lớn để tiếp tục nghiền (Perry & Chilton,
1973; Work, 1963).
Suquet (1989) đánh giá thiệt hại về cấu trúc của chrysotile do nghiền và chiết
axit và tình trạng bề mặt của sản phẩm được nghiền và chiết. Tác giả báo cáo
rằng “Nghiền kỹ và khô đã chuyển đổi sợi chrysotile thành các mảnh được
gắn chặt bởi nguyên liệu không hình thù và không kết tinh”. Cách nghiền này
rõ ràng đã làm vỡ liên kết nguyên tử và sản sinh ra các điểm phản ứng mạnh
mẽ có khả năng hút bám phân tử CO2 và H2O từ khí quyển.
Số lượng sợi có mặt trong sol khí chrysotile có nồng độ theo phân tích trọng

43 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp



lượng 10mg/m3 được ước tính dựa trên nghiên cứu hít phải mãn tính sử
dụng chrysotile NIEHS (Hesterberg và cộng sự, 1993; Mast và cộng sự, 1995).
Trong nghiên cứu này, tổng phơi nhiễm sợi sol khí được báo cáo bởi SEM là
100.000 sợi WHO /cm3(Tổ chức Y tế Thế giới). Nếu đo bằng TEM, con số này
nhiều khả năng sẽ là nhiều hơn 1.000.000 sợi/cm3 (Breysse và cộng sự, 1989).
Phơi nhiễm ở chuột với nồng độ sol khí cao của sợi tạo ra biên dạng liều
lượng khác hẳn trong phổi so với phơi nhiễm ở người. Chuột nhỏ hơn nhiều
so với người và do đó phổi của chuột nhỏ hơn phổi người gấp hơn 300 lần.
Trong khi chuột hít lượng không khí theo tỷ lệ trên phút thấp hợp, các liều
lượng được sử dụng trong một số nghiên cứu độc học có thể dẫn đến gánh
nặng phi thực tế lên phổi của sợi so với phơi nhiễm ở người. Ngoài ra, đổi
với chuột – sinh vật bắt buộc phải thở bằng mũi, sợi lắng trong túi phổi chủ
yếu là sợi có đường kính dưới ~1 μm, trong khi ở người, giới hạn là khoảng 3
μm (Morgan, 1995). Tuy nhiên, đối với đa số loại sợi amiang, sự khác biệt này
không quan trọng như với MMVF. Tổng gánh nặng lên phổi do chrysotile sau
24 tháng phơi nhiễm trong nghiên cứu của Mast và cộng sự (1995) là 5,5 x
1010 sợi/phổi khi đo bằng SEM (Bernstein, 2007). Khi ngoại suy kết quả này
để ước tính con số đo được bằng TEM, gánh nặng lên phổi sẽ là 9,4 x 1011
sợi/phổi. Con số này tương đướng với trung bình 2.300 sợi trên túi phổi (với
giả định 10% lắng xuống).
Nồng độ tiếp xúc theo phân tích khối lượng dao động từ 2 đến 86 mg/m3,
tương đương với khoảng 200.000 đến 8.600.000 sợi/cm3 theo cách ngoại
suy mô tả ở trên (Breysse cộng sự, 1989; Mast cộng sự, 1995). Đại đa số các
nghiên cứu ban đầu này xét mức 10mg/m3. Một nghiên cứu duy nhất được
thực hiện với nồng độ thấp nhất là 2mg/m3 được so sánh với nhóm có nồng
độ 10mg/m3. Trong nghiên cứu này, các tác giả báo cáo “Với nồng độ 2mg/
m3, tỷ lệ phần trăm chrysotile được giữ lại gần như gấp đôi tỷ lệ với nồng độ
10mg/m3”; điều này phản ánh khó khăn trong việc đánh giá phản ứng với

liệu trong các điều kiện quá tải này.
Điều này được mô tả trong nghiên cứu của Wagner và cộng sự (1974) có năm
giai đoạn phơi nhiễm có cùng nồng độ phơi nhiễm là 10mg/m3. Giai đoạn
phơi nhiễm (7h/ngày, 5 tuần) gồm 1 ngày, 3, 6, 12, và 24 tháng với động vật
được giữ được sự sống. Trong nhóm phơi nhiễm với crocidolite, số trường
hợp ung thư trung biểu mô là 1 (nhóm 1 ngày), 1 (nhóm 3 tháng), 0 (nhóm 6
tháng), 2 (nhóm 12 tháng) và 0 (nhóm 24 tháng). Như vậy, phơi nhiễm trong
1 ngày tạp ra nhiều trường hợp ung thư trung biểu mô hơn phơi nhiễm 24
tháng rất có thể do ảnh hưởng của nồng độ cao của phơi nhiễm, dẫn đến
phơi nhiễm tiếp tục trong phổi bị quá tải.
Nồng độ phơi nhiễm amiang 10 mg/m3 tương đương với gấp hơn10 triệu
lần giá trị giới hạn (TLV) của Hội nghị Hoa Kỳ của các nhà Vệ sinh Công nghiệp

44 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

(ACGIH) là 0,1 sợi/cm3.
Phân phối kích cỡ sợi và tỷ lệ giữa sợi dài và sợi ngắn và chất hạt không có
thớ là điều thiết yếu để có thể xác định mối quan hệ liều lượng – phản ứng
của những sợi này. Như vậy, rất khó có thể sử dụng những nghiên cứu này để
đánh giá rủi ro với con người hoặc thậm chí so sáh kết quả của nghiên cứu
này với nghiên cứu khác.
Vấn đề sử dụng số lượng sợi tương đương cho phơi nhiễm được tiếp cận
trong nghiên cứu được báo cáo bởi Davis và cộng sự (1978), trong đó
chrysotile, crocidolite và amosite được so sánh trên cơ sở khối lượng và số
lượng giống nhau. Tuy nhiên, số lượng sợi được xác định bằng kính hiển vi
quan học tương phản pha (PCOM) và như vậy số lượng thực tế, đặc biệt của
sợi chrysotile, rất có thể cao hơn rất nhiều.
Ở nồng độ phơi nhiễm cao như vậy, việc số lượng hạt và sợi ngắn có trong
phơi nhiễm đủ đề làm quá tải phổi thông qua việc làm suy yếu chức năng của
đại thực bào là điều dễ hiểu. Tình trạng này đã xảy ra trong các nghiên cứu

trước đây về chrysotile được nghiền với liều lượng cao theo phân tích khối
lượng và đủ dựa trên các nghiên cứu trên hạt không tan (Bolton cộng sự,
1983; Morrow, 1988, 1992; Muhle cộng sự, 1988; Oberdo¨rster, 1995) để giảm
nghiêm trọng sự đào thải bình thường của sợi chrysotile ra khỏi phổi và tạo
ra phản ứng viêm và sinh sôi không cụ thể được chứng minh là dẫn dắt bụi vô
hại đến xơ hoá và ung thư. Phần tiếp theo thảo luận về các nghiên cứu [trên
nồng độ phơi nhiễm] ở mức cao hơn gấp mấy lần so với mức quy định nhưng
không đạt đến mức cực đoan như đã đề cập ở trên.

SỰ
TƯƠNG QUAN
GIỮA CHIỀU DÀI
SỢI VÀ ĐỘ BỀN
SINH HỌC VỚI
ĐỘC TÍNH MẠN
TÍNH

Mối liên hệ giữa sợi dài (20 – 50 μm) với bệnh về phổi và màng bụng, thay vì
các sợi ngắn, tròn được nghiền (3 μm hoặc nhỏ hơn) được báo cáo đầu tiên
năm 1951 (Vorwald cộng sự, 1951).
Tầm quan trọng của độ dài sợi trong khả năng gây bệnh của sợi trong
khoang màng phổi được điều tra bởi Stanton (1972, 1973) trong một chuỗi
các nghiên cứu về mối quan hệ giữa độ dài của sợi và đặc điểm gây bệnh của
chúng với bề mặt màng phổi. Các sợi được đánh giá qua việc sử dụng phơi
nhiễm nhân tậo bằng cách cấy vào gelatin và đặt chúng lên bề mặt trung
biểu mô màng phổi. Các tác giả báo cáo rằng trong hệ thống này, khả năng
gây ung thư liên quan đến các sợi “bền”, dài hơn 10 μm.
Davis và cộng sự (1986) đánh giá phản ứng độc học trong hít phải mãn tính
và các nghiên cứu tiêm phúc mạc với mẫu sợi amosite ngắn (~<5 μm) hoặc
dài (X>10 μm) có nồng độ khối lượng trong không khí như nhau. Các tác giả

báo cáo rằng trong nghiên cứu hít phải với LFA, sợi dài tạo ra sự phát triển

45 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


rộng rãi của xơ hoá màng phổi và một phần ba số con vật phát triển các khối
u màng phổi, tức ung thư trung biểu mô. Trong nhóm với sợi amosite ngắn,
không có xơ hoá hay u màng phổi hoặc u trung biểu mô nào được tìm thấy
trong bất kỳ con vật nào.

Bảng 1: Những khả năng và những hạn chế của các kỹ thuật phân tích
được sử dụng để đo amiang (tái sản xuất từ Berman&Crump, 2003)*

Poland và cộng sự (2008) báo cáo về một nghiên cứu trong đó ống nano
cacbon được so sánh với sợi amiang amosite ngắn và dài sau khi tiêm phúc
mạc. Các mẫu amosite được lấy tiêu bản bởi Davis và cộng sự (1986) để sử
dụng trong các nghiên cứu được đề cập ở trên. 50 mg của mỗi nguyên liệu
được tiêm vào khoang màng bụng của chuột và khoang đã rửa có hệ thống
tại 24h hoặc 7d sau khi phơi nhiễm với nước muối sinh lý. Sợi amosite dài đã
phát triển những thay đổi viêm nhiễm và u hạt trong khi sợi amosite ngắn
thì không.
Trong một nghiên cứu điều tra độ bền sinh học của sợi khoáng tổng hợp
(SMFs), Hammad và cộng sự (1988) tìm ra rằng các sợi ngắn hơn 5 μm có sự
duy trì dài nhất theo sự hít phải ngắn hạn, với các sợi dài hơn đào thải nhanh
chóng hơn và các sợi dài hơn 30μm đào thải rất nhanh. Ông đề xuất rằng việc
đào thải các sợi khoáng là kết quả của đào thải sinh học và việc loại bỏ sợi
bằng cách hòa tan và sau đó làm vỡ. Tuy nhiên, không có mối quan hệ giữa
những hiện tượng này với các ảnh hưởng độc học dài hạn.
Adamson (1993, 1994) gây phơi nhiễm cho chuột với sợi amiang crocidolite
dài và ngắn và tìm ra rằng các sợi dài hơn 20μm, lắng lại trong phế quản gây

ra xơ hóa và một phản ứng tăng sinh trong khi các sợi ngắn hơn 1μm tới phế
nang không gây ra xơ hóa và phản ứng tăng sinh.
Lippmann (1990), McClellan và cộng sự (1992), WHO (1988), và Goodglick &
Kane (1990) cũng xem xét tầm quan trọng của độ dài sợi đối với khả năng
gây ra ảnh hưởng bệnh tật.
Trong một phân tích cung cấp cơ sở cho chỉ đạo của Ủy ban Châu Âu về sợi
thủy tinh tổng hợp (SVF), Bernstein và cộng sự (2001 a,b) báo cáo rằng có
một mối tương quan giữa độ bền sinh học của sợi SVF dài hơn 20μm và ảnh
hưởng bệnh tật theo cả hít phải mãn tính và các nghiên cứu chích màng
bụng. Phân tích này cho thấy có thể sử dụng thời gian bán phân hủy của các
sợi dài hơn 20μm thu được từ các nghiên cứu tính bền sinh học hít phải để
dự đoán số lượng sợi dài hơn 20μm ở lại sau 24 tháng phơi nhiễm hít phải
mãn tính (Bernstein và cộng sự, 2007). Những nghiên cứu này, tuy nhiên, chỉ
bao gồm SVF.

46 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

* Các khả năng và sự hạn chế trong bảng này cơ bản dựa trên các giới hạn vật lý của nhưng phương tiện chỉ báo. Sự khác biệt có thể quy cho các cách
thức kết hợp với việc thực hiện các phương thức trong việc sử dụng thường thấy trong ít nhất 25 năm được nhấn mạnh trong bảng 2
** Các cấu trúc dạng sợi xác định được ở đây như những hạt cho thấy cỡ ảnh(tỷ số chiều dài với chiều rộng) lớn hơn 3 (Waton, 1982)
*** TEM đếm một cách thường xuyên các cấu trúc dạng sợi đơn lẻ bị tách rời ra trong những cấu trúc lớn hơn và phức tạp. Dựa trên cấu trúc bên trong,
Nhiều quy luật năng lượng khác nhau đã được phát triển để xử lý các cấu trúc phức tạp. Xem phần thảo luận phương thức được trình bày ở dưới.
**** Phần lớn các thiết bị SEM và TEM được trang bị với khả năng thu lại phổ nhiễu xạ điện tử diện tích lựa chọn (SAED) và thực hiện phân tích
X-quang tác sắc năng lượng (EDXA), được sử dụng để phân biệt khoáng học của các cấu trúc được quan sát.

Berman và cộng sự (1995) phân tích thống kê các kết quả của 13 nghiên cứu
hít phải riêng rẽ ở động vật, là những con vật phơi nhiễm với 9 loại amiang
khác nhau. Do sự hạn chế về đặc tính cấu trúc amiang trong các nghiên cứu
ban đầu, cách đo phơi nhiễm mới được phát triển từ mẫu của các bụi gốc,
được phân loại lại và phân tích bởi TEM. Các tác giả báo cáo rằng trong khi

không có mô hình một biến số nào được tìm thấy có thể mô tả đầy đủ phản
ứng u phổi trong các nghiên cứu hít phải, phép đo có tương quan cao nhất
với khả năng bị u là nồng độ của cấu trúc (sợi) dài ≥ 20μm. Tuy nhiên, sử dụng
các kỹ thuật đa biến, các cách đo phơi nhiễm được xác định, mô tả đầy đủ
phản ứng u phổi. Các tác giả báo cáo rằng các cấu trúc được coi là mang rủi
ro u phổi là các sợi và bó sợi (≥ 5μm) mỏng (0,4μm), và có thể với sự góp sức
= của các bó và ma trận dài và rất dày (≥ 5μm). Khả năng gây bệnh tăng lên
cùng với sự tăng lên của độ dài, với các cấu trúc dài hơn 40μm có khả năng
gây bệnh cao hơn 500 lần so với cấu trúc dài 5 - 40μm. Các cấu trúc ngắn hơn
5μm không có sự đóng góp nào trong rủi ro u phổi.

47 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


Phân tích này không tìm ra sự khác biệt về khả năng gây bệnh của chrysotile
và amphibole xét theo tiêu chí gây ra u phổi. Tuy nhiên, các tác giả nhận định
rằng yếu tố khoáng vật học quan trọng trong gây ra ung thư trung biểu mô,
và chrysotile có khả năng gây bệnh thấp hơn amphibole. Các kết quả này,
tuy nhiên, nên được xem xét cùng với các nghiên cứu độc học hít phải được
đánh giá bởi Berman và cộng sự (1995, Bảng 1), phần lớn chúng được thực
hiện với nồng độ rất cao (10mg/m3), Như đã thảo luận ở trên, ảnh hưởng
quá tải do nồng độ phơi nhiễm rất cao với chrysotile và amphibole có thể
được ước tính là gây ra phản ứng u tương tự nhau trong phổi.
Các nghiên cứu gần đây với amiang serpentine, chrysotile, cho thấy rằng
nó không mấy bền sinh học trong phổi (Bernstein và cộng sự, 2003, 2004,
2005a,b, 2011). Vì serpentine và một sợi khai thác tự nhiên, chúng có sự khác
biệt về tính bền sinh học, tuỳ thuộc vào nơi khai thác. Tuy nhiên, chrysotile
nằm ở mức tan cuối cùng trong thang này và dao động từ sợi ít bền nhất dến
sợi bền như thủy tinh hoặc sợi đá. Nó ít bền hơn sợi gốm chịu nhiệt và thủy
tinh đặc biệt và độ dài ít bền hơn một đơn vị amiang amphibole (Berstein,

2007). Một nghiên cứu tính độc hít phải cận mãn tính 90 ngày với chrysotile
ở chuột cho thấy ở nồng độ phơi nhiễm lớn gấp 5.000 lần US-ACGIH TLV là
0,1 sợi (WHO)/cm3, chrysotile không gây ra các bệnh tật nghiêm trọng hoặc
các viêm nhiễm kéo dài (Bernstein và cộng sự, 2006).
Một vài nghiên cứu trước đã cho thấy chrysotile đào thải chậm hơn trong các
nghiên cứu sử dụng giao thức EC. Một ví dụ là nghiên cứu của Coin và cộng
sự (1992) trong đó chuột phơi nhiễm trong 3 giờ với 10mg(hít phải)/m3 sol
khí chrysotile NIEHS và sau đó được theo dõi trong 29 ngày. Các tác giả báo
cáo rằng qua 3 tuần sau khi ngừng phơi nhiễm, các sợi dài hơn 16μm bị đào
thải chậm, hoặc không đảo thải.
Trong khi đã đưa ra mô tả ngắn gọn, các chi tiết của phơi nhiễm sol khí với
chrysotile NIEHS được sử dụng trong nghiên cứu của Coin và cộng sự (1992)
không được mô tả trực tiếp trong tài liệu. Tuy nhiên, các đặc tính của sol khí
phơi nhiẽm và các phương pháp lấy tiêu bản có thể bắt nguồn từ một tài liệu
trước đó của Pinkerton và cộng sự (1983) được Coin tham khảo và một báo
cáo chưa được ban hành của Campbell và cộng sự (1980) được Pinkerton và
cộng sự tham khảo.
Những tài liệu này mô tả rằng chrysotile được sử dụng bởi Coin và cộng sự
(1992) được lấy tiêu bản từ chrysotile cấp 4 được dùng trong công nghiệp
nhựa bằng việc đưa vật liệu qua máy nghiền gió xoáy. Máy nghiền gió xoáy là
một máy xay búa công nghiệp tốc độ cao với bộ xếp cỡ đưa những sợi/đoạn
lớn lại thiết bị để xay lại (Perry & Chilton, 1973; Work, 1962).

48 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp

Sol khí sử dụng trong nghiên cứu của Coin và cộng sự (1992) được tạo ra từ
vật liệu được nghiền này như Pinkerton và cộng sự (1983) mô tả bằng việc
sử dụng máy phát Timbrell (Timbrell, 1968). Lưỡi thép không gỉ của máy phát
là để nghiền kỹ hơn mẫu sợi. Trong khi mẫu chrysotile gốc có 13,9% sợi dài
hơn 19,9μm (Cambell và cộng sự, 1980), mẫu sol khí cuối cùng được sử dụng

trong nghiên cứu của Coin và cộng sự (1992) có 1,8% sợi dài hơn 19,9μm
(Pinkerton và cộng sự, 1983). Với sợi dài ≥16μm, Coin và cộng sự chỉ trình bày
dữ liệu biểu đồ. Phép ngoại suy từ Hình 5 của Coin và cộng sự chỉ ra rằng có
lần lượt xấp xỉ 2, 2, 5 và 4 x 105 sợi dài ≥16μm (đo bằng SEM) sau khi phơi
nhiễm 1, 8, 15 và 29 ngày (không có thông tin sai số và không cso bảng giá trị
được đưa ra). Thêm vào đó, nghiên cứu của Coin và cộng sự (1992) sử dụng
một phơi nhiễm đơn lẻ và kiểm tra các nhóm nhỏ động vật trong 3 tuần. Số
lượng trung bình của các sợi được tìm thấy ở các con vật đối chứng là 7 x
105 sợi WHO/con vật và 3 x 103 sợi ≥16μm/con vật, chỉ ra sự viêm nhiễm. Tuy
nhiên, không có số lệch tiêu chuẩn nào được đưa ra, nên phạm vi viêm nhiễm
này vẫn chưa được biết đến. Coin mô tả về cách mà viêm nhiễm này xảy ra.
Trong các nghiên cứu chrysotile thực hiện theo giao thức EC, các con vật phơi
nhiễm trong 5 ngày và sau đó được theo dõi trong 1 năm. Trong các nghiên
cứu giao thức EC, không có sợi WHO (bao gồm các sợi dài hơn 20μm) được
quan sát thấy trong phổi của bất cứ con vật đối chứng nào.
Như được thảo luận ở trên, các nghiên cứu độc học ban đầu còn chưa rõ
CÁC NGHIÊN
ràng. Nồng độ được xác định bằng việc sử dụng các kỹ thuật trọng lượng
không xem xét số lượng sợi hoặc độ dài và kích thước sợi và ít xét đến liều
CỨU KHÔNG
lượng, và phân bố độ dài và đường kính các sợi mà động vật phơi nhiễm với.
QUÁ TẢI ĐÁNH
GIÁ TÍNH ĐỘC
CỦA CHRYSOTILE
khi các nghiên cứu độc học hít phải mãn tính bài bản hạn chế các ảnh
NGHIÊN CỨU TÍNH Trong
hưởng quá tải sợi SVF đã được thực hiện, ít nghiên cứu độc học hít phải mãn
tính với amiang đã được tiến hành tính đến điều này.
ĐỘC HÍT PHẢI
Davis và cộng sự (1986) báo cáo nghiên cứu hít phải mãn tính duy nhất đánh

MÃN TÍNH

giá khả năng gây bệnh của amiang amosite ngắn và dài. Mẫu sợi amosite
ngắn được làm ra sao cho hầu hết tất cả sợi ngắn hơn 5μm với nồng độ 70
sợi WHO/cm3 có trong không khí phơi nhiễm. LFA có 2.060 sợi WHO/cm3 với
xấp xỉ một nửa số sợi dài hơn 10μm. Nồng độ khối lượng của cả 2 nhóm là

49 Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học về tác động của Amiang trắng đến sức khoẻ con người - Biện pháp quản lý phù hợp


×