H c Th - Trng ph thụng DTNT Yờn lp - Giỏo ỏn t chn NG VN 9- ch nõng cao- Nm hc2007-2008
******************************************************************************
Thi gian: 4 tiờt
Ngy dy:
Tng s hc sinh:
CH
CCH TIP CN MT BI CA DAO
A. Mục tiêu
- HS nm c cỏch tip cn ni dung v ngh thut mt bi ca dao trong chng
trỡnh.
- Vn dng vo vic phõn tớch, bỡnh ging bi ca dao ú trong chng trỡnh vn
hc.
- Giỏo dc tỡnh cm trõn trng t ho nn vn hc dõn gian.
B. Thời lợng
- Tng s tit : 5 tit
+ Tit 1: Ni dung kin thc c bn.
+ Tit 2,3, 4,5: Bi tp thc hnh ( GV cn c vo thc t phõn phi thi
gian cho phự hp vi ni dung)
C. Tài liệu tham khảo
1. Lch s vn hc vit nam
2. Sách nâng cao ngữ văn THCS.
D. Tổ chức thực hiện.
I. NI DUNG KIN THC
Ca dao l nhng sỏng tỏc tr tỡnh dõn gian truyn ming vi nhng c trng riờng
khỏc vi nhng tỏc phm tr tỡnh ca vn hc vit nờn khi tip cn ca dao chỳng ta phi
cú cỏch thc tip cn riờng.
1. Tinh thn tip cn
Khi tip cn mụt bi ca dao cn c bit lu ý ti tớnh dõn gian ca cỏc yu t ngh
thut trong ca dao. Trc ht l ngụn ng, ngụn ng ca ca dao l th ngụn ng mc mc,
bỡnh d. ai t xng hụ va xỏc nh li va phim ch to cho ca dao tớnh cht kớn ỏo, t
nh (nh i t mỡnh, ta, cụ y, anh y). Khỏc vi ngụn ng th bỏc hc, ngụn ng ca
dao ớt in tớch, d hiu. Thi gian ngh thut thng nhc n l chiu chiu, hụm qua,
ngy i, ngy v, ờm qua, sỏng ngy, hụm nao, l th thi gian phim ch, mang tớnh
in hỡnh, ỳng vi nhiu ngi trong nhiu hon cnh khỏc nhau. Khụng gian ngh thut
trong ca dao l cỏi ngừ, bờn ng, bờn sụng, b ao, u ỡnh, cỏnh ng, cỏi cu, cõy a,
bn nc, con ũ, nhng hỡnh nh rt quen thuc, thõn thit, gn bú vi ngi lao ng
nhng cng rt in hỡnh, mang tớnh khỏi quỏt, th hin tõm trng in hỡnh trong ca dao.
Khi tip cn ca dao cn phi lm rừ ting núi ca dõn gian mang tớnh cng ng ch
khụng phi ting núi nhõn dõn mang tớnh cỏ th.
2. Cỏc bc tip cn mt bi ca dao
- Tỡm h thng d bn
- Tỡm hiu h thng d bn ú, nh hng thm m cho bi ca dao
- Tỡm hiu cỏc yu t nm trong bi ca dao cn phõn tớch, chỳ ý ti tớnh dõn gian ca cỏc
yu t ú (cỏc mụ tớp, kt cu, th th, ngụn ng, thi gian ngh thut, khụng gian ngh
thut)
- Tỡm hiu cỏc yu t nm ngoi vn bn bi ca dao (mụi trng din xng, ngi din
xng)
- Xem xột mi quan h gia cỏc yu t trong v ngoi vn bn
1
Hà Đức Thụ - Trường phổ thông DTNT Yên lập - Giáo án tự chọn NGỮ VĂN 9- chủ đề nâng cao- Năm học2007-2008
******************************************************************************
- Tổng hợp đánh giá bài ca dao
II. BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Phân tích bài ca dao
Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi lúa chửa chia vè
Ngày về lúa đã vàng hoe cả đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con bồng con mang
Bài ca dao là nỗi niềm nuối tiếc của một chàng trai khi đi xa trở về thì người con
gái anh ta yêu đã đi lấy chồng.
Cấu trúc “ngày đi – ngày về” cứ lặp đi lặp lại để đối chiếu, so sánh sự biến đổi của
cảnh vật và con người qua thời gian. Trúc chưa mọc măng ngày xưa giờ đã cao bằng ngọn
tre. Lúa chưa chia vè giờ đã chín khắp cánh đồng. Âu đó cũng là quy luật tất yếu của tự
nhiên. Cảnh vật qua thời gian đều biến đổi, khác xưa, và đăc biệt là biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp hơn. Trước sự đổi thay ấy, con người cũng thay đổi. Người con gái chưa
chồng ngày nào bây giờ thành phụ nữ có chồng và có một đàn con. Đó cũng là quy luật,
quy luật của cuộc đời, bởi “đến duyên em thì em phải lấy chồng”, cũng như hoa đến thì
phải nở, đò đầy phải sang sông. Dẫu nhận thức được sự thay đổi ấy là thuận theo quy luật
nhưng chàng trai vẫn nuối tiếc. Sự muộn màng làm cho con người phải đau mãi như chàng
trai trong “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay chàng trai trong bài ca dao “Anh đến giàn hoa
thì hoa kia đã nở…”
Điều đặc biệt ở bài ca dao này là tâm trạng của nhân vật trữ tình không được miêu
tả trực tiếp mà ẩn giấu trong sự miêu tả khách quan, vui trước sư đổi thay của cảnh vật
quê hương bao nhiêu thì lại xót xa khi người mình yêu đã lấy chồng bấy nhiêu. Một dị bản
khác của câu cuối: “Ngày về em đã con dắt, con díu, con bồng, con mang”, hiện thực càng
được tô đậm và nỗi đau của con người như càng đau đớn hơn.
Bài ca dao giản dị, dễ hiểu như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân (chửa –
chưa) để nói về một nỗi buồn đời thường, nỗi buồn của sự lỡ dở trong tình duyên.
2. Phân tích bài ca dao
“Con cò mà đi ăn đêm…”:
“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
BÀI LÀM
Cánh cò trong ca dao sao đẹp thế! Màu xanh của lúa điểm trắng cánh cò sớm sớm
chiều chiều. “Con cò bay lả bay la – Bay từ cửa phủ bay ra cánh dồng…” Con cò là người
bạn thân thiết, hiền lành của nhà nông. Con cò trong ca dao là hiện thân của người dân cày
quê ta: chất páhc, siêng năng, cần mẫn, trải qua nhiều vất vả, gieo neo. Cánh cò từ hàng
ngàn năm xa xưa đã nhập vào tâm hồn tuổi thơ qua lời ru êm ái, ngọt ngào của mẹ:
“Con cò mà đi ăn đêm,
2
Hà Đức Thụ - Trường phổ thông DTNT Yên lập - Giáo án tự chọn NGỮ VĂN 9- chủ đề nâng cao- Năm học2007-2008
******************************************************************************
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
Bài ca dao mượn tiếng kêu thương của con cò lâm nạn đẻ nói lên thân phận vất vả,
bất hạnh của nhà nông, ca ngợi một tâm thế đẹp, thà chết trong còn hơn sống đục.
Câu đầu nói về một cuộc đời, về một thân phận. Câu da đọc lên nghe nhiều thương
cảm, ai oán”
“Con cò mà đi ăn đêm”
Vạc mới đi ăn đêm, chứ cò thì kiếm ăn ban ngày. Cò phải đia ăn đêm, đó là một
nghịch lý trong cuộc đời. Cuộc sống của cò nhiều lận đận, vất vả. Chữ “mà” trong câu ca
làm nổi bật cấu trúc tương phản, gợi lên nhiều xót xa cảm thương cho một đời cò! Tục
ngữ, ca dao của Vũ Ngọc Phan ghi là: “Con cò mày đi ăn đêm”.
Cần cù, chịu khó kiếm ăn tưởng sẽ được ấm no, hạnh phúc? Bầy cò con chắc sẽ
được mẹ cò tha mồi về tổ cho nhiều hơn? Cuộc đời vất vả gian truân thế, cò còn phải trải
fqua nhiều bất hạnh đắng cay, nhiều hoạn nạn đau đớn không thể nào kể xiết! Cò đã “đậu
phải cành mềm lộn cổ xuống ao”. Cò có cánh, cò bay giỏi, cò có rơi xuống ao thì vẫn bay
lên được. Hai từ “lộn cổ” nói lên tai họa cò gặp phải. Cò không thể nào thoát hiểm được
khi bị “lộn cổ xuống ao”. Tiếng cò cất lên trong đêm khuya sao mà thảm thương thế. Câu
cảm thán diễn tả tiếng kêu cứu, lời phân trần của cò:
“Ông ơi ông vớt tôi nao.
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”.
Ba từ “ông”, hai từ “tôi” được điệp lại như nốt nhấn bi thảm của bài ca. Cò mong
“ông” cứu vớt, đoái thương. “Tôi có lòng nào…” là lời phân trần: cò đi ăn đêm… nhưng
cò không phải là kẻ bất lương, mà cò hiền lành, lương thiện.
Con cò trong bài ca dao là hình ảnh ẩn dụ, là biểu tượng về người nông dân “hai
sương một nắng”. Đó là những con người hiền lành, chất phác cần cù, lam lũ, chịu thương
chịu khó trong cuộc đời. Bất hạnh của con cò “lộn cổ xuống ao” cũng là những bất hạnh,
hoạn nạn của nhà nông đứng trước mọi thế lực thống trị và áp bưc trong xã hội. Sưu cao
thuế nặng. Ách thống trị nặng nề của bọn vua quan. Nạn áp bức, bòn rút của bọn địa chủ,
cường hào. “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ” - Nửa công đưa ở, nửa thuê bò” (Nguyễn
Khuyến). Trải qua hàng ngàn năm, người nông dân Việt Nam đã đổ mồ hôi vất vả làm ra
củ khoai, hạt gạo nuôi sống nhân dân, nhưng cuộc đời của họ có khác gì thân phận con cò
trong bài ca dao nay. Tiếng kêu thương của con cò đã vọng vào cuộc đời theo thời gian
năm tháng. Bài ca dao đã gieo vào lòng chúng ta sự xót thương, đồng cảm với bao nạn
nhân trong xã hội, nhất là đối với số phận người nông dân Việt Nam đêm trước cách mạng
Tháng Tám.
Bài ca dao càng trở nên sâu sắc và thấm thía khi chúng ta đọc đến hai câu cuối:
“Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
Gặp tai họa chưa chắc đã thoát hiểm: tính mạng nghìn cân treo sợi tóc. Trước cái
chết cầm chắc trong tay, thế mà cò chỉ nghĩ đến bầy con thơ, thương bầy con nhỏ tội
3
Hà Đức Thụ - Trường phổ thông DTNT Yên lập - Giáo án tự chọn NGỮ VĂN 9- chủ đề nâng cao- Năm học2007-2008
******************************************************************************
nghiệp. Cò giàu tình thương yêu, giàu đức hy sinh và vị tha. Cò cam chịu số phận. Những
phẩm chất ấy của cò cũng là những đức tính của nhà nông quê ta.
Cái đặc sắc của bài ca dao là ngoài tình cảm nhân đạo còn hàm chứa tư tưởng rất
đẹp. Đã có câu tục ngữ nêu lên cách ứng xử “đói cho sạch, rách cho thơm”. Đã có bài ca
dao ca ngợi một tâm thế thanh cao “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bun”. Đã có một thế
đứng cao đẹp như dáng trúc trước hoạn nạn: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Ở đây
cũng vậy, qua thân phận con cò, nhà thơ dân gian đã nêu lên một triết lý nhân sinh tuyệt
đẹp, ca ngợi tâm hồn trong sáng, hồn hậu: thà chết trong còn hơn sống đục! Hai chữ
“trong” và “dục” tương phản nhau, lời nguyền của kẻ tử nạn trở nên thống thiết, khẳng
định một lẽ sống đẹp. Chữ “xáo” được điệp lại 4 lần, ý thơ được nhấn mạnh diễn tả sự
đinh của người bất hạnh trong cảnh ngộ đáng thương.
Cuộc đời của anh Pha, chị Dậu, lão Hạc… có khác gì cuộc đời và thân phận con cò
“lộn cổ xuống ao” trong bài ca dao này? Lão Hạc “thà chết trong còn hơn sống đục”;
trước lúc kết thúc cuộc đời bằng cái bả chó, lão đã gửi lại ông giáo mảnh vườn cho đứa
con tra tha hương chưa về, gời lại tiền cho ông giáo để lo việc tang ma… Người nhà quê
tuy nghèo khổ nhưng tâm thế của họ đẹp lắm, đáng tự hào lắm.
Bài ca dao này cũng như phần lớn các bài ca dao dân ca đều được viết bằng thẻ thơ
lục bát. Bốn câu đầu, cách gieo vần rất sáng tạo độc đáo. Chữ cuối câu lục không vần với
chữ thứ 6 câu 8 như thường lệ mà lại vần với chữ thứ 4 câu bát. Người ta gọi đó là lục bát
biến thể”
“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao.
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng…”
Âm điệu bài ca như tiếng nấc, đọc lên nghe thật là ai oán, cay đắng nghẹn ngào. Các
biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, điệp từ và cảm thán đã góp phần làm tăng tính thẩm mĩ
và biểu cảm của bài thơ dân gian này.
Thương con cò lâm nạ “lộn cổ xuống ao…”, thương “con cò đi đón cơn mưa…”,
thương “con cò chết rũ trên cây…”, chúng ta nghìn lần thương yêu, kính phục người dân
cày Việt Nam. Hơn 80% dân số nước ta làm nghề nông. Nghề nông là nghề căn bản của
dân tộc. Trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước, người dân cày Việt Nam đã từng
dùng gộc tre đánh giặc, siêng năng cày bừa cấy hái để làm nên những bát cơm đầy dẻo
thơm:
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc,
(…) Cái kèo cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương
Xay giã giần sàng,
Đât nước có từ ngày đó…”
(Nguyễn Khoa Điềm)
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh vừa qua, anh bộ đội cụ Hồ là người nông
dân mặc áo lính. Cần cù, dũng cảm, yêu nước, chất phác… là phẩm chất cao quý của nhà
nông quê ta… Học bài ca dao “Con cò mà đi ăn đêm” ta thêm thương yêu kính phục họ.
Bài học thà chết trong còn hơn sống đục mà nhà thưo dân gian gửi cho đến nay vẫn còn có
nhiều ý nghĩa đối với thế hệ trẻ chúng ta.
4
Hà Đức Thụ - Trường phổ thông DTNT Yên lập - Giáo án tự chọn NGỮ VĂN 9- chủ đề nâng cao- Năm học2007-2008
******************************************************************************
3. Phân tích bài ca dao
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
BÀI LÀM
Hình ảnh quê hương đât nước được nói đến nhiều trong ca dao dân ca. Có con
“đường vô xứ Nghệ quanh quanh – Non xanh nước biếc như trnah họa đồ”. Nơi ải BẮc xa
xôi là “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa – Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, Huế đẹp
mộng mơ có “Núi Truồi ai đắp mà cao – Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?...”. Và có
cảnh sáng sớm mùa thu trên Hồ Tây, nơi kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn vật”:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Bài ca dao mang màu sắc một bài thơ cổ điển, đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.
Cảnh vật Hồ Tây được miêu tả thật nên thơ: hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm
thanh hài hòa, sống động. Những khóm trúc ven hồ, cành lá um tùm rậm rạp, đeo nặng
sương mai “la đà” sát mặt nước, sát mặt đất, rung rinh, đu đưa trước làn gió nhẹ. Từ láy
tượng hình “la đà” - một nét vẽ thoáng và gợi cảm, đầy ấn tượng:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Cây tre, cây trúc rất gần gũi, thân thuộc với con người Việt Nam. Tre, trúc là cánh
sắc làng quê. Tre , trúc là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn người thiếu nữ quê ta:
“Trúc sinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh”.
Sau khi tả cành trúc, tác giả nói về âm thanh gần, xa:
“Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”.
Câu ca dao ngắt thành hai nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hòa hợp như âm
thanh tiếng chuông đền Trấn Vũ và tiếng gà gáy sang canh từ làng Thọ Xương vọng tới.
Đền Trấn Vũ còn gọi là đền Quan Thánh nằmn cạnh Hồ Tây là nơi thờ đức Huyền Thiên
Trấn Vũ. Tiếng chuông Trấn Vũ ngân lên trong sương sớm như ru hồn người vào huyền
thoại, lắng hồn núi sông ngàn năm, để ta yêu hơn non nước quê nhà: “Quán Trấn Vũ nắng
mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam Rùa” (“Tụng Tây Hồ phú” - Nguyễn
Huy Lượng). Tiếng gà gáy sang canh… lại làm ta tỉnh mộng, songs lại nhịp sống đời
thường dân đã “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày, tay giắt con trâu…”.
Cùng với tiếng gà gáy báo sáng là nhịp chày giã đó làm giấy ở phường Yên Thái
vàng lên rộn rã, nhịp nhàng. Lụa làng Trúc, giấy Yên Thái là sản phẩm nức tiếng kinh kỳ
Thăng Long từ thời nhà Lý xa xưa, là niềm tự hào của những người thợ thủ công tài hoa:
“Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng
May áo chàng cùng sóng áo em,…” (Ca dao)
“Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co
Liễu bờ kia bay to biếc phất phơ,
5