Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân biệt giữa 3 đối tượng không chịu thuế GTGT, đối tượng không kê khai, tính nộp thuế GTGT và chịu thuế suất 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.31 KB, 4 trang )

Phân biệt giữa 3 đối tượng không chịu thuế GTGT, đối tượng không kê
khai, tính nộp thuế GTGT và chịu thuế suất 0%?
- Giống nhau: thuế giá trị gia tăng đầu ra (phải nộp) là không có/bằng không.
- Khác nhau:
1. về khấu trừ thuế GTGT đầu vào
2. về kê khai thuế,
3. về xuất hóa đơn.
1/ Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào:
- KHÔNG PHẢI KÊ KHAI, TÍNH NỘP THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG: được
khấu trừ thuế GTGT đầu vào (theo điểm 1.h, Điều 9 Nghị định 209/2013/NĐ-CP).
- KHÔNG CHỊU THUẾ GTGT: không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào
(theo điểm 1.d, Điều 9 Nghị định 209/2013/NĐ-CP)
- CHỊU THUẾ SUẤT 0%: được khấu trừ thuế GTGT đầu vào (theo điểm 1.a,
Điều 9 Nghị định 209/2013/NĐ-CP)
2/ Về khai thuế
2.1/ Khai GTGT thuế đầu vào:
- KHÔNG PHẢI KÊ KHAI, TÍNH NỘP THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG: thuế giá
trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ không tính thuế vì được khấu trừ nên sẽ kê khai ở chỉ tiêu số 1. “Hàng hoá,
dịch vụ dùng riêng cho SXKD chịu thuế GTGT và sử dụng cho các hoạt động cung
cấp hàng hoá, dịch vụ không kê khai, nộp thuế GTGT đủ điều kiện khấu trừ thuế” trên
bảng kê mua vào – PL 01-2/GTGT.
- KHÔNG CHỊU THUẾ GTGT: thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa,
dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế vì không
được khấu trừ nên sẽ kê khai ở chỉ tiêu số 2. “Hàng hoá, dịch vụ không đủ điều kiện
khấu trừ” trên bảng kê mua vào – PL 01-2/GTGT.
- CHỊU THUẾ SUẤT 0%: thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ
sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 0% vì được khấu
trừ nên sẽ kê khai ở chỉ tiêu số 1. “Hàng hoá, dịch vụ dùng riêng cho SXKD chịu thuế
GTGT và sử dụng cho các hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ không kê khai, nộp
thuế GTGT đủ điều kiện khấu trừ thuế” trên bảng kê mua vào – PL 01-2/GTGT.




2.2/ Khai thuế GTGT đầu ra:
- KHÔNG PHẢI KÊ KHAI, TÍNH NỘP THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG: kê khai
ở chỉ tiêu số 5. “Hàng hóa, dịch vụ không phải tổng hợp trên tờ khai 01/GTGT” trên
bảng kê bán ra – PL 01-1/GTGT.
- KHÔNG CHỊU THUẾ GTGT: kê khai ở chỉ tiêu số 1. “Hàng hóa, dịch vụ
không chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT)” trên bảng kê bán ra – PL 01-1/GTGT.
- CHỊU THUẾ SUẤT 0%: kê khai ở chỉ tiêu số 2. “Hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
suất thuế GTGT 0%” trên bảng kê bán ra – PL 01-1/GTGT.
3/ Về xuất hóa đơn:
- KHÔNG PHẢI KÊ KHAI, TÍNH NỘP THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG: trên hoá
đơn GTGT, ghi dòng giá bán là giá không có thuế GTGT, dòng thuế suất và thuế
GTGT không ghi, gạch bỏ
- KHÔNG CHỊU THUẾ GTGT: trên hoá đơn GTGT chỉ ghi dòng giá bán là
giá thanh toán, dòng thuế suất, số thuế GTGT không ghi và gạch bỏ
- CHỊU THUẾ SUẤT 0%: trên hoá đơn GTGT chỉ ghi dòng giá bán là giá
thanh toán, dòng thuế suất thể hiện là 0%, số thuế GTGT là 0.


Thuế GTGT khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế:
I. Những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật thuế GTGT năm 2008 đã góp
phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư đổi mới công
nghệ, khuyến khích xuất khẩu:
Luật thuế GTGT năm 2008 đã sửa đổi, giảm bớt các nhóm hàng hóa, dịch vụ
không chịu thuế (chuyển 3 nhóm từ không chịu thuế sang chịu thuế GTGT) đã tạo
điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá
trình sản xuất kinh doanh; sắp xếp, điều chỉnh lại hợp lý các nhóm hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế suất 5% và 10% (chuyển một số nhóm hàng hóa từ thuế suất 5% sang áp
dụng thuế suất 10%) đã góp phần nâng cao sự minh bạch về chính sách, nâng cao hiệu

quả quản lý của cả cơ quan thuế và người nộp thuế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hoá, dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh
và xuất khẩu; áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với vận tải quốc tế đã tạo điều
kiện để khuyến khích phát triển hoạt động vận tải quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam
và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp phát triển công nghệ, đầu tư đổi mới TSCĐ, góp phần thúc đẩy vốn đầu
tư xã hội tăng trưởng. Thông qua áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất
khẩu đã tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, tăng khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó khuyến khích xuất khẩu tăng trưởng
mạnh qua các năm.
II. Luật thuế GTGT năm 2008 đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, minh bạch các hoạt động kinh tế, chống gian lận; thúc đẩy hạch toán kế
toán, sử dụng hoá đơn, chứng từ, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp:
Luật năm 2008 đã bổ sung điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào: thời gian kê
khai khấu trừ tối đa nâng từ 03 tháng lên 6 tháng; yêu cầu phải có chứng từ thanh toán
qua ngân hàng đối với giá trị mua vào từng lần từ hai mươi triệu đồng trở lên; quy
định tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ thuế đầu vào để
khuyến khích đầu tư, đã tạo thuận lợi hơn cho công tác hạch toán kế toán và bảo đảm
quyền lợi của doanh nghiệp làm ăn chân chính, ngăn chặn các hành vi mua bán, sử
dụng hoá đơn bất hợp pháp, gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT, chống thất thu
ngân sách, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh.
III. Thuế GTGT tiếp tục là nguồn thu quan trọng, ổn định, bảo đảm tỷ lệ


động viên hợp lý cho Ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nguồn tài chính cho sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội
Với bản chất là loại thuế tiêu dùng, thuế GTGT vẫn tiếp tục phát huy vai trò là
loại thuế có số thu đóng góp vào Ngân sách nhà nước nhiều nhất, đặc biệt trong giai

đoạn hiện nay, thuế GTGT càng phát huy vai trò là loại thuế gián thu đóng vai trò
quan trọng do đây là loại thuế ít biến động và ít thay đổi hơn thuế thu nhập doanh
nghiệp hay thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, thuế GTGT được nộp vào ngân sách kịp
thời (ngay trong kỳ phát sinh giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ) nên thuế GTGT
tạo nguồn thu đều đặn cho nhà nước trong bối cảnh nhiều quốc gia phải đối mặt với
tình trạng giảm lượng tiền mặt do số thu về thuế giảm và chi ngân sách tăng.
IV. Thuế GTGT đã khuyến khích phát triển các giao dịch thanh toán
không dùng tiền mặt:
Trước năm 2009 việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào khâu nội địa chỉ căn cứ vào
hóa đơn GTGT của người bán, không có quy định về việc phải thanh toán qua ngân
hàng khâu kinh doanh trong nước nên đã phát sinh tình trạng nhiều doanh nghiệp lập
hóa đơn khống (hóa đơn không kèm theo hàng hóa, dịch vụ và không kèm theo việc
thanh toán tiền) để lợi dụng trốn thuế (không kê khai nộp thuế đối với giao dịch tiền
mặt) chiếm đoạt tiền thuế.
Từ ngày 01/01/2009 để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào thì Luật thuế GTGT
năm 2008 đã quy định một trong những điều kiện quan trọng là doanh nghiệp phải có
chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần có giá
trị trên hai mươi triệu đồng. Quy định trên đã thúc đẩy phát triển giao dịch thanh toán
qua ngân hàng giữa các doanh nghiệp - đây là chủ trương lớn của Chính phủ và góp
phần ngăn chặn gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT, góp phần chống rửa
tiền.



×