Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

ĐÊ CƯƠNG ôn THI môn QUẢN lý HÀNH CHÍNH NHÀ nước TẢI HỘ 0984985060

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.71 KB, 63 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP
MÔN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. Quản lý hành chính nhà nước
1. Quản lý nhà nước
- Khái niệm: Quản lý là một hoạt động phức tạp và có nhiều chức năng. Quản lý ở
góc độ quản lý học là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm hướng hành vi của đối tượng đạt tới mục tiêu đã định trước
- Ví dụ: Trong một lớp: Chủ thể quản lý là giảng viên dạy. Đối tượng quản lý là các thành
viên trong lớp => Giúp lớp hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập theo mục tiêu đã định của
chương trình
2. Quản lý nhà nước
- Quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội nên nó có đặc trưng của quản lý xã hội
=> Quản lý Nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước,
sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ
nhân dân, duy trì sự ôn định và phát triển của xã hội.
- Quản lý Nhà nước mang những đặc điểm chung với của quản lý xã hội nhưng quản lý
nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt ấy thể hiện ở sự khác biệt
giữa quản lý Nhà nước với các hoạt động quản lý xã hội khác.
2. Quản lý hành chính nhà nước
a. Hành chính
- Theo nghĩa rộng: Hành chính là những biện pháp tổ chức và điều hành các tổ chức, các
nhóm, các đoàn thể hợp tác trong hoạt động của mình để đạt được mục tiêu chung.
- Theo nghĩa hẹp: Hành chính là hoạt động quản lý các công việc của nhà nước, xuất hiện
cùng với nhà nước.
=> Hành chính là hoạt động chấp hành và điều hành trong quản lý một hệ thống theo
những quy định định trước nhằm đạt mục tiêu của hệ thống
b. Quản lý hành chính nhà nước


- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó
là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước trong quản lý xã
hội theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển của xã hội.
1

1


3. Phân biệt giữa quản lý nhà nước với các dạng quản lý xã hội khác để chứng
minh “quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt”.
Quản lý là một hoạt động phức tạp và có nhiều chức năng. Quản lý ở góc độ quản lý
học là sự tác động có tổ chức có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm hướng hành vi của đối tượng đạt tới mục tiêu đã định trước QLNN: là một dạng
quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực NN và sử dụng pháp luật và chính sách để
điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt củ đời sống XH do các cơ quan
trong bộ máy NN thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của
XH. Quản lý báo gồm 3 dạng: quản lý giới vô sinh, quản lý giới sinh vật, quản lý tổ chức
con người (quản lý xã hội).
Quản lý xã hội gồm các thực thể có tổ chức, có lý trí kết thành hệ thống chặt chẽ.
Đây là dạng quản lý phức tạp nhất nhưng cũng là hoàn thiện nhất vì đối tượng quản lý là
con người có lý trí và mối quan hệ nảy sinh liên tục. Xã hội càng phát triển thì mối quan hệ
giữa họ càng phong phú, đa dạng, phức tạp cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả hữu hình lẫn vô
hình.
Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội nên nó có đặc trưng của quản lý xã hội.
Quản lý nhà nước cũng như quản lý xã hội bao giờ cũng bao hàm chủ thể và đối tượng.
Chủ thể quản lý đều là các thực tế có tổ chức có lý trí và đối tượng quản lý là con người
với đủ bản chất xã hội của mình.
Quản lý nhà nước bao giờ cũng có quyền lực của nhà nước. Quyền hành là đặc
quyền của chủ thể do tổ chức trao cho, là phương tiện để chủ thể quản lý nhà nước tác

động lên đối tượng quản lý. Quản lý nhà nước mang tính tổ chức giống như các hoạt động
quản lý xã hội khác. Tính tổ chức là nền tảng của hoạt động quản lý.
Quản lý xã hội, quản lý nhà nước bao giờ cũng phải có thông tin. Thông tin trong
quá trình nhà nước nói riêng trong quản lý xã hội nói chung là cơ sở căn bản của quản lý
các tác nghiệp quản lý. Quản lý nhà nước phải có mục tiêu nhất định không nằm ngoài các
yếu tố cấu thành quá trình quản lý xã hội.
Quản lý nhà nước mang những đặc điểm chung với của quản lý xã hội nhưng quản
lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt ấy thể hiện ở sự khác
biệt giữa quản lý nhà nước với các hoạt động quản lý xã hội khác. So với quản lý của các
tổ chức khác, thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt như sau:
- Chủ thể quản lý NN là các CBCC và các cơ quan trong bộ máy nhà nước, cơ quan
NN: Lập pháp (Quốc hội và cơ cấu t/c của Quốc hội), Hành pháp (Hệ thống các CQ.HCNN
các cấp), Tư pháp (TAND và cơ cấu t/c của TAND, VKSND và cơ cấu tổ chức của VKS).
2

2


Còn quản lý xã hội chủ thể của nó là các thực thể có lý trí và có tổ chức đảng, đoàn
thể,các tổ chức khác v.v... Chủ thể của quản lý XH có nhiều chủ thể tham gia quản lý khác
nhau (giám đốc doanh nghiệp, tổ chức chính trị…).
- Đối tượng quản lý của quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ nhân dân, mọi cá nhân
sống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia và công dân làm việc bên ngoài lãnh thổ quốc gia,
phạm vi của nó mang tính toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Còn đối tượng quản lý của quản lý xã hội nó bao gồm các cá nhân, các nhóm trong
phạm vi một tổ chức.
- Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật làm
công cụ chủ yếu để duy trì trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển.
Quản lý xã hội mang tính quyền lực xã hội sử dụng các quy phạm quy chế nội bộ để
điều chỉnh các quan hệ.

- QLNN là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao;
Còn quản lý xã hội thì tự bổ sung nhé nếu không sẽ giống nhau như đúc???
- Mục tiêu của quản lý NN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển
của toàn XH.
Còn quản lý xã hội thì tự bổ sung nhé nếu không sẽ giống nhau như đúc???
Như vậy, có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang
tính quyền lực NN và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân,
tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống XH do các CQ trong bộ máy HCNN thực hiện
nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của XH. (đây là phần kết luận vì
thế các bạn tự bổ sung thêm nhé, chỉ gợi ý thế thôi)
II. Nền hành chính Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
1. Khái niệm nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước là một khái niệm dùng để chỉ tập hợp tất cả các yếu tố: hệ thống
thể chế hành chính nhà nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, đội ngũ nhân sự làm
việc trong cơ quan hành chính nhà nước và các nguồn lực vật chất đảm bảo cho việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan nhà nước.
2. Phân tích các yếu tố cấu thành nền HCNN. Theo anh/chị để nâng cao năng lực, hiệu
lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước trong thời gian tới cần phải làm gì?
3

3


Có nhiều cách tiếp cận về nền hành chính nhà nước, nhưng phổ biến hiện nay cho rằng nền
hành chính nhà nước là hệ thống các yếu tố hợp thành về tổ chức (Bộ máy, con người, nguồn lực
công) và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành pháp. Theo cách tiếp cận này, về cấu trúc của
nền hành chính nhà nước bao gồm 4 yếu tố:
Thứ nhất: Thể chế hành chính nhà nước
Thể chế hành chính là một hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật, tạo

khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan HCNN hoạt động, quản lý nhà nước một cách hiệu quả.
Các yếu tố cấu thành thể chế HCNN bao gồm:
Thể chế về tổ chức và hoạt động của bộ máy HCNN: Hệ thống các văn bản pháp luật
quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan HCNN từ
trung ương đến cơ sở.
Thể chế quản lý HCNN trên các lĩnh vực (thể chế kinh tế, thể chế văn hoá..): Hệ thống
các văn bản của Nhà nước điều chỉnh sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi phương diện,
đảm bảo xã hội phát triển ổn định, an toàn, bền vững.
Thể chế quy định về công chức và hoạt động công vụ.
Hệ thống các thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước với tổ chức và công dân.
Hệ thống các chế định về tài phán hành chính nhằm giải quyết các tranh chấp hành
chính giữa công dân với nền hành chính nhà nước.
Thứ hai: Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy HCNN là một tập hợp các cơ quan HCNN liên kết với nhau thành một hệ thống
thống nhất, được sắp xếp theo cấp và theo phân hệ trong một trật tự, có mối quan hệ qua lại,
ràng buộc chặt chẽ với nhau, chịu sự chỉ đạo, điều hành chung từ một trung tâm là Chính
phủ.
Bộ máy HCNN ta được tổ chức theo cấp và phân hệ. Bao gồm: Bộ máy HCNN TW là
Chính Phủ. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có Bộ và cơ quan ngang Bộ.
Bộ máy HCNN địa phương là hệ thống UBND các cấp, gồm 03 cấp:
Cấp tỉnh: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Cơ cấu tổ chức bao gồm các Sở, Ban
ngành cấp tỉnh.
Cấp huyện: UBND huyện, quận, thành Phố, thị xã trực thuộc tỉnh. Cơ cấu tổ chức bao
gồm các Phòng, Ban cấp huyện.
Cấp xã: UBND xã, phường, thị trấn.
Bộ máy HCNN thực thi quyền hành pháp, là cầu nối trực tiếp nhất đưa đường lối,
chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Hệ thống cơ quan HCNN được phân cấp, phân hệ đảm
bảo tính tập trung, bao quát, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý. Bộ máy
HCNN ở trung ương đưa ra các văn bản pháp quy, Chính phủ thực hiện chức năng quản lý,

điều hành chung; các Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả
nước. Bộ máy HCNN ở địa phương có trách nhiệm quản lý về mặt nhà nước đối với tất cả
các lĩnh vực, các mặt hoạt động ở địa phương.
4

4


Thứ ba: Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và hoạt động công vụ
Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là những người có thẩm quyền lãnh đạo, quản
lý, điều hành nền hành chính và thực thi các công vụ trong nền HCNN. Đây là chủ thể mang
quyền lực nhà nước, trực tiếp thực thi các thẩm quyền hành pháp nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan HCNN để quản lý xã hội.
Công chức hành chính ở Việt Nam là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh nhất định, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Số lượng công chức lớn, chất lượng được phân loại theo trình độ đào tạo. Công chức
hành chính được chia theo nhóm công việc, theo lĩnh vực và được phân loại thành các ngạch,
bậc. Quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của công chức được pháp luật quy định cụ thể. Công
chức phải thực hiện và được hưởng các chế độ đào tạo, bồi dưỡng.
Thứ tư: Tài chính công
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà nước tiến hành, nó
phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ công
nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của
toàn xã hội
Cơ cấu tài chính công gồm: Ngân sách nhà nước; Tài chính các cơ quan HCNN; Tài
chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước; Tài chính trong các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích; Các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước.
Tài chính công là cơ sở, nguồn lực vật chất quan trọng để bộ máy HCNN vận hành
thực hiện được các chức năng của mình, đáp ứng các nhu cầu và lợi ích của toàn xã hội; Là
yếu tố để nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lãnh đạo, điều hành các quá trình phát triển xã hội

theo đúng định hướng đề ra
Hoạt động của nền hành chính nhà nước được thực hiện dưới sự điều hành thống nhất
của Chính phủ nhằm phát triển hệ thống và đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế -xã hội
theo định hướng. Trong quá trình đó, các chủ thể hành chính cần thực hiện sự phân công,
phân cấp cho các cơ quan trong hệ thống nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và thế mạnh
riêng có của từng ngành, từng địa phương vào việc thực hiện mục tiêu chung của nền hành
chính.
Giữa các yếu tố của nền hành chính có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau trong
một khuôn khổ thể chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước cần phải cải
cách đồng bộ cả bốn yếu tố trên.
Để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước trong thời
gian tới cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Xây dựng nền hành chính phục vụ. Đối tượng phục vụ là nhân dân, bởi vậy nền hành
chính phải coi công dân là khách hàng để mỗi cơ quan có trách nhiệm cung ứng những dịch
vụ công tốt nhất, có chất lượng và hiệu quả nhất;
- Đảm bảo dân chủ hoá và phân cấp trong hoạt động hành chính nhà nước yêu cầu các
chủ thể phân giao quyền hạn cho các cơ quan trong hệ thống theo hướng: việc nào cấp dưới
làm tốt, làm hiệu quả thì giao cho họ. Nhà nước quản lý nhằm hướng dẫn, giúp đỡ, tạo môi
5

5


trường và động lực cho các tổ chức công thực hiện các dịch vụ. Nhà nước không độc quyền,
cản trở, ôm đồm hay làm thay các tổ chức kinh tế, xã hội khác;
- Xác định rõ quan hệ giữa khu vực công và khu vực tư. Thực hiện xã hội hoá hoặc sắp
xếp lại khu vực công, nhưng không làm giảm vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước;
- Hành chính công thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, kết hợp với đề cao đạo
đức, phát huy những giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại...;
- Nền hành chính công gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát

triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện mục tiêu chiến
lược trong từng giai đoạn;
- Vận dụng sáng tạo, linh hoạt cơ chế thị trường vào hoạt động hành chính để xây
dựng một nền hành chính năng động, thích ứng và có hiệu quả nhằm phục vụ tốt các nhu cầu
xã hội;
- Lãnh đạo và quản lý sự thay đổi nền hành chính công trong sự vận động chung của hệ
thống chính trị và xã hội;
- Áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới vào tổ chức và vận hành nền
hành chính.
Theo tinh thần đó, để đánh giá trình độ phát triển của một nền hành chính cần dựa vào
các tiêu chí như: Sự năng động và phù hợp của tổ chức bộ máy hành chính trong hoạt động
quản lý xã hội; sự ổn định trật tự xã hội; sự công bằng trong xã hội; sự phát triển bền vững
của nền kinh tế.
Tóm lại, trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường, vai trò của hành chính công ngày càng có ý nghĩa to lớn. Thời gian
qua, Nhà nước ta đã áp dụng cơ chế quản lý mới vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bằng
việc tác động đến các thành phần kinh tế, qui hoạch các vùng kinh tế và các ngành, lĩnh vực
kinh tế … nhằm định hướng cho nền kinh tế vận động đạt được những mục tiêu phát triển.
3. Phân tích những đặc trưng của nền hành chính Nhà nước. Theo anh/chị những đặc
trưng nào chưa được thực hiện rõ nét ở Việt Nam hiện nay?
Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó là
hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước trong quản lý xã hội
theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trí sự ổn định và phát
triển của xã hội. Để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
cần phải hiểu rõ những đặc tính chủ yếu của nền hành chính nhà nước. Những đặc tính
này vừa thể hiện đầy đủ bản chất của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, vừa kết hợp
được những đặc điểm chung của một nền hành chính phát triển theo hướng hiện đại.
Như vậy nền hành chính Nhà nước Việt Nam có 7 đặc trưng sau:
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
6


6


Đảng lãnh đạo Nhà nước về chính trị. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, Quốc hội
thể chế hóa các chủ trương, Chính sách của Đảng thành văn bản pháp luật. Chính Phủ là cơ
quan thực ti quyền hành pháp. Như vậy đương nhiên nền hành chính phụ thuộc vào chính trị.
Mặc dù lệ thuộc vào chính trị, song nền hành chính cũng có tính độc lập tương đối về hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính.
Ở nước ta, nền hành chính nhà nước mang đầy đủ bản chất của một Nhà nước dân chủ
xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" dựa trên nền tảng của liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Do đó nền hành chính Việt Nam mang tính giai cấp công nhân, tính nhân dân và
tính dân tộc
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nằm trong hệ thống chính trị, có hạt nhân lãnh
đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò tham gia và giám
sát hoạt động của Nhà nước, mà trọng tâm là nền hành chính. Hệ thống chính trị nhà nước ta:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận TQVN và các thành viên của Mặt trận Tổ
quốc. Nền hành chính là bộ phận của Nhà nước, là công cụ chủ yếu của Nhà nước.
Nền hành chính nhà nước phải chấp hành các quyết định của các cơ quan quyền lực
nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, hành chính nhà nước
cũng có tính độc lập tương đối nhất định, thể hiện ở tính chuyên môn, kỹ thuật; cán bộ
công chức hành chính nhà nước vận dụng hệ thống tri thức khoa học vào việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình như: Quản trị học, khoa học quản trị nhân sự, kinh tế học,
luật học, chính trị học, tâm lý học, xã hội học…
2. Tính pháp quyền
Với tư cách là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước, nền hành chính nhà nước được tổ
chức và hoạt động tuân theo những quy định pháp luật, đồng thời yêu cầu mọi công dân và tổ
chức trong xã hội phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Đảm bảo tính pháp quyền của nền
hành chính là một trong những điều kiện để xây dựng Nhà nước chính quy, hiện đại, trong đó

bộ máy hành pháp hoạt động có kỷ luật, kỷ cương.
Nền HCNN (các CQNN) được thành lập và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy
định (có tư cách pháp nhân, được pháp luật thừa nhận). Khi thực thi nhiệm vụ QLHCNN nền
HCNN được sử dụng pháp luật với tư cách là công cụ quản lý. Tính quyền uy = quyền lực +
uy tín, các cơ quan quản lý HCNN phải có quyền uy thì mới phát huy tính pháp luật trong
quản lý HCNN.
Tính pháp quyền đòi hỏi các cơ quan hành chính, công chức phải nắm vững qui định
pháp luật, sử dụng đúng quyền lực, thực hiện đúng chức năng và thẩm quyền trong thực thi
công vụ. Mỗi cán bộ, công chức cần chú trọng vào việc nâng cao uy tín về chính trị, phẩm
chất đạo đức và năng lực thực thi để phục vụ nhân dân. Tính pháp quyền của nền hành chính
được thể hiện trên cả hai phương diện là quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật.
Điều đó có nghĩa là, một mặt các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng luật pháp là công cụ
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính bắt buộc đối với các đối tượng quản lý; mặt
7

7


khác các cơ quan hành chính nhà nước cũng như công chức phải được tổ chức và hoạt động
theo pháp luật chứ không được tự do, tuỳ tiện vượt lên trên hay đứng ngoài pháp luật.
3. Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng
Trên thực tế, các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân cần được pháp luật điều
chỉnh diễn ra một cách thường xuyên, liên tục theo các quá trình kinh tế - xã hội. Chính vì
vậy nền hành chính Nhà nước phải hoạt động liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động sản
xuất, lưu thông không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào.
Tính liên tục và ổn định của nền hành chính xuất phát từ hai lý do cơ bản:
Thứ nhất, do xuất phát từ quan điểm phát triển. Muốn phát triển phải ổn định, ổn định
làm nền tảng cho phát triển, vì vậy chủ thể hành chính phải biết kế thừa giữ cho các đối
tượng vận động liên tục, không được ngăn cản hay tuỳ tiện thay đổi trạng thái tác động.
Thứ hai, do xuất phát từ nhu cầu của đời sống nhân dân. Người dân luôn luôn mong

muốn được sống trong một xã hội ổn định, được đảm bảo những giá trị văn hoá trong phát
triển. Điều đó tạo nên niềm tin của họ vào nhà nước.
Tính liên tục và ổn định không loại trừ tính thích ứng, bởi vậy ổn định ở đây chỉ mang
tính tương đối, không phải là cố định, bất biến. Nhà nước là một sản phẩm của xã hội, trong
khi đời sống kinh tế - xã hội luôn vận động biến đổi, nên hành chính nhà nước cũng phải thích
nghi với hoàn cảnh thực tế để đáp ứng yêu cầu phát triển.
4. Tính chuyên nghiệp
Hoạt động hành chính của các cơ quan thực thi quyền hành pháp là một hoạt động đặc
biệt và cũng tạo ra những sản phẩm đặc biệt. Điều đó được thể hiện trên cả phương diện nghệ
thuật và khoa học trong quản lý nhà nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính nhà
nước, yêu cầu những người làm việc trong các cơ quan hành chính cần phải có trình độ
chuyên môn nghề nghiệp cao trên các lĩnh vực được phân công quản lý. Tính chuyên môn
hoá và nghề nghiệp cao là đòi hỏi bắt buộc đối với hoạt động quản lý của các cơ quan hành
chính nhà nước và là yêu cầu cơ bản đối với nền hành chính phát triển theo hướng hiện đại.
Đối tượng tác động của nền hành chính có nội dung hoạt động phức tạp và quan hệ đa
dạng, phong phú đòi hỏi các nhà hành chính phải có kiến thức xã hội và kiến thức chuyên
môn sâu rộng. Công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước là những người
trực tiếp thi hành công vụ, nên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của họ có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng công việc thực hiện. Vì lẽ đó trong hoạt động hành chính Nhà nước, năng lực
chuyên môn và trình độ quản lý của những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà
nước phải được coi là tiêu chuẩn hàng đầu.
Xây dựng và tuyển chọn những người vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước đảm bảo yêu cầu “vừa hồng, vừa chuyên” là mục tiêu của công tác cán bộ trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
5. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Nền hành chính nhà nước được cấu tạo gồm một hệ thống định chế tổ chức theo thứ
bậc chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương tới các địa phương, trong đó cấp dưới phục tùng
cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên. Mỗi cấp hành
8


8


chính, mỗi cơ quan, công chức hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được trao để cùng thực
hiện tốt chức năng hành chính. Tuy nhiên, để hạn chế việc biến nền hành chính thành hệ
thống quan liêu, thì xác lập thứ bậc hành chính cũng tạo ra sự chủ động sáng tạo, linh hoạt
của mỗi cấp, mỗi cơ quan, công chức hành chính để đưa pháp luật vào đời sống xã hội một
cách hiệu quả.
Nền hành chính Việt Nam hình thành một hệ thống chặt chẽ từ Trung ương gồm
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đến địa phương bao gồm các Uỷ ban nhân dân các
cấp và các cơ quan trực thuộc. Các cơ quan ở địa phương phải chịu sự quản lý và kiểm tra
của các cơ quan Trung ương, bên cạnh đó các cơ quan chuyên môn phải chịu sự quản lý
song trùng.
6. Tính không vụ lợi
Hành chính nhà nước có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích của công dân. Mọi
hoạt động không mang tính vụ lợi và không theo đuổi dộng cơ lọi nhuận. do vậy một
trong những đặc điểm cơ bản của nền HCNN ta vô tư, công tâm, trong sạch “ cần, kiệm,
liêm …”
Tại Việt Nam, nền hành chính phục vụ hết mình cho công dân, nó không hề vụ lợi và
ngày nay đang đấu tranh để làm cho nền hành chính Việt Nam ngày càng trong sạch và
vì lợi ích cộng đồng hơn nữa.
7. Tính nhân đạo
Bản chất của NN ta là dân chủ XHCN, lấy phục vụ nhân dân làm mục đích “ Tất cả vì
con người, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân” là trách nhiệm và mục đích công vụ của nền
hành chính. Tôn trọng quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp cảu công dân là xuất pháp
điểm của HTPL thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính. Nền HCNN VN hiện nay phải kiên
quyết chống lại những thủ đoạn quan lieu, hà hiếp nhân dân tất cả vì nhân dân.
Nhà nước Việt Nam có bản chất là Nhà nước của nhân dân và do nhân dân, vì dân vì
vậy tôn trọng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân là xuất phát điểm của hệ thống
lật, thể chế quy tắc, thủ tục hành chính. Các công chức không được quan liêu, cửa

quyền, hách dịch, gây phiên hà cho dân khi thi hành công vụ. Mặt khác, hiện nay chúng ta
xây dựng nền kinh tế thị trường nên nền hành chính càng đảm bảo tính nhân đạo để hạn
chế tối đa mạt trái của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển bền
vững.
* Những đặc trưng chưa thực hiện rõ nét ở Việt Nam như:
- Tính pháp quyền chưa thể hiện rõ nét, vì: cán bộ công chức chưa làm việc theo
pháp luật. Hiện nay, các văn bản pháp luật ở Việt Nam vẫn còn nhiều kẽ hở, các luật sự
9

9


mỗi khi nhận bào chữa các vụ kiện vẫn thường dựa vào những kẻ hở này để bào chữa cho
thân chủ của mình..... tự viết thêm
- Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao chưa thể hiện rõ nét, Vì: Tìm tổng kết
báo cáo trình độ công chức 2010 hoặc 2015 để liên hệ nhé…. CBCC vẫn chưa thật sự
chuyên nghiệp, vẫn có CBCC làm thêm nghề khác..
- Tính không vụ lợi, tự phân tích nha
3. Phân tích các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nền hành chính Việt Nam và đánh
giá việc thực hiện các nguyên tắc đó?
a. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước:
Cơ sở pháp lý của nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước được
quy định tại Điều 4 HP năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định
của mình”.
- Nội dung của nguyên tắc:

Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước biểu hiện cụ thể ở các hình
thức hoạt động của các tổ chức Đảng, cụ thể như sau:
- Đảng đề ra những đường lối, chủ trương, chính sách của mình về lĩnh vực hoạt động
khác của quản lý hành chính Nhà nước. Các nghị quyết của cấp uỷ Đảng đưa ra các phương
hướng hoạt động cơ bản tạo cơ sở quan trọng để các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước có
thẩm quyền thể chế hoá văn bản pháp luật thực hiện trong hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước. Chủ thể quản lý hành chính Nhà nước luôn căn cứ vào chủ trương, đường lối của
Đảng để quyết định những vấn đề khác nhau trong quản lý.
Ví dụ: Ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước phải dựa trên cơ sở và thể chế hóa chủ
trương, đường lối của Đảng.
- Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ.
Chúng ta biết rằng công tác tổ chức cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả của quá trình quản lý hành chính Nhà nước. Cho nên, công tác Đảng đã bồi
dưỡng những Đảng viên ưu tú có đầy đủ năng lực, phẩm chất đạo đức gánh vác những công
việc quản lý hành chính Nhà nước. Tổ chức Đảng đưa ra ý kiến về việc bố trí những cán bộ
phụ trách những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính Nhà nước. Từ đó cơ quan Nhà
nước xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.
- Đảng còn sử dụng hình thức kiểm tra để lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước, như:
Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước nhằm đánh giá tính hiệu quả, tính thực tế của các chính sách mà Đảng
10

10


đề ra. Để từ đó khắc phục những khuyết điểm, phát huy mặt tích cực trong công tác quản lý.
Thông qua công tác này, giúp tổ chức Đảng biết được tình hình thực hiện các chủ trương,
chính sách do mình đề ra. Trên cơ sở đó có biện pháp uốn nắn kịp thời làm cho hoạt động
quản lý đi theo đúng định hướng, phù hợp với lợi ích giai cấp, lợi ích của dân tộc
- Sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính Nhà nước còn được thực hiện thông qua uy

tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức đảng và đảng viên. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng
không làm thay Nhà nước, các nghị quyết Đảng không mang tính bắt buộc mọi ngươi mà chỉ
có tính bắt buộc đối với từng đảng viên. Bằng uy tín của Đảng, vai trò gương mẫu của từng
đảng viên, và bằng sự thuyết phục của vai trò gương mẫu của đảng viên, sự lãnh đạo của
Đảng có sức mạnh to lớn trong công tác quản lý hành chính Nhà nước.
b. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước:
Sự tham gia của nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc trưng cơ bản của
chế độ dân chủ. Quyền tham gia vào hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân
được quy định tại điều 28 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,địa
phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”
Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
tham gia giải quyết những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước, địa phương hoặc đơn vị.
Ngoài việc tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, những hình thức tham
gia trực tiếp khác của nhân dân vào quản lý nhà nước là: Thảo luận, góp ý kiến vào quá trình
xây dựng những đạo luật hoặc các quyết định quan trọng khác của nhà nước hoặc của địa
phương; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại,
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước... Nhân dân còn gián tiếp tham gia
vào quản lý nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan, các đại biểu do mình bầu ra
(Quốc hội, HĐND các cấp).
Một hình thức tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nước rất quan trọng khác là thông qua
các tổ chức chính trị - xã hội. Pháp luật Việt Nam trao cho các tổ chức chính trị - xã hội
quyền tham gia thành lập các cơ quan nhà nước, quyền giám sát, phản biện xã hội đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để đảm bảo sự tham gia vào quản lý nhà nước của nhân dân có hiệu quả, cần phải thể chế
hoá các quyền đó một cách cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của các đại biểu nhân dân và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân.
d. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo tổ chức và hoạt động của cả hệ thống

chính trị, trong đó có nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước hết sự lãnh đạo tập trung đối với những vấn
đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm bảo tính thống nhất của quyền
lực nhà nước, đảm bảo thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Bên
cạnh việc yêu cầu phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, cũng cần phải đảm bảo tính sáng
11

11


tạo, quyền chủ động nhất định của địa phương và cơ sở. Cấp trung ương giữ quyền thống
nhất quản lý những vấn đề cơ bản, đồng thời thực hiện phân cấp quản lý, giao quyền hạn,
trách nhiệm cho các địa phương, các ngành trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện các
văn bản của cấp trên. Điều 6 Hiến pháp 2013 quy định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của cơ quan nhà nước.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu
hiện rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực, nhiều cấp quản lý, từ vần đề tổ chức bộ máy đến cơ
chế vận hành của bộ máy. Chẳng hạn như quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo
của cơ quan quản lý hành chính nhà nước trước cơ quan dân cử; phân định chức năng, thẩm
quyền giữa các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp; nguyên tắc “hai chiều trực
thuộc” đảm bảo kết hợp tốt quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, kết hợp hài hòa lợi ích của
cả nước với lợi ích của từng địa phương...
Tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước, là một thể thống nhất. Tập trung dân
chủ đối lập với xu hướng cơ quan cấp trên “làm thay” “lấn sân” vào thẩm quyền của cơ quan
cấp dưới, đồng thời phủ nhận việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên. Trong thực
tiễn quản lý hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng
thời chống biểu hiện tuỳ tiện, tự do vô chính phủ, cục bộ địa phương, cục bộ ngành.
d. Nguyên tắc kết hợp quản lý hành chính theo ngành và theo lãnh thổ
Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là hai mặt không tách rời nhau mà phải được
kết hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Các đơn vị kinh tế thuộc thành

phần kinh tế nào, nằm trên địa bàn quản lý đều thuộc một ngành kinh tế - kỹ thuật nhất định
và chịu sự quản lý của ngành (Bộ). Mặt khác, các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế - kỹ
thuật khác nhau đều được phân bổ trên những địa bàn nhất định, chúng có quan hệ mật thiết
với nhau về kinh tế và gắn bó với nhau trên các mặt xã hội, tạo nên một cơ cấu kinh tế - xã
hội và chịu sự quản lý của chính quyền địa phương. Đây là sự thống nhất giữa hai mặt: Cơ
cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung.
Các hoạt động quản lý theo ngành của cơ quan nhà nước nhằm đề ra các chủ trương,
chính sách phát triển toàn ngành, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh tế phát huy
tính chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh. Cần nhấn mạnh rằng,
quản lý theo ngành ở đây là quản lý về mặt nhà nước: nhà nước đề ra chủ trương chính sách,
xây dựng chiến lược, sử dụng các đòn bẩy... còn quản lý sản xuất kinh doanh là quyền chủ
động của đơn vị sản xuất kinh doanh.
Nội dung quản lý theo lãnh thổ nhằm tổ chức sự điều hoà phối hợp các hoạt động của các
ngành, các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng...
trên phạm vi cả nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ với mục tiêu bảo đảm
pháp chế XHCN, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân về mọi mặt.
e. Nguyên tắc phân biệt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất
kinh doanh.
Nhà nước ta nắm quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất chủ yếu, có khả năng, nhiệm
vụ tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô cả nước trực tiếp tổ chức và quản lý
12

12


các thành phần kinh tế nhưng nhà nước không phải là người trực tiếp kinh doanh. Nhà nước
tôn trọng tính độc lập tự chủ của các đơn vị kinh doanh. Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế của nhà nước hiện nay, trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh
nghiệp, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Định hướng và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua kế hoạch và các chính sách
kinh tế
- Hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển kinh
tế và phát triển xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia
- Tổ chức nền kinh tế và điều chỉnh bằng các công cụ và biện pháp vĩ mô.
- Tổ chức và giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh tế.
Nhà nước thực hiện các chức năng trên thông qua một hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước; thông qua việc tổ chức hệ thống các tổ chức kinh tế của nhà nước; thông qua việc
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh có tư cách pháp
nhân, hoạt động kinh doanh bình đẳng với nhau trước pháp luật; có quyền tự chủ về tài chính
và thực hiện hạch toán kinh tế; có nhiệm vụ phát huy năng lực kinh doanh có hiệu quả đạt
mục tiêu thu lợi nhuận cao trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý bằng pháp luật của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Việc phân biệt và kết hợp tốt hai chức năng này với nhau trong một hệ thống thống nhất tạo
điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế và hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu
lực tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
g. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là một nguyên tắc Hiến định.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều phải dựa
trên cơ sở pháp luật. Điều đó có nghĩa là hệ thống hành chính nhà nước phải chấp hành luật
và các quyết định của Quốc hội trong chức năng thực hiện quyền hành pháp; Khi ban hành
các quyết định quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật và các
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Để thực hiện nguyên tắc này, cần làm tốt các nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.

- Tổ chức thực hiện tốt pháp luật đã ban hành
- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
- Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.
Liên hệ
1. Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ
13

13


Thời gian qua, việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, Nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc thực hiện quy
chế dân chủ trong hoạt động cơ quan, cấp ủy và chính quyền ở địa phương đã có tác động
tích cực đến việc củng cố mối quan hệ giữa Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể tạo
nên sự đồng bộ, đoàn kết, nhất quán trong việc lãnh chỉ đạo và điều hành mọi hoạt động
của cơ quan, phát huy quyền làm chủ của cán bộ công chức và quần chúng nhân dân,
nâng cao thêm tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, tạo dựng bầu
không khí dân chủ, cởi mở và tăng cường sự đồng thuận trong xã hội
Ở nước ta hiện nay, nhờ sự niêm yết, công khai hàng năm những việc cán bộ - công
chức phải được biết và thực hiện tốt quy định những việc cán bộ - công chức tham gia ý
kiến, hoạt động của đơn vị đã có những chuyển biến tích cực như: việc giải quyết nội dung
đơn thư khiếu nại, tố cáo và công khai thông báo trong hội nghị cán bộ, công chức kết
luận giải quyết đã có tác dụng ngăn ngừa và làm giảm những sai phạm của cán bộ công
chức trong đơn vị một cách rõ rệt, đơn vị nhiều năm liền không xảy ra các vụ việc tiêu cực,
tham nhũng. Việc quy định niêm yết công khai các trình tự thủ tục hành chính và quy định
trách nhiệm rõ ràng của bộ phận tiếp dân, của những người đứng đầu các bộ phận đã
buộc người quản lý, nhân viên thừa hành và cả những người thực hiện thủ tục đều có thể
tự kiểm tra lẫn nhau, hạn chế sự nhũng nhiểu, hạch sách và nhờ đó hiệu quả giải quyết
công việc đã tăng lên, rút ngắn được thời hạn giải quyết và đáp ứng phần nào nhu cầu

của tổ chức, công dân. Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đề bạt
cán bộ, công chức cũng được thực hiện đúng quy định, việc thông báo và xin ý kiến đóng
góp về kế hoạch công tác, kế hoạch phát triển ngành được thảo luận, xin ý kiến đóng góp
công khai ... đã tạo nên sự ổn định và đồng thuận của đơn vị trong quá trình thực hiện.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có khi vẫn còn mang tính hình
thức và những hạn chế trong quá trình thực hiện nguyên tắc này không chỉ riêng ở địa
phương mà còn là tình hình chung của cả nước. Việc hình thành và thông qua các quyết
định, chủ trương, chính sách, phương hướng, nghị quyết của Nhà nước, của tỉnh, huyện,
của đơn vị .. về nguyên tắc phải thu hút được sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của cán bộ, đảng
viên; phải được thảo luận thẳng thắn, triệt để. Song, trên thực tế có tình trạng không ít
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân không thật sự tích cực tham gia ý kiến vào việc
xây dựng các văn bản trên, đồng thời cũng không phải mọi ý kiến của quần chúng nhân
dân đều được phản ánh tới các cấp lãnh đạo. Tình trạng dân trí, trình độ văn hóa thấp
cũng chính là nguyên nhân làm hạn chế mức độ dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp ý thức tự giác về dân chủ của người dân, kể cả cán bộ công nhân viên chưa
cao, đôi khi vì quá bận những công việc khác nhưng cũng có khi xem nhẹ nên không tham
gia đóng góp ý kiến. Thực tế một số trường hợp ý kiến của người lãnh đạo vẫn dường như
có "sức nặng" quyết định cuối cùng; ý kiến thuộc thiểu số rất ít khi được đặt lại để xem xét.
Thực tế, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ dễ có sai phạm về phía này hay về
phía khác. Lãnh đạo của Ðảng, nhà nước là lãnh đạo tập thể, tập thể giao cho cá nhân phụ
trách một số công tác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì nguyên tắc này thiếu rõ
14

14


ràng trong ranh giới giữa "lãnh đạo" và "phụ trách". Khi công việc thành công thì thành
tích thường được quy về cá nhân một số người lãnh đạo, còn khi thất bại trách nhiệm đổ
cho tập thể. Chế độ lãnh đạo tập thể - trên thực tế - chưa thật sự thúc ép người lãnh đạo
phải năng động, sáng tạo, thật sự dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

Một trong những khâu phức tạp và khó khăn nhất trong thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ là trong công tác tổ chức - cán bộ. Chúng ta biết rằng để thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung trong quản lý, Ðảng phải thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, đồng thời phải đề cao trách nhiệm của các tổ chức
và người đứng đầu tổ chức. Việc chọn lựa người lãnh đạo đứng đầu rất quan trọng và
quyết định rất lớn đến sự vận hành của cả hệ thống tổ chức, cơ quan đó. Tuy nhiên, đây
cũng là khâu còn còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc dân chủ, tập thể đòi hỏi phải lấy phiếu tín
nhiệm của cán bộ, đảng viên về cán bộ dự kiến bổ nhiệm và chỉ xem xét người được đa số
phiếu tín nhiệm. Đa số trường hợp thì việc này diễn ra thuận lợi nhưng ở nơi bè phái, cục
bộ thì kết quả bỏ phiếu tín nhiệm không phản ánh đúng đánh giá và tín nhiệm đối với cán
bộ, người được đa số phiếu chưa hẳn đã xứng đáng.
Mặt khác, một số người lợi dụng “dân chủ” để thực hiện những yêu sách vượt quá
khuôn khổ luật pháp, coi thường kỷ cương phép nước. Đặc biệt trong vấn đề thực hiện
giải phóng mặt bằng, một số người dân đã được đền bù đúng quy định nhưng vẫn cố tình
không bàn giao mặt bằng và kích động nhiều người khác tham gia đòi tăng tiền đền bù.
Một số người dân đã được giải quyết khiếu nại tố cáo đúng pháp luật, chính sách nhưng
vẫn không chịu thực hiện quyết định và đến cơ quan nhà nước nhiều lần gây rối mất trật
tự, thậm chí thách thức cả công an, cả chính quyền.
Tóm lại, nguyên tắc tập trung dân chủ là rất cần thiết trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, nhưng việc nhận thức và vận dụng đúng nó đòi hỏi phải xử lý thận trọng,
tinh tường từng vấn đề, từng trường hợp cụ thể. Buông lỏng sự lãnh đạo tập trung vừa
mở đường cho sự tự do vô kỷ luật, vừa đẩy dân chủ đến chỗ mất phương hướng và vô giá
trị. Thu hẹp dân chủ không những làm triệt tiêu sức mạnh tập thể, mà còn khiến cho sự
lãnh đạo tập trung phạm phải sai lầm. Trong thực tể lãnh đạo đơn vị, muốn điều hành tốt
và hiệu quả thì phải lắng nghe, phát huy dân chủ trong thảo luận, chọn lựa phương án
thực hiện nhưng sau cùng người quản lý phải biết chọn lựa ý kiến tập trung nhất, hợp lý
nhất để quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm với quyết định của mình.
2. Đối với nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
Nhà nước
Việc bảo đảm nhân dân tham gia quản lý hành chính nhà nước trong những năm gần

đây vẫn còn nhiều hạn chế. Đối với hình thức tham gia gián tiếp, ngoài sự hạn chế từ
những cơ chế quy định hiện hành, sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý nhà nước
phụ thuộc rất nhiều vào phương thức lựa chọn người đại diện và vào phương thức hoạt
động của các cơ quan đó. Bản thân người dân, do trình độ nhận thức, nhất là trình độ
pháp lý, cũng chưa thấy hết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với việc tham gia
quản lý nhà nước, chưa làm hết sức mình khi tham gia quản lý nhà nước ở hình thức này.
15

15


Điều này được thể hiện ở sự bỏ phiếu lấy lệ, cho xong của nhiều người trong các lần bầu
cử .
Trong sự tham gia gián tiếp của nhân dân với hoạt động quản lý nhà nước còn có một
hình thức nữa là tham gia thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã
hội nghề nghiệp mà họ là thành viên. Theo hình thức này, những nguyện vọng, ý kiến của
người dân được các tổ chức đó tập hợp lại để chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước xem xét, giải quyết. Đã có một thời gian dài chỉ có các tổ chức chính trị - xã hội
hoạt động, các tổ chức xã hội và xã hội nghề nghiệp không phát triển. Những ý kiến
nguyện vọng của nhân dân chủ yếu thực hiện thông qua các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy
nhiên, do nhiều lý do, các tổ chức này tổ chức và hoạt động như những cơ quan nhà nước,
xơ cứng, hành chính hóa cả về tổ chức và phương thức hoạt động, nên chức năng đại diện
cho dân trước cơ quan nhà nước bị hạn chế. Hiện nay, trong điều kiện đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội đã có
những thay đổi trong tổ chức và phương thức hoạt động, gắn chặt hơn với quần chúng,
với các đoàn viên, hội viên. Đồng thời, trong xã hội, những tổ chức xã hội, tổ chức nghề
nghiệp cũng được phát triển mạnh. Tình hình đó cho phép nhân dân có khả năng tham gia
nhiều hơn trong hoạt động quản lý của nhà nước, từ việc phản biện các chính sách, pháp
luật của Nhà nước, giám sát sự thực hiện của các cơ quan nhà nước và của công chức,
cũng như đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình cho các cơ quan nhà nước xem xét, thực

hiện.
Bên cạnh hình thức gián tiếp, nhân dân còn tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản
lý nhà nước. Theo Hiến pháp quy định, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề hệ trọng
của đất nước thông qua trưng cầu dân ý và trực tiếp quyết định nhiều vấn đề liên quan
đến đời sống ở cơ sở. Tuy nhiên, đến nay vấn đề trưng cầu dân ý vẫn chưa được triển khai
thực hiện. Riêng đối với việc quyết định trực tiếp các vấn đề liên quan đến đời sống dân
chủ ở cơ sở, mặc dù đã có Chỉ thị số 30 của Đảng và Nghị định số 29/1998/NĐ-CP của
Chính phủ nhưng tình hình vẫn còn rất nhiều khó khăn. Ngoài việc quyết định xây dựng
các hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư, các hoạt động tham gia quyết định các vấn
đề về quy hoạch sản xuất, về sử dụng đất đai, về cán bộ địa phương... vẫn đang vấp phải
những trở ngại kể cả phía người dân cũng như từ cán bộ, chính quyền cơ sở. Nhiều địa
phương, cán bộ chính quyền cơ sở tập trung vào hoạt động xây dựng các hương ước, quy
ước của dân, bắt dân chịu nhiều quy định hơn là việc thực hiện công khai, xin ý kiến nhân
dân về các việc làm của chính quyền. Về phía người dân, do trình độ, do những mối quan
hệ thân thiết và do sự chưa nghiêm minh trong việc xử lý vi phạm của cán bộ nên họ cũng
ít bày tỏ chính kiến của mình, trừ khi các vấn đề đã trở nên quá bức xúc. Chính điều này đã
không chỉ hạn chế quyền tham gia quản lý nhà nước của người dân, không huy động được
sức mạnh của nhân dân trong việc quản lý, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà
còn là căn nguyên của sự xuất hiện các vụ khiếu kiện kéo dài, những điểm nóng tại một số
cơ sở.
16

16


Ngoài những hình thức nêu trên, người dân có thể tham gia ý kiến vào các văn bản
pháp luật khi được công bố hỏi ý kiến qua báo chí. Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp
nhiều khó khăn, hạn chế. Người dân ít có những ý kiến đóng góp với chính quyền và các cơ
quan nhà nước trừ khi có những vấn đề bức xúc của bản thân. Khi có các văn bản xin ý
kiến tham gia đóng góp đăng trên các cơ quan báo chí cũng chỉ có số ít những người có ý

kiến. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan và công chức
nhà nước; thực hiện khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của các cơ quan và
công chức nhà nước của người dân cũng còn hạn chế.
3. Đối với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Nền hành chính Việt Nam được tổ chức và thực hiện trên cơ sở hệ thống các nguyên tắc
quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc này là tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam để
hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện có hiệu quả. Trong hệ thống các
nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp
với quản lý theo địa phương là một nguyên tắc mang tính kỹ thuật của hoạt động quản lý
nhưng thực sự đóng vai trò quan trọng khi nhà nước ta chú trọng chuyển đổi từ cơ chế
quản lý tập trung sang cơ chế phân cấp quản lý, phát huy được thế mạnh của địa phương.
Việc tạo điều kiện cho các địa phương quyền chủ động sáng tạo trong quản lý nhưng phải
bảo đảm được sự phát triển một cách đồng bộ, thống nhất trong cả nước đã đòi hỏi phải
có sự kết hợp trong quản lý giữa địa phương với trung ương, với cơ quan quản lý ngành.
Hiện nay, việc kết hợp quản lý giữa ngành với địa phương đã được thực hiện và đạt
được những thành tựu đáng kể song việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn vẫn
còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của đời sống xã hội. Sự không
thống nhất trong quản lý giữa các bộ ngành và địa phương; sự phối hợp kém hiệu quả
trong hoạt động ban hành văn bản của các địa phương vẫn còn nhiều văn bản trái với quy
định của ngành; sự không đồng bộ trong công tác thực hiện các quy định của ngành tại
các địa phương ; tình trạng “mạnh ai nấy làm” hay công tác kiểm tra, giám sát thực hiện
các quy định của ngành tại các địa phương cũng chưa được quan tâm đúng mức... Những
hạn chế này dẫn tới hiệu quả quản lý nhà nước còn yếu kém.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (Ngày 18
tháng 12 năm 1986) đã chỉ ra rằng: “ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Nêu cao vị trí
và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho các cơ quan dân
cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật. Phân định rành mạch
nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của cơ quan nhà nước từng cấp theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành, chức năng với quản quản lý theo địa phương và

vùng lãnh thổ…”. Vì vậy, trong thời gian tới để quản lý tốt hơn cần phải triển khai thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc này tại các địa phương và các bộ, ngành trong cả nước.
III. Thể chế hành chính nhà nước
1. Một số vấn đề chung về thể chế hành chính nhà nước
17

17


a. Khái niệm thể chế hành chính nhà nước
Thể chế hành chính là một hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật tạo khuôn
khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước; một mặt thực hiện chức năng quản lý,
điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như mọi tổ chức và cá nhân sống và làm
việc theo pháp luật; mặt khác là các quy định về các mối quan hệ giữa các cơ quan hành
chính nhà nước và nội bộ bên trong của các cơ quan này.
b. Các yếu tố cấu thành thể chế hành chính nhà nước
- Hệ thống các văn bản pháp luật do nhà nước đặt ra để quản lý sự phát triển kinh tế-xã
hội
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền
của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ TW đến cơ sở
- Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ và các quy chế công chức
- Hệ thống các chế định về tài phán HC nhằm giải quyết những mâu thuẫn phát sinh khiếu
nại, tố cáo của các cơ quan HCNN đối với công dân, đối với các tổ chức xã hội
- Hệ thống các thủ tục HC nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân
và các tổ chức xã hội.
c. Phân biệt thể chế nhà nước và thể chế hành chính nhà nước
- Thể chế nhà nước: bao trùm toàn bộ hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước (cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp)
- Thể chế hành chính nhà nước: chỉ bao gồm các loại thể chế của các cơ quan hành chính
nhà nước, là một bộ phận của thể chế nhà nước

2. Phân tích các yếu tố tác động đến thể chế hành chính nhà nước. Liên hệ với thể
chế hành chính Nhà nước Việt Nam?
Thể chế hành chính là một hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật tạo khuôn
khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước; một mặt thực hiện chức năng quản lý,
điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như mọi tổ chức và cá nhân sống và làm
việc theo pháp luật; mặt khác là các quy định về các mối quan hệ giữa các cơ quan hành
chính nhà nước và nội bộ bên trong của các cơ quan này.
Thể chế hành chính nhà nước là một bộ phận của thể chế xã hội, do nhà nước xây dựng
để điều tiết các hoạt động tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước và quản lý của bộ máy nhà
nước đối với xã hội. Do đó, hệ thống thể chế hành chính nhà nước chịu ảnh hưởng chủ yếu
của các yếu tố sau:
Chế độ chính trị (môi trường chính trị)
Nhà nước trước hết là công cụ trong tay giai cấp thống trị để giúp giai cấp đó thực hiện
các mục tiêu chính trị của mình. Do đó, mọi hoạt động của nhà nước đều không thể đi ngược
lại các mục tiêu chính trị. Các quy định về sự điều tiết của nhà nước đối với xã hội cũng phải
phù hợp với những định hướng chính trị trong xã hội. Chính vì vậy, những định hướng chính
trị có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ hệ thống thể chế nhà nước nói chung và thể chế nhà nước
hành chính nói riêng.
18

18


Nền kinh tế và vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế
Các quy định điều tiết hoạt động của các đối tượng trong xã hội phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế – xã hội. Vai trò và mức độ điều tiết của Nhà nước đối với các quá trình
kinh tế – xã hội diễn ra ở các nước khác nhau không giống nhau. Sự thay đổi trong môi
trường kinh tế – xã hội buộc hệ thống thể chế hành chính nhà nước phải thay đổi theo, thích
ứng với những thay đổi trong xã hội để có thể quản lý xã hội một cách hiệu quả nhất.
Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân tộc

Mỗi dân tộc trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài đều có những đặc điểm
truyền thống, văn hóa riêng, không giống với các dân tộc khác. Do đặc tính này mà mọi quy
định để điều tiết hành vi của các đối tượng trong xã hội phải được xây dựng phù hợp với các
chuẩn mực chung được thừa nhận trong truyền thống , văn hóa. Một hệ thống thể chế chỉ tốt
và được tự nguyện áp dụng khi nó phát huy được những ưu điểm của các giá trị truyền thống,
nhưng đồng thời cũng phải loại bỏ đi những nhược điểm của truyền thống như những hủ tục
lạc hậu, tư duy bảo thủ…
Các yếu tố quốc tế (yếu tố bên ngoài)
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mỗi quốc gia nếu muốn phát triển không thể nằm
ngoài mối liên hệ với các quốc gia khác. Sự giao thoa văn hóa, tri thức và các giá trị chung
của văn minh nhân loại cũng tác động không nhỏ tới sự hình thành và phát triển của hệ
thống thể chế hành chính nhà nước. Sự ràng buộc pháp lý đối với một quốc gia chấp nhận
khi tham gia các cấu trúc quốc tế có ảnh hưởng to lớn tới hệ thống thể chế của quốc gia đó.
Ngoài ra, những nhân tố khác như hoàn cảnh địa lý của một quốc gia, những thay đổi kinh tế,
chính trị diễn ra trên thế giới ở những mức độ khác nhau cũng gây ảnh hưởng tới các đặc
điểm của thể chế hành chính nhà nước.
Liên hệ với thể chế hành chính Nhà nước Việt Nam?
Ở nước ta, mặc dù là một nước XHCN của nhân dân, do nhân dân nhưng những yếu tố
ảnh hưởng đến thể chế hành chính cũng giống như các quốc gia, dân tộc khác, bao gồm 4
yếu tố
Ảnh hưởng của chế độ chính trị
Đối với Việt Nam, hệ thống chính trị bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và
Nhân dân vận động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Mối
quan hệ và sự vận động của hệ thống chính trị đó quyết định trực tiếp tới nội dung của thể
chế hành chính nhà nước.
Thể chế hành chính nhà nước đều phải hướng theo sự chỉ đạo thông qua các Nghị quyết
của Đảng theo các kỳ đại hội. Thể chế hành chính nhà nước cũng cần đảm bảo được vấn đề
dân chủ của nhân dân trong khuôn khổ pháp luật vì Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ
XHCN.
Thể chế hành chính nhà nước cũng phải đảm bảo tính nhân đạo của nền hành chính nhà

nước, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị có quyền ban hành các văn bản QPPL để thể hiện ý
chí của nhà nước và quyền lực của Nhân dân
19

19


Nhà nước dân chủ XHCN là nhà nước thực sự “của dân, do dân, vì dân”, vì vậy thể chế
hành chính nhà nước mang tính chất và nội dung chính trị của nền dân chủ XHCN, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân được PL quy định, điều này đòi hỏi các cơ quan nhà nước
cũng phải tuân thủ thể chế đặt ra
Ví dụ: Hiến pháp nước CHXHCNVN bên cạnh các nghĩa vụ mà công dân phải thực hiện
thì Hiến pháp ghi nhận các quyền, lợi của công dân nhằm đảm bảo tính chính trị nền dân chủ
XHCN.
Vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế
Thể chế kinh tế nhà nước là nền tảng cơ bản để các cơ quan hành chính nhà nước tiến
hành các họat động quản lý nhà nước cần thiết theo chức năng của mình. Sự thay đổi về cơ
cấu kinh tế, các mối quan hệ kinh tế đặt ra yêu cầu thể chế hành chính nhà nước phải phù
hợp cơ chế kinh tế mới.
Phát huy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay chính là cách thiết thực góp phần bảo đảm công bằng xã hội, vì sự phát triển
dân chủ, văn minh của đất nước, song vẫn giữ được bản sắc chính trị – xã hội của dân tộc
trong thời kỳ hội nhập toàn cầu. Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế
không chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn
xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng
chủ quan (ý chí của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi
ích hợp lý của doanh nhân, thì việc ưu tiên bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc. Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu

tiên đó, thể hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:
Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở hữu tập thể, hình
thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm
cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế
tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách… tạo điều kiện thuận lợi
cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham gia quá trình
hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh
nghiệp.
Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình
hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực – trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước – để định
hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo
lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội;
hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa…
Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to lớn trong
việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định” ở đây thể
20

20


hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng
thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và
kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do
Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là những
công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng
kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu
chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế…; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu

cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội, bởi mục
tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là góp phần
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội
hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế
tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể
kinh tế khác nhau… là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
Công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát triển và
tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong những mục tiêu của quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước hướng tới là xóa bỏ tình
trạng vi phạm công bằng xã hội. Đây là một nhiệm vụ lâu dài. Ở nước ta hiện nay, công bằng
xã hội trên lĩnh vực kinh tế được biểu hiện không chỉ ở chỗ lao động ngang nhau thì được
hưởng thụ ngang nhau, mà còn ở chỗ cống hiến - đóng góp cả về vật chất lẫn tinh thần trong
quá khứ cũng như trong hiện tại - ngang nhau cho sự phát triển đất nước thì được hưởng
ngang nhau. Từ đó, việc bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện
đầy đủ ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản
của Nhà nước ta trong việc thực hiện chức năng phát triển, tăng trưởng kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán
Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tạp nên chuẩn mực chung buộc xã hội thừa
nhận đã gây ảnh hưởng đến việc hình thành nên những đặc điểm trong thể chế hành chính
nhà nước. Cụ thể: tác động hai chiều
+ Tác động tích cực: hình thành nên giá trị chuẩn mực, giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc như uống nước nhớ nguồn, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc....Ví dụ: Nghỉ lễ 10-3.
Nghỉ 30-4. Nghỉ Quốc khánh 2-9...thể hiện tinh thần yêu nước, nhớ về cội nguồn...
+ Tác động tiêu cực: các hủ tục, yếu tố bản địa, tôn ti trật tự của chế độ phong kiến...ảnh
hưởng tới hiện tại mà cả mai sau. Ví dụ: Tư tưởng chế độ phong kiến còn rơi rớt lại như
trọng nam khinh nữ gây tình trạng sinh đẻ không có kế hoạch ảnh hưởng tới đời sống gia
đình, đến chính sách của nhà nước...
Ảnh hưởng của văn hóa bên ngoài

Sự phát triển nhanh chóng quá trình quốc tế hóa cao, các mối giao lưu về kinh tế, văn hóa
đã ảnh hưởng đến thể chế hành chính. Cần vận dụng sáng tạo vào thể chế nền hành chính để
thể chế ngày càng hoàn thiện
21

21


việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tham gia ký kết TPP, cộng
đồng kinh tế ASEAN... có ảnh hưởng lớn tới hệ thống các quy định về thuế nhập khẩu:
chúng ta không thể tự mình quyết định tỷ lệ đánh thuế như trước đây mà phải căn cứ vào các
hiệp định đa phương được thừa nhận chung trong WTO và những thỏa thuận chúng ta ký kết
khi tham gia tổ chức này. Cũng nhờ hội nhập mà thể chế nhà nước có sự đổi mới mạnh mẽ,
hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ hơn. Việc giảm 30% thủ tục hành chính mà
Việt Nam đang làm một phần cũng nhờ sức ép của hội nhập.
3. Phân tích vai trò của thể chế hành chính nhà nước trong hoạt động quản lý nhà
nước? Để hoàn thiện thể chế hành chính ở Việt Nam hiện nay theo anh/chị cần
phải quan tâm những vấn đề gì?
Thể chế hành chính là một hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật tạo khuôn
khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước; một mặt thực hiện chức năng quản lý,
điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như mọi tổ chức và cá nhân sống và làm
việc theo pháp luật; mặt khác là các quy định về các mối quan hệ giữa các cơ quan hành
chính nhà nước và nội bộ bên trong của các cơ quan này.
Vai trò của thể chế hành chính Nhà nước:
1. Thể chế hành chính nhà nước là cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý của nền HCNN
Hoạt động quản lý của các cơ quan HCNN là sự tác động của quyền lực nhà nước
đến các chủ thể trong xã hội: công dân và tổ chức, thể nhân hay pháp nhân, công pháp hay
tư pháp (công quyền) mang đặc trưng cưỡng bức kết hợp với thuyết phục, giáo dục.
HCNN phải hợp pháp và đòi hỏi công dân, tổ chức xã hội phải thực hiện pháp luật.
Thể chế HCNN với một hệ thống pháp luật (bao gồm Luật, các văn bản pháp quy

dưới Luật) do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành chính là cơ sở pháp lý cho
các cơ quan HCNN, các cấp thực hiện quản lý, bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước trên
phạm vi quốc gia.
- Hệ thống văn bản luật ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh, hoàn thiện. Nhà nước
ngày càng hướng đến một Nhà nước dân chủ hiện đại, pháp quyền với ý nghĩa đầy đủ của
nó thì tính hiệu lực của các thể chế Nhà nước và các thể chế HCNN ngày càng được nâng
cao.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực của pháp luật là một yếu tố đảm
bảo cho hệ thống HCNN quản lý tốt đất nước theo hướng Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật và mọi công dân, mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức xã hội bình đẳng trước
pháp luật.
2. Thể chế HCNN là cơ sở cho việc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước.
22

22


Một trong những vấn đề quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở
mọi quốc gia là vấn đề quyền lực và sự phân chia, phân công thực thi quyền lực đó giữa
các cơ quan nhà nước cũng như giữa các cấp chính quyền nhà nước.
Trong nhà nước hiện đại, Hiến pháp là đạo luật cơ bản xác định những thể thức
giành và thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Nó quy định về thể chế chính
trị, tức là tổng thể các vấn đề nguồn gốc, chủ thể và cơ chế phân bố quyền lực giữa các cơ
quan và quyết định những thể thức liên hệ với nhau trong các mối quan hệ ngang dọc,
trên dưới.
Thể chế tổ chức bộ máy HCNN là một vấn đề được mọi quốc gia trên thế giới quan
tâm dựa trên những quan điểm, nguyên tắc nhất định. Cách thức tổ chức đó phải được thể
chế hoá trong văn bản pháp luật của Nhà nước. Thể chế HCNN về tổ chức xác định cụ thể
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm cũng như các phương tiện kỹ
thuật vật chất, nhân sự cho các cấp đó hoạt động.

Thể chế HCNN quy định sự phân chia chức năng, quyền hạn giữa các cơ quan hành
chính của Chính phủ trung ương và giữa các cấp một cách cụ thể: Chính phủ trung ương,
các Bộ có quyền trên những vấn đề gì; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở địa
phương có những quyền gì; mối quan hệ giữa các cơ quan của bộ máy hành chính trung
ương và giữa trung ương với các cấp chính quyền địa phương như thế nào; thẩm quyền
về việc ban hành các văn bản pháp luật như thế nào; nhiều vấn đề chi tiết khác về tổ chức
các cơ quan HCNN phải được quy định.
Thể chế HCNN càng rành mạch thì cơ cấu tổ chức của bộ máy các cơ quan HCNN
các cấp càng rõ ràng và gọn nhẹ. Thiếu các quy định cụ thể, khoa học trong việc phân chia
quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ trong hoạt động quản lý Nhà nước của các cơ quan
HCNN sẽ làm cho bộ máy HCNN cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo và sẽ dẫn đến
một bộ máy hoạt động kém năng lực, kém hiệu lực và hiệu quả. Vấn đề phân công, phân
chia quyền hạn trong tổ chức bộ máy hành chính sẽ là cơ sở cho việc xác định:
- Cơ quan HCNN cần bao nhiêu Bộ, bao nhiêu đầu mối thực hiện chức năng quản lý
HCNN thống nhất trên tất cả lĩnh vực.
- Có bao nhiêu đơn vị chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TRUNG ƯƠNG ,
huyện, quận, thị xã, xã phường và thị trấn; những căn cứ chính trị, kinh tế, xã hội và
những tiêu chí gì để xác định số lượng và quy mô của các đơn vị hành chính lãnh thổ.
Nghiên cứu phân chia một cách khoa học chức năng, quyền hạn của bộ máy HCNN
để huy động cao nhất mọi khả năng của các chủ thể trong hoạt động quản lý là một trong
những vấn đề và là nội dung quan trọng của thể chế HCNN.
23

23


3. Thể chế HCNN là cơ sở xác lập nhân sự trong các cơ quan HCNN
Yếu tố con người trong các tổ chức nói chung và trong các cơ quan HCNN nói riêng
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Con người trong bộ máy đó có thể được đặt vào các vị trí
khác nhau.Về cơ bản có 3 loại:

- Những người có quyền ban hành các quyết định quản lý (các văn bản pháp luật)
bắt buộc xã hội , cộng đồng phải chấp nhận và thực hiện (công quyền).
- Những người trong bộ máy thực hiện chức năng tư vấn giúp cho những nhà lãnh
đạo ban hành quyết định (tham mưu, giúp việc).
chính.

- Những người thực thi các văn bản pháp luật, các thể chế, các thủ tục của nền hành

Nếu như chức năng, nhiệm vụ không được xác định một cách rõ ràng, khoa học thì
khó có thể bố trí hợp lý được từng người vào các chức vụ cụ thể. Thể chế hành chính
không cụ thể, khoa học sẽ không thể bố trí được cán bộ, công chức hành chính vào đúng vị
trí, những người có năng lực, có trình độ không được bố trí đúng vị trí trong khi đó có thể
bày ra quá nhiều đơn vị với chức năng, nhiệm vụ chồng chéo hoặc quá vụn vặt để có đủ
chỗ bố trí cán bộ một cách lãng phí.
Thể chế HCNN được hiểu rõ, quy định cụ thể chức năng quản lý hành chính và quyền
ban hành và giải quyết các đề nghị yêu cầu, khiếu nại tố cáo của công dân từ đó có thể xác
định rõ hệ thống các hoạt động cụ thể: Ai phải làm cái gì, được trao quyền gì và phải làm
như thế nào, do đó có thể bố trí được đội ngũ nhân sự hợp lý.
Thể chế hành chính nhà nước là cơ sở để xác định mối quan hệ giữa nhà nước với
công dân và tổ chức trong xã hội;
Nhà nước hiểu theo nghĩa hiện đại không có nghĩa chỉ thực hiện chức năng cai trị
mà ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò dịch vụ. Công chức trong bộ máy HCNN không chỉ là
người có quyền mệnh lệnh mà còn là “công bộc” của dân, người đầy tớ của dân. Các tổ
chức và công dân đòi hỏi Nhà nước ban hành các quyết định, tổ chức thực hiện các quyết
định để đáp ứng các loại yêu cầu của dân.
Sự quyết định mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân các tổ chức xã hội thể hiện ở 2
mặt:
+ Nhà nước với tư cách quyền lực công, có chức năng tạo ra một khung pháp lý cần
thiết (luật và các văn bản hệ thống lập quy) để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Như vậy
xét trên phương diện này, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các tổ chức xã hội

mang ý nghĩa không bình đẳng, có tính bắt buộc, cưỡng bức.
24

24


+ Nhà nước thể hiện quyền lực nhân dân và thực hiện dịch vụ công, có trách nhiệm
đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu chính đáng của công dân và tổ chức xã hội đã được pháp luật
ghi nhận. Mối quan hệ này, theo quan niệm nhà nước hiện đại để hiện công dân, tổ chức xã
hội là “khách hàng” của Nhà nước. Yêu cầu đòi hỏi của công dân trong khuôn khổ pháp
luật nhà nước quy định bắt buộc Nhà nước phải đáp ứng. Điều này phản ánh thực sự bản
chất của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thể chế hành chính xác định mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân cũng phản
ánh tính chất tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý Nhà nước. Xét về bản chất, Nhà
nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người dân có quyền và
nghĩa vụ tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân được thấm nhuần trong phương châm: “dân biết, dân làm,
dân bàn, dân kiểm tra”. Sức mạnh và hiệu lực của thể chế hành chính phụ thuộc vào việc
giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các tổ chức xã hội.
Ngoài ra, Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xác lập mức độ và phạm vi can
thiệp của nhà nước đối với hoạt động của các đối tượng trong xã hội;
Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để quản lý, điều chỉnh việc sử dụng các
nguồn lực của xã hội một cách có hiệu lực và hiệu quả.
* Để thể chế HCNN, phát huy được vai trò của mình trong hoạt động quản lý nhà
nước thì việc cải cách thể chế HCNN là việc làm hết sức cần thiết. Hội nghị lần thứ tám
(khoá VII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định cải cách thể chế HCNN ở nước
ta tập trung vào 5 vấn đề cơ bản:
- Cải cách một bước cơ bản hệ thống thủ tục hành chính nhằm góp phần giải quyết
tốt mối quan hệ giữa công dân, các tổ chức xã hội đối với Nhà nước.
Phân tích theo ý kiến cá nhân nhé

- Cải cách việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân với cán bộ, công
chức trong bộ máy HCNN và các tổ chức của bộ máy HCNN.
Phân tích theo ý kiến cá nhân nhé
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế mới đặc biệt là các thể chế về tài chính. Phân
tích theo ý kiến cá nhân nhé
- Đổi mới quy trình lập pháp lập quy ban hành các văn bản pháp luật Nhà nước.
Phân tích theo ý kiến cá nhân nhé
- Nâng cao kỷ luật và hiệu lực thi hành pháp luật.
25

25


×