Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP GIÚP học SINH lớp 6 7 học tốt GIỜ vẽ TRANH THEO đề tài ở TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.72 KB, 23 trang )

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6-7 HỌC TỐT GIỜ VẼ
TRANH THEO ĐỀ TÀI Ở TRƯỜNG THCS
1.Lý do chọn đề tài
- Mĩ thuật là loại hình nghệ thuật tạo nên các tác phẩm trên mặt phẳng,
bằng đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt. Là môn học có vai trò quan
trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Qua môn học giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh, giúp các em biết cách cảm thụ cái đẹp, từ đó biết cách rèn luyện
đôi bàn tay, trí óc của mình để tạo ra cái đẹp qua việc phát huy óc sáng tạo, tính
độc lập của mình. Môn mĩ thuật đã góp phần cùng với các môn học khác giáo
dục học sinh phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ.
Từ thực tế chúng ta nhận thấy học sinh tiểu rất ham thích học vẽ. Các em
biết vẽ trước khi biết viết. Nếu như chúng ta xây dựng cho các em có ý thức học
tập tốt, tạo ra không khí thoải mái “học mà vui- vui mà học ” thì sẽ đạt được
hiệu quả cao nhất.
Mĩ thuật là môn học mang tính thực hành, sáng tạo. Giáo viên cần vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy - học để phát huy tối đa tính tích cực của
học sinh trong học tập. Mặt khác tùy theo từng trình độ nhận thức và năng khiếu
của từng em, từng độ tuổi khác nhau mà giáo viên biết quá trình nhận thức diễn
ra ở từng em. Vậy không thể tác động đến quá trình nhận thức của các cá nhân
bằng một biện pháp giống nhau. Nên tổ chức cho học sinh các hoạt động theo
nhóm, cá nhân, tạo tình huống học tập, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, tìm cách
thể hiện theo cảm nhận riêng của mình, tránh rập khuôn, gò ép. Có học sinh ta
phải tác động từ từ, có học sinh phải vừa trực tiếp và vừa gián tiếp ở nhiều phía
mới nắm bắt được. Có học sinh chỉ cần tác động ít lâu đã nắm bắt ngay được nội
dung bài học. Nếu như giáo viên không gợi mở tạo hứng thú thì học sinh không
có sự ham thích tìm tòi trong học tập.
Đối với mỗi người giáo viên, việc dạy không chỉ đơn giản là đem kiến


thức sẵn có đến cho học trò, mà việc dạy chính là việc tìm và khơi dậy trong
lòng học trò những khả năng tiềm ẩn vốn có trong tâm hồn chúng, đúng như lời
của Galile vẫn nói:
- “ Chúng ta không thể dạy bảo cho ai bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể
giúp họ phát hiện ra những gì còn tiềm ẩn trong họ”. Và có lẽ, sẽ chẳng có ai tự
nhiên trở thành thiên tài, sẽ chẳng có ai tự nhiên trở thành bậc vĩ nhân và cũng
sẽ chẳng có ai tự nhiên trở nên tài giỏi nếu mỗi người không biết khai thác chính


khả năng tiềm ẩn của mình hoặc nhờ một động lực nào đó thúc đẩy khả năng
tiềm ẩn đó bùng phát.
Chính vì lẽ đó, nhiệm vụ của những người làm nghề giáo càng trở nên
gian nan khi : “ Không thể trồng cây ở những nơi thiếu sáng, cũng không thể
nuôi dạy trẻ với chút ít nhiệt tình” ( Karl Jung). Lòng nhiệt tình, sự đam mê
chính là yếu tố cần thiết nhất để tạo nên một tâm hồn cao đẹp ở người làm nghề
giáo. Đối với trẻ nhỏ, yếu tố đó càng quan trọng, bởi ở lứa tuổi càng nhỏ trẻ
càng dễ tiếp thu cả cái xấu và cái đẹp, chính vì lẽ đó, để giúp trẻ cảm nhận và
yêu cái đẹp đồng thời loại bỏ cái xấu để hoàn thiện chính mình thì người giáo
viên phải là người khởi đầu cho cái đẹp, đem đến cái đẹp và đổi mới mình để
ngày càng đẹp hơn, hoàn thiện hơn trong mắt học trò. Đẹp ở đây không đơn giản
là vẻ đẹp hình thức mà đẹp cả về tâm hồn, đẹp cả về tri thức. Vậy, làm thế nào
để đẹp hơn trong mắt học trò?
2.Mục đích nghiên cứu
Qua thực tế giảng dạy của bản thân cùng với quá trình học tập tại trường
ĐHVHTT&DLTH cũng như sự tích lũy được kinh nghiệm từ các bạn đồng
nghiệp, đặc biệt là việc từng bước đổi mới phương pháp dạy học, tôi luôn đặt
cho mình mục tiêu là: “Phải làm gì để đổi mới nhằm nâng cao chất lượng bài
dạy của mình” và để các em học sinh cảm nhận một cách sâu sắc về vẻ đẹp của
con người, thiên nhiên xung quanh mình qua đó phát huy được trí tưởng tượng
và óc sáng tạo, hình thành thị hiếu thẩm mỹ, hoàn thiện nhân cách thông qua nội

dung các bài học mĩ thuật.
Như chúng ta biết mĩ thuật là một bộ môn năng khiếu nên khả năng diễn
đạt những suy nghĩ, sáng tạo của các em bằng nét vẽ trên giấy là rất khó khăn.
Nhất là môn vẽ tranh đề tài. Vì thế trong bài học mà nhất là trong quá trình học
sinh thực hành rất dễ làm cho học sinh chán nản, mất hứng thú vì không biết thể
hiện ý tưởng của mình như thế nào.
Vì vậy tôi đã mạnh dạn đề ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 6-7 ở
trường THCS Quảng Minh học tốt giờ vẽ tranh theo đề tài để đồng nghiệp
tham khảo: Đó là mục đích để tôi viết SKKN này
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 6-7 trong trường THSC Quảng Minh
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Phân môn vẽ tranh
2.2. Những vấn đề cơ sở lí luận: nghiên cứu đề tài


Để đặt được mục tiểu giáo dục, trường chúng tôi đã duy trì đủ 14 môn
học- Mĩ thuật là một trong những môn học đó. Đặc trưng của môn học là không
nhằm đạo tạo ra họa sĩ tương lai hay tạo ra nhưng người chuyên làm về công tác
mĩ thuật mà nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản của cái đẹp, biết
vận dung vào trong cuộc sống hàng ngày. Hỗ trợ các em ở các môn học khác
giúp các em phát triển toàn diện, lâu dài về đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và
các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội phát triển, nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao, do vậy việc đào
tạo con người biết nhận thức, cảm thụ cái đẹp ngày càng quan trọng. Những
năm qua giáo dục thẩm mĩ đã trở thành môn học trong chương trình giáo dục
phổ thông, là một môn học độc lập, môn mĩ thuật có mục tiêu chương trình sách
giáo khoa, sách hướng dẫn, thiết bị riêng cho dạy và học, giáo viên được đào
tạo, kết quả học tập của học sinh được theo dõi và kiểm tra, đánh giá một cách

nghiêm túc. Việc giảng dạy môn mĩ thuật dân tộc đảm bảo cho các em có thể
giải quyết được các bài tập hằng ngày và hiểu về vẽ đẹp, về nền mĩ thuật truyền
thống, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho học sinh có hiệu quả cao hơn các môn
học khác.
2.2.1.Mục tiêu
- Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động của sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi sâu vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng bảo vệ
tổ quốc.
2.2.2. Nhiệm vụ
- Giáo dục học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dày về đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
- Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp nhằm học sinh cũng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở
và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung
học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi và cuộc sống lao động.
- Giáo dục trung học phổ thông nhăm giúp học sinh cũng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật hướng nghiệp, có điều kiện phát huy


năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng
1.1.Tình hình thực tế tại trường THCS Quảng Minh

1.1.1.Thuận lợi
- Mĩ thuật là môn học nghệ thuật, thu hút rất nhiều học sinh, trước kia
không có giáo viên chuyên môn học này, cho đây là môn học phụ, không được
đầu tư, không được quan tâm.Vì vậy dẫn đến học sinh thờ ơ, học không hiệu
quả.
- Cho đến nay các trường đã có giáo viên dạy mĩ thuật, phong trào học mĩ
thuật ngày càng sôi nỗi, hầu hết các em học sinh hào hứng với môn học và môn
học đã được chú ý, Bởi vì đặc thù của môn học đã được nhận thức khác so với
những năm trước. Tất cả mọi người đã hiểu đây là môn học nghệ thuật, môn học
có đóng góp rất lớn về việc giáo dục trẻ, môn học bổ ích góp phần không nhỏ
vào việt hình nhân cách và phát triển toàn diện cho học sinh vì vậy không ít giáo
viên, học sinh và các bậc phụ huynh luôn coi trọng và đầu tư cho môn học.
Trong mỗi giờ học, học sinh tự do suy nghĩ, tự nói lên tình cảm của mình, dựa
trên sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn. Qua đó các em thấy rằng mĩ thuật là
môn học bổ ích, lý thú và tươi vui, có tính giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cao, là
môn học bổ trợ tích cực cho các môn học khác. Vì thế các em sẽ đón nhận tiết
học một cách nhiệt tình và hào hứng.
1.1.2.Khó khăn
-Bên cạnh những thuận lợi như trên thì dạy và học môn mĩ thuật vẫn còn
gặp phải một số khó khăn:
- Do quan niệm của một số giáo viên, một số bậc phụ huynh về môn học
còn hạn chế, cho rằng đây là môn học phụ, chưa được coi trọng kết quả của giáo
viên chuyên môn, thiếu sự quan tâm mua sắm đồ dùng cho học sinh. Điều đó
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng học tập của giáo viên và học sinh, gây cho
học sinh cảm giác chán nản, không tự tin làm bài.
1.1.3.Trang thiết bị
Bên cạnh đó còn một số học sinh tỏ thái độ thờ ơ với môn học vì thực tế
đời sống dân trí còn nghèo, hầu hết là con em thuần nông nên điều kiện để phụ
huynh tập trung đầu tư cho học tập của các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến tinh thần học tập của các em.



Ngoài ra điều kiện nhà trường còn thiếu thốn như: Phòng học mĩ thuật,
mẫu vẽ cho học sinh, phương tiên dạy học, đồ dùng trực quan...do đó ảnh hưởng
lớn đến kết quả giảng dạy và học tập của các em. Vì vậy là giáo viên luôn tâm
huyết với nghề tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy- học cho
học sinh. Đó cũng chính là lý do tôi chọn nội dung nghiên cứu “Một số giải
pháp giúp học sinh lớp 6-7 học tốt giờ vẽ tranh theo đề tài ở trường THCS
Quảng Minh”
1.2.Tầm quan trọng của môn mĩ thuật
Mĩ thuật là một môn học cực kì quan trọng đối vối học sinh ở mọi lứa
tuổi. Nó được gắn liền với tâm sinh lí của các em, đó là hoạt động ham hiểu
biết. Các em ngoài nhu cầu về đồi sống vật chất còn có một nhu cầu rất quan
trọng đó là nhu cầu đời sống tinh thần. Từ thực tế chúng ta thấy trẻ biết vẽ trước
khi biết viết, dù ở bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào trẻ điều thích vẽ, vẽ theo tình
cảm, cảm xúc. Hàng ngày nếu chúng ta quan sát kĩ ta sẽ thấy các em ở mọi lứa
tuổi dù ngồi ở bất cứ đâu, trong nhà, ngoài sân hay bất cứ nơi nào các em điều
thích vẽ, chỉ cần trong tay có một cái bút, viên phấn, cục gạch hay cái que thì
chúng điều trở thành phương tiện cho các em vẽ, vẽ lên tường hay vẽ xuống đất
….
Là một giáo viên chuyên trách môn mĩ thuật đã lâu năm, tôi luôn trăn trở
làm thế nào để học sinh tham gia vào bài học một cách tích cực, sáng tạo. Từ
việc dạy học để đem lại kiến thức và niềm yêu thích hứng thú cho học sinh. Để
làm được điều đó người giáo viên ngoài việc phải yêu nghề, mến trẻ, trong giờ
học phải tạo được sự đa dạng các hoạt động trong giờ học. Trong các hoạt động
vui chơi được xem là hoạt động có hiệu quả để duy trì khả năng tập trung chú ý
của học sinh, từ đó sẻ tạo được không khí học tập vui vẽ và đặt hiệu quả tốt.
1.2.3.Kết quả điều tra trước khi thực hiện đề tài
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã cho kiểm tra 3 lớp trên 2 khôi 6-7 và đạt
kết như sau:

Lớp
Tổng số
Lỗi về bố cục
Lỗi về màu sắc
SL
%
SL
%
6A
28
9
32,1
7
25,0
6B
27
11
40,7
8
29,6
7A
31
9
29,0
8
25,8


2.Những giải pháp
- Để giúp học sinh có hứng thú học tập, góp phần nâng cao chất lượng giờ

học Mĩ thuật , tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
1. Giáo viên cần nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng của phân môn mĩ
thuật, xác định được mục tiêu của bài phải dạy cái gì và dạy như thế nào?
- xác định vị trí, nhiệm vụ môn Mĩ thuật cũng như tác dụng của việc dạy
học Mĩ thuật.
2. Có phương pháp học hợp lý trong phân môn, tự ý thức nâng cao kỷ
năng thực hành qua thời gian rèn luyện đạt hiệu quả cao nhất đối với sản phẩm
của mình làm ra.
3. Sưu tầm nhiều tư liệu, dụng cụ phục vụ cho phân môn vẽ tranh : Tranh,
ảnh, sách, họa phẩm,… phù hợp với phương pháp dạy- học và đối tượng học
sinh
4. Luôn luôn động viên, khuyến khích các em là điều cần thiết với việc
học vẽ
-Tạo được niềm tin trong học sinh, từ đó các em sẽ tự tin vào bài của bản
thân các em, tăng thêm tư duy về ý tưởng sáng tạo nghệ thuật, thị hiếu thẩm mĩ
của học sinh.
5. Muốn tạo được hứng thú cho các em trong tiết học, thầy cô giáo phải
giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức điều khiển mọi hoạt động nói chung cũng
như hoạt động nhận thức riêng của học sinh.
2.1. Biện pháp
Qua thực tiễn giảng dạy, đồng thời dựa vào những lí luận đã được học tập
nghiên cứu cùng với kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp tôi đã có những
biện pháp cụ thể sau:
* Muốn tạo được hứng thú cho các em trong tiết học, thầy cô giáo phải giữ
vai trò chủ đạo trong việc tổ chức điều khiển mọi hoạt động nói chung cũng như
hoạt động nhận thức riêng của học sinh. Giáo viên đóng vai trò là người hướng
dẫn, người huấn luyện, người tư vấn và bạn cùng học, tạo cơ hội để học sinh
phát huy hết khả năng học tập sáng tạo của mình .
* Bên cạnh đó: Mỗi khi đến trường, đến lớp tôi luôn tạo cho mình một tâm
thế vững vàng, bình tĩnh tự tin. Muốn vậy tôi phải tập cho mình một tác phong

nhanh nhẹn, giọng nói truyền cảm. Bước lên bục giảng tôi phải là một người
hoàn toàn mới, đầy nhiệt huyết với nhiệm vụ cao cả là đưa các em bước vào một
thế giới nghệ thuật của trí tưởng tượng, tính sáng tạo, thế giới của cái đẹp và tìm


hiểu nó thông qua các bài học vẽ tranh đề tài. Như vậy trong suốt giờ dạy mỹ
thuật cả thầy và trò đều trở thành những nghệ sĩ trên bục giảng và ở trên lớp.
* Cũng như các đồng nghiệp khác trước giờ lên lớp bao giờ tôi cũng chuẩn
bị nghiên cứu kỹ giáo án, tìm ra những phương pháp phù hợp cho từng bài dạy
và từng khối lớp khác nhau. Liên hệ ra một số môn học khác để bài dạy được
phong phú như môn: Hát nhạc, Văn, Sinh, lịch sử …
* Trong khi dạy giáo viên không nên phụ thuộc vào SGK mà bám sát vào
mục tiêu của bài học. Bên cạnh việc chuẩn bị giáo án tốt, tôi còn tự làm, sưu tầm
tài liệu, vẽ tranh phục vụ cho bài dạy của mình .
* Từ đó tôi rút ra kinh nghiệm: Muốn có được một giờ dạy vẽ tranh đề tài
tốt thì người thầy có một vai trò vô cùng quan trọng, nhất là việc tạo ra sự thích
thú, tạo ra được khí thế trong tiết học và có được một tiết học đạt hiệu quả cao
nhất.
2.1.1. Chuẩn bị và sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học
Tôi luôn nghĩ rằng: Trong một tiết học muốn gây được hứng thú và
sự thích thú cho học sinh thì việc chuẩn bị đồ dùng là rất quan trọng.
Giáo viên phải đầu tư cho việc chuẩn bị đồ dùng, thích hợp đáp ứng yêu
cầu bài dạy .
Đồ dùng dạy học phải có tính sư phạm, khoa học, thẩm mỹ, sáng tạo
không tùy tiện cẩu thả, đồ dùng phải phong phú và đa dạng.
Ngoài đồ dung, giáo viên phải sưu tầm thêm tranh vẽ của học sinh. Giúp
các em học tập kinh nghiệm của các bạn và biến nó thành kinh nghiệm của bản
thân. Khi vẽ tranh các em sẽ phát huy được những mặt tối đa và hạn chế những
mặt chưa tốt trong cách sắp xếp bố cục và sử dụng màu sắc trong bài.
Một số hình thức trực quan hết sức cần thiết khác chính là cuộc sống hàng

ngày đang diễn ra xung quanh các em.
VD1: Bài 20 – lớp 6, (tiết 23-24). Vẽ tranh: Đề tài ngày tết và mùa xuân
- Ở phần tìm chọn nội dung đề tài giáo viên bật băng hình clip quay
không khí ngày tết, lễ hội và mùa xuân cho học sinh xem (nếu có điều kiện )
hoặc treo tranh ảnh về ngày tết, lễ hội và mùa xuân ở nhiều góc độ .
- Giáo viên có thể vẽ thêm một số tranh phục vụ cho từng bài dạy và bằng
những chất liệu khác nhau như bút sáp, màu nước, màu bột …
-Theo tôi: Dạy mĩ thuật cũng phải tuân thủ theo phương pháp chung và có
những phương pháp riêng biệt. Tiết học có thành công hay không là phần lớn ở
người thầy, cô và muốn làm được điều này tôi cần phải nắm vững và thực hiện
thật tốt các bước, thao tác, kỹ năng của bộ môn.


2.1.2 Tạo tình huống mới vào phần giới thiệu bài
Đối với từng khối lớp khác nhau tôi chọn cách vào bài phù hợp có thể
dùng những bài hát, trò chơi, những hình ảnh liên quan đến đến bài học.
VD2: Khi dạy bài 27, (tiết 29-30) lớp 7. “Đề tài an toàn giao thông” tôi
cho các em quan sát các đoạn băng về những hình ảnh giao thông.
Khi các em quan sát xong tôi đặt câu hỏi:
Hỏi: Các em có suy nghĩ gì khi nhìn thấy những hình ảnh này?
(Nếu chúng ta không chấp hành đúng luật giao thông thì sẽ gây ra những
vụ tai nạn thương tâm).
Hỏi: Vậy chúng ta phải làm gì để hạn chế tai nạn giao thông?
(Hiểu luật và chấp hành đúng luật giao thông. Tuyên truyền cho mọi người
cùng thực hiện).
Hỏi: Các em tuyên truyền bằng những hình thức nào?
(Tuyên truyền bằng bài viết, hành động, bằng vẽ tranh)
Như vậy việc giới thiệu đối với một bài mới rất cần thiết và càng cần thiết
hơn nếu người giáo viên tìm được cách giới thiệu tạo được sự kích thích, hứng
thú đối với học sinh. Vậy để làm thế nào để có được cách vào bài như thế?

Theo tôi: Để làm được điều này người thầy trước hết phải tìm hiểu kỹ bài
dạy, bám sát vào mục tiêu của bài học để xem xét, tìm ra cách lạ hay tạo ấn
tượng và cụ thể hơn là cách chọn những hình ảnh phù hợp liên quan đến bài học.
2.1.3. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
Tạo hứng thú bằng cách đặt những câu hỏi kêu gợi thông tin, kích thích
tính tò mò của học sinh.
Mỗi giáo viên có một cách khai thác bài khác nhau, có thể cho các em khai
thác trên tranh ảnh, hoặc đặt câu hỏi trả lời.
Ở mĩ thuật, phương pháp vấn đáp được sử dụng nhiều. Phương pháp vấn
đáp kích thích được học sinh suy nghĩ, giúp học sinh hiểu, áp dụng vào bài vẽ
của mình.
VD3: Bài 5 (tiết 6-7) lớp 7“ Vẽ tranh đề tài: Tranh phong cảnh’’
Hỏi: Em hãy nêu thế nào là tranh phong cảnh?
(Tranh phong cảnh là tranh vẽ về cảnh vật xung quanh em. Tranh phong
cảnh vẽ cảnh là chính có thể điểm thêm người cho bức tranh thêm sinh động.)
Vì sao lại phải đặt câu hỏi như thế? Phải làm thế nào để có những câu hỏi
vừa sát nội dung của bài lại vừa dễ hiểu với học sinh? Để làm được điều này tôi
đã suy nghĩ và chắt lọc ra những câu hỏi không phải chỉ xoay quanh nội dung
bài học mà còn liên quan và thật gần gũi, quen thuộc với đời sống hàng ngày của


các em. Điều này sẽ thôi thúc học sinh phải tư duy, nghĩ lại những hoạt động đã
và đang xảy ra xung quanh mình.
Khi câu hỏi đưa ra giáo viên muốn nhiều cánh tay giơ lên xung phong trả
lời và mong được nhiều em trả lời đúng, nói hay. Nhưng nếu giáo viên chỉ chú ý
đến việc nêu câu hỏi mà không chú ý nghe câu hỏi hoặc việc làm khác thì học
sinh không còn hứng thú trả lời, các em sẽ thấy câu hỏi của mình không có giá
trị và không muốn phát biểu nữa và giáo viên phải chú ý đến từng nhận thức
của các em để khai thác nội dung
Để tình trạng này không bao giờ xảy ra, người thầy phải tôn trọng câu trả

lời của học sinh, chăm chú thực sự khi nghe học sinh trả lời và có thái độ với tất
cả các câu trả lời dù đúng hay chưa đúng. Không được chê bai hay phản đối câu
trả lời của học sinh dù là câu trả lời sai. Bởi khi học sinh trả lời các em đều nghĩ
cả thầy cô và các bạn đang chờ đợi ý kiến của mình mà khi trả lời xong cô lại
chê thì em đó sẽ xấu hổ với lớp như vậy các em sẽ sợ phát biểu và gây ra kết quả
không mong muốn trong giờ học.
- Hỏi: Em hãy cho biết bức tranh vẽ phong cảnh gì?
(Phong cảnh miền núi )
-Hỏi: Tranh vẽ những gì?
(Tranh vẽ nhà sàn, cây,có núi, mây trời… )
-Hỏi: Hình ảnh chính trong bức tranh là gì?
(Hình ảnh chính của bức tranh là những ngôi nhà sàn )
- Sau khi học sinh trả lời giáo viên phải chỉ vào những nơi, những hình ảnh
mà học sinh nói tới trong bức tranh. Có như vậy các em mới thấy rõ câu trả lời
của mình đúng hay chưa đúng. Sau mỗi câu trả lời của học sinh giáo viên cần
chốt và bổ sung cho học sinh nghe.
- Trong khi học sinh làm bài giáo viên phải nắm vững tâm lý của từng em
để từ đó xây dựng kế hoạch và phương pháp tác động vào các em, tạo ra được
không khí cạnh tranh trong học tập
- Khi đánh kết quả học tập của học sinh giáo viên cấn có một quấn sổ theo
dõi (nhật ký sư phạm) để theo dõi quá trình tiến bộ của học sinh trong học tập
- Không nên áp đạt lấy tiêu chuẩn đánh giá tranh vẽ của người lớn để đánh
giá các em. Dựa trên những yếu tố có thể phân loại và đánh giá đúng với khả
năng để khích lệ học sinh học tập là chủ yếu.
- Khi đánh giá giáo viên cần căn cứ vào yêu cầu, mục tiêu của bài học,
động viên khuyến khích các em có tính sáng tạo. Những em học sinh yếu không
nên chê bai quá nhiều,với những em chưa đạt mà chỉ nên nhắc nhở, động viên


các em bài sau cố gắng vẽ tốt hơn. Như vậy mới tạo ra cho các em sự tìm tòi,

hứng thú say mê và thể hiện cái mới sáng tạo trong bài vẽ của mình.
- Khi học sinh làm bài xong, giáo viên cho học sinh treo tranh của mình,
học sinh tự nhận xét dưới sự hướng dẫn của giáo viên, qua đó kích thích các em
cố gắng trong bài học của mình còn những bài chưa đẹp các em có thể rút ra
kinh nghiệm cho bài học sau.
2.1.4.Tổ chức lồng ghép các trò chơi, hội thi phù hợp
-Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh được thực hiện ở
tất cả các môn học. Đối với việc giảng dạy môn mĩ thuật càng yêu cầu vận dụng
phương pháp này một cách hợp lý để phát huy tính sáng tạo của các em.
-Môn mĩ thuật là một môn học nghệ thuật. Vì vậy giáo viên phải tổ chức
sao cho giờ học nhẹ nhàng, thoải mái mang tính nghệ thuật và có thể tổ chức
bằng nhiều hình thức như lồng ghép trò chơi khác nhau, trò chơi phải liên quan
tới bài học ,phù hợp với từng đối tượng học sinh và điều kiện lớp học. Lồng
ghép trò chơi không chỉ kích thích các em hoạt động mà còn giúp các em phát
triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo, tạo không khí sổi nỗi, sinh động
-Nhưng khi sử dụng trò chơi giáo viên có thể áp dụng vào từng bài học
khác nhau, có bài thì giáo viên cần lồng ghép trò chơi, có bài thì không cần.
Giáo viên phải biết lồng ghép đúng, tùy từng nội dung của các bài học có
thể ở phần mở bài, thực hành hay ở cuối bài học.
VD4: Bài13, (Tiết 13-14), lớp 6. Vẽ tranh: Đề tài quân đội
Sau khi nhận xét xong bài của học sinh, cô giáo có thể cho các em chơi trò
chơi.Thi tìm hiểu những bài hát nói về chú bộ đội , các bạn nêu tên bài hát và
hát một vài câu. Qua trò chơi giúp các em nhận biết và cảm thụ thêm và đây
cũng là cách học thoải mái nhẹ nhàng. Các em vừa được học lại vừa chơi trò
chơi. Sau khi học xong các em có cảm giác thoải mái, hứng thú, hưng phấn cho
môn học sau.
Ví dụ 5: Bài 29 (tiết 32-33) lớp 7: Đề tài trò chơi dân gian.
- Ở bài này giáo viên có thể cho hoc sinh xem một số trò chơi dân gian trên
máy chiếu (xem nhanh) sau đó yêu cầu học sinh kể lại hình ảnh các trò chơi mà
em vừa quan sát. Trò chơi này giáo viên đưa ngay vào phần I. Tìm chọn nội

dung đề tài, nhằm lôi cuốn học sinh ngay vào bài học, cũng là tập cho học sinh
nghi nhớ nhanh. Thông qua trò chơi giúp hs nhớ lại những trò chơi dân gian mà
mình đã tham chơi cũng như tìm hiểu thêm về một số trò chơi dân gian trên quê
hương đất nước mà các em chưa có cơ hội được biết nhằm khơi dậy nét đẹp văn
hóa truyền thống cua dân tộc.


2.2.Phương pháp xây dựng tiết học
Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được thể hiện qua cách giáo viên hướng dẫn cho học
sinh cách nhìn, cách ngắm đối tượng với mục đích nhất định để có những nhận
xét, đánh giá chính xác về đối tượng … tập cho các em thói quen quan sát làm
giàu vốn biểu tượng, kinh nghiệm sống của các em, đó là tiền đề của tranh đề
tài, tranh tự do được phong phú đa dạng và sinh động từ những yêu cầu thường
xuyên giúp các em có thói quen quan sát hình thành trong trí nhớ vốn kiến thức
giúp học sinh nhìn thấy cái đẹp trong thiên nhiên, trong xã hội, sau đó thể hiện
chung trong bài vẽ của mình mang vẻ độc đáo riêng biệt.
Phương pháp này có thể tổ chức cho lớp học thăm quan, dã ngoại, ngắm
cảnh
Phương pháp trực quan
Trong tiết dạy phương pháp trực quan là phương pháp thường xuyên, là
nghệ thuật thị giác giúp các em cảm thụ cái đẹp bằng mắt. Do đó người dạy mĩ
thuật không thể thiếu đồ dùng trực quan. Có thể là tranh ảnh, mẫu thực hoặc đồ
vật thật.
Trình bày đồ dùng dạy- học phải khoa học, đúng lúc, rõ ràng, phù hợp với
nội dung
Chính vì vậy mà phương pháp quan sát và phương pháp trực quan là hành
trình song song luôn hỗ trợ cho nhau giúp các em bồi dưỡng thêm vốn thẩm mĩ.
Phương pháp gợi mở
Phương pháp gợi mở được thể hiện qua những câu hỏi hợp với đối tượng

của giáo viên để tác động đúng lúc, đúng chổ và có chất lượng giúp các em suy
nghĩ, tìm tòi và giải quyết được bài tập, nâng cao chất lượng bài vẽ và khả năng
sáng tạo trong mọi tình huống.
Giáo viên gợi mở trên thực tế bài vẽ của học sinh, phù hợp với đối tượng
học sinh
Câu hỏi phải mang tính khích lệ, động viên
Phương pháp luyện tập thực hành
-Phương pháp này được thể hiện thông qua các hoạt động giữa giáo viên và
học sinh để các em hoàn thành bài tập nhằm cũng cố kiến thức đã tiếp thu được
từ bài học, từ thực tế cuộc sống.
-Sau khi đã nắm được các kiến thức một cách cụ thể về lý thuyết thì sẽ vận
dụng và thể hiện bằng kỹ năng của mình qua bước thực hành. Nếu nắm lý thuyết
mà không thực hành thì không biết kết quả của mình đạt được tới đâu. Nhằm để


các em thực hiện hết khả năng tình cảm của mình vào bức vẽ được sinh động và
sáng tạo hơn.
-Phương pháp này đều được áp dụng vào trong mỗi tiết học (trừ phân môn
thường thức mĩ thuật) từ vẽ theo mẫu đến vẽ tranh hoặc vẽ trang trí, thì phương
pháp thực hành được áp dụng chủ yếu. Đó là thông tin hai chiều mà ta có thể nói
là thông tin ngược vì nó giúp cho người học thể hiện tài năng và sự tiếp thu của
mình trong quá trình học. Người dạy cũng từ đó mà rút kinh nghiệm về bài dạy
có hiệu quả hơn qua quá trình đánh giá chấm bài của các em.
Phương pháp thảo luận nhóm
- Phương pháp này rất tối ưu mà lâu nay nhà trường chưa chú trọng
- Môn Mĩ thuật hướng cho học sinh thảo luận nhóm thì có rất nhiều điều
thú vị, bất ngờ sẽ đem đến cho các bạn. Có thể cho các em tổ chức nhóm 3,
nhóm 5,7…theo sự hướng dẫn của giáo viên, phần chủ đạo tìm hiểu sẽ là học
sinh nhận xét chứ không phải đại diện nhóm mà là trả lời cá nhân. Các em sẽ
học tập lẫn nhau trong lúc thảo luận, nên sự nhận xét của các em sẽ có nhiều

điều bất ngờ. Và chính sự bất ngờ ấy là sự sáng tạo của các em. Phương pháp
này thường sử dụng nhận xét phác thảo, chọn hoạ tiết, ước lượng vào sáng tối
đậm nhạt.
Phương pháp điều tra thực tế
- Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh.
- Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng
dạy môn mĩ thuật.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm
- Cho HS hoạt động ngoài trời, tham quan tọa đàm.
- Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp
mà mình đề ra.
Nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu qua các văn bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về
phương pháp dạy học môn mĩ thuật.
Lấy số liệu: Tổng số học sinh của 3 lớp trên hai khối lớp 6-7 ở trường
THCS Quảng Minh có: 86 học sinh. Trước khi chưa thực hiện giải pháp kết quả
chỉ có 62% học sinh thích học môn mĩ thuật. Khi áp dụng phương pháp mới vào
dạy học kết quả 97% học sinh yêu thích môn học mĩ thuật.


Phương pháp so sánh đối chiếu.
Phương pháp phỏng vấn .
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của học sinh.
phương pháp quan sát sư phạm.
• Từ tình hình thực tế tại trường thực nghiệm, tôi lấy ví dụ phân tích một bài cụ
thể: bài 20 (tiết 23-24)- lớp 6: Vẽ tranh đề tài: Ngày tết và mùa xuân :
Đề tài ngày tết, lễ hội và mùa xuân
Mục tiêu:
-Học sinh yêu quê hương, đất nước thông qua việc tìm hiểu về các hoạt

động của ngày tết và vẽ đẹp của mùa xuân
- HS hiểu biết hơn về bản sắc văn hóa dân tộc thông qua các phong tục tập
quán ở mỗi miền quê trong ngày tết và mùa xuân.
- HS vẽ hoặc cắt, xé dán giấy màu một tranh về đề tài ngày tế và mùa xuân.
Chuẩn bị
Đồ dùng dạy- học
- Giáo viên
Tranh ảnh đề tài ngày tế và mùa xuân (giáo án điện tử )
- HS: Giấy vẽ, bút chì, màu vẽ ....
- Phương pháp dạy học
Phương pháp trực quan
Phương pháp vấn đáp
• Tiến trình tiết dạy – học
G: Cho học sinh xem một đoạn băng có hoạt động về ngày tế và mùa xuân
H: theo dõi
G: Đoạn băng vừa rồi gợi cho các em nhớ đến mùa nào trong năm?
H: Ngày tết và mùa xuân
*Tết là ngày lễ cổ truyền, hội tụ rất nhiều nét đẹp và văn hóa truyền thống
của người dân Việt Nam.
- Mùa xuân là mùa bắt đầu cho một năm. Những hình ảnh, cảnh sắc trăm
hoa đua nở của mùa xuân rất đẹp và phong phú, nó thường gợi cho chúng ta
nhiều ấn tượng
+ GV: Trong cuộc sống của con người, bên cạnh những hoạt động học tập,
lao động, sản xuất, chiến đấu... còn có những ngày nghỉ ngơi, vui chơi, thăm hỏi
và thực hiện những nhu cầu tín ngưỡng. Đấy là các dịp lễ, hội, ngày tết. Người
ta coi đó là những ngày vui, ngày quan trọng trong năm để chuẩn bị tâm thức,
sức khoẻ cho những hoạt động khác trong năm. ở Việt Nam cũng như nhiều


nước trên thế giới, hoạt động lễ hội trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong

cuộc sống.
Hoạt động1:Tìm chọn nội dung đề tài.
G: Những hình ảnh nào gợi cho em không khí ngày Tết và mùa xuân ?
H: Không khí ấm áp, hoa đào, hoa mai khoe sắc, mọi nhà sắm sửa, quây
quần bên nồi bánh chưng, náo nức trong các lễ hội của mùa xuân ...
G: Trong ngày Tết và mùa xuân thường diễn ra những hoạt động gì?
H: Lễ hội vui chơi, giải trí, thăm hỏi, chúc tụng, đi chợ hoa, đón giao thừa,
du xuân, hội làng, múa rồng, trồng cây mùa xuân ...
G: Ngày Tết và mùa xuân đem lại cho em những cảm xúc gì?
H: Những tình cảm đầm ấm, tràn đầy niềm vui trong không khí hội tụ của
ngày Tết, lễ hội. Được đón giao thừa với gia đình.
G: Cho HS xem một số tranh : Mâm ngủ quả, gói bánh chưng, sắm tết....
( xem tranh 1, 2, 34,5,6 phần phụ lục ảnh )
- G: Nội dung của các bức tranh trên vẽ gì?
H:tranh1; đấu vật , Chơi xuân ; rước kiệu ...
- Gv nhắc lại nội dung của từng bức tranh
- Gv: Hình ảnh của các bức tranh trên có giống nhau không, vậy được thể
hiện như thế nào ?
H: Nêu cụ thể hoạt động từng tranh:
Tranh 1....
Tranh 2...
Tranh 3....
Gv bổ sung thêm
G:Màu sắc trong tranh?
G: Các bức tranh trên có nội dung, hình ảnh, màu sắc khác nhau nhưng cả 6
bức tranh trên cùng thể hiện chung một đề tài đó là đề tài ?
H: Ngày tết, lễ hội và mùa xuân
G: Ngoài ba bức tranh trên em còn biết lễ hội nào nữa?
G: Trên đất nước ta có rất nhiều lễ hội diễn ra vào đầu xuân. Vậy trên quê
hương Thanh Hóa chúng ta có những lễ hội nào?

G: Mùa xuân có rất nhiều lễ hội để đưa được nét đẹp đó vào tranh chúng ta
chuyển sang phần 2
Hoạt động 2: hướng dẫn học sinh cách vẽ
- Tổ chức cho hs chơi ai nhanh, ai khéo. Trên tay cô có các bước tiến hành
của một bài vẽ tranh được minh họa bằng hình và bằng chữ đã đảo lộn, giờ cô
chia lớp thành hai đội (mỗi đội 4 hs) lên sắp xếp lại theo thứ tự từ trên xuống
dưới.
+Học sinh làm bài theo hướng dẫn của giáo viên


Bc 1:Tỡm chn ni dung v phỏc cỏc mng chớnh cựa bc tranh
Bc 2:V hỡnh nh chớnh vo cỏc mng hỡnh
Bc 3:V hỡnh nh ph, chnh sa chi tit
Bc 4:V mu cho bc tranh thờm sinh ng
(Xem tranh 7,8,9,10 phn ph lc nh)
G: Lp nhn xột cỏch sp xp ca hai i ó ỳng cha ?
H: Nờu li cỏc bc ca bi v theo mu ?
+G:Cho hc sinh xem tranh ca hc sinh lp trc
(xem tranh:11,12,13 phn ph lc nh)
+G: Ni dung trong tng tranh?
G: Bn ó v ỳng ni dung ti cha ?
G: Em thớch bc tranh no nht, vỡ sao?
G: v tranh v ngy tt v mựa xuõn em chn hot ng no?
Mt s lu
+ Khi v tranh phi quan tõm n cỏc thnh phn chớnh, thnh phn h tr
trong tranh.
+ Hóy nh li ngy l hi quờ mỡnh hoc l hi em ó tng c tham
gia bi v cú nhng hỡnh nh gn gi, thõn thuc vi mỡnh v cỏc bn.
+ Mu sc trong bi v tranh nờn s dng ho sc mu ti sỏng din t
khụng khớ vui ti, nhn nhp ca l hi v ỏnh nng lung linh ca mựa xuõn.

Hot ng 3. Hng dn hc sinh thc hnh
- HS thc hnh
- Giỏo viờn theo dừi, gi ý hc sinh trong sut quỏ trỡnh lm bi.
- Nhc hc sinh nh li nhng hỡnh nh m em cú n tng nht trong cỏc
dp l, hi, ngy tt v mựa xuõn v vo bi tp.
Hỡnh nh v trong bi phi in hỡnh, l nhhng hot ng quen thuc din
ra trong l hi.
-Động viên, khích lệ học sinh tự thể hiện suy nghĩ của mình trên bài tập.
GV không can thiệp trực tiếp vào bài của HS.
-GV có thể nhắc nhở từng học sinh nhng cũng có thể dừng lại cả lớp ít phút
để nhắc nhở chung nếu thấy nhiều học sinh còn có chung những vớng mắc trong
quá trình làm bài.
Hoạt động 4. Nhận xét, đánh giá
-GV tổ chức cho HS treo bài theo nhóm và các nhóm nhận xét, đánh giá bài
tập của nhau.
-HS có thể tự trình bày tác phẩm của mình trớc lớp về ý đồ tác phẩm, các
hoạt động trong tranh, lí do mà em vẽ những hình ảnh đó. Lí do em dùng màu
sắc nh vậy để vẽ tranh.
-GV nhận xét chung và phân loại bài tập.
Dn dũ:
- Hon thnh bi tp vi hc sinh cha lm bi xong lp
- Nhc hc sinh chun b cho bi hc sau.


PHN TH BA
KT QU T C V KIN NGH XUT
I. Kt qu:
Sau khi a ra nhng vớ d minh ha v cỏc gii phỏp tụi thy cht lng
hc tp cui nm ca cỏc em ó c nõng cao rừ rt hn so vi u nm. Thc
nghim trờn 3 lp thuc khi 6 v 7 ti trng THCS Qung Minh tớnh n thi

im ht hc k 2 ó c kt qu nh sau :

-

Lp

Tng s

6A
6B
7A

28
27
31

Li v b cc
SL
%
1
3,6
2
7,4
0
0

Li v mu sc
SL
%
0

0
1
3,7
1
3,2

T nhng kt qu trờn cho thy vic ỏp dng mt s gii phỏp giỳp hc sinh
lp 6-7 hc tt gi v tranh theo ti trng THCS Qung Minh l cú kh
dng.
xut
4.1. KIN NGH

hc sinh hc M thut tt, v p thỡ nh nc v ngnh giỏo dc cn
to mi iu kin tt hn nh: Trang b c s vt cht tin cho vic dy v
hc( cú phũng hc riờng dnh cho mụn ngh thut, phũng c cú trang b mỏy
chiu).
S giỏo dc v o to, phũng giỏo dc v o to nờn thng xuyờn m
cỏc lp chuyờn v phng phỏp dy hc phõn mụn M thut nhm nõng cao
hiu qu ca mụn hc ny.
Phỏt ng nhiu nhng cuc thi v tranh cho hc sinh.
T chc nhng bui ta m, tuyờn truyn nõng cao tay ngh v rỳt
ra nhng kinh nghim giỳp ging dy t kt qu cao.
Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã áp dụng trong quá
trình nâng cao chất lợng dạy vẽ tranh Tài, chắc còn nhiều thiếu sót rất mong
đợc sự góp ý của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp
4.1.1.i vi trng THCS Qung Minh
- Nh trng cn cú phũng hc dnh riờng cho mụn ngh thut, cú y
trang thit b c s vt cht.
Cn tng cng tuyờn truyn, khuyn khớch cho hc sinh v ph huynh
phi hc tt mụn hc, trỏnh hc lch.

Thc hin tt mi quan h gia nh trng, gia ỡnh v xó hi cựng nhau
tham gia giỏo dc.
Kt lun


Qua quá trình thực hiện giải pháp tôi thấy trong giờ học, học sinh tìm ra
được chủ đề mới lạ, hay. Bố cục và hình vẽ không bị lệ thuộc vào các đồ dùng
xung quanh như sách vở, đồ dùng hay cách vẽ của thầy cô giáo mà các em có tư
duy sáng tạo ra tìm cách vẽ cho riêng mình. Tôi nhận thấy các em có cảm hứng
với môn vẽ tranh hơn trước và đặc biệt có rất nhiều em tiến bộ trong cách vẽ,
cách nghĩ không chép trong sách ra nữa.
Và kết quả thật đáng khả quan khi các em đã vận dụng kiến thức và sự
hiểu biết trong giờ thực hành.
Taọ hứng thú cho học sinh trong tiết học bằng cách tạo tâm thế cho học
sinh ngay ở hoạt động vào bài bằng cách sử dụng những hình ảnh, những đoạn
nhạc có hình ảnh liên quan đến bài học.
Giáo viên chú ý tạo hứng thú bằng cách đặt những câu hỏi khêu gợi thông
tin, kích thích trí tò mò và tư duy sáng tạo của học sinh.
Ngoài ra giáo viên chú ý cách phát huy tính tích cực của học sinh bằng
cách lồng ghép trò chơi trong giờ học thực hành để tập cho học sinh “học mà
vui, vui mà học” để từ đó giúp các em phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo
thông qua việc tái tạo nội dung, hình ảnh trong bài vẽ của mình.
Thực hiện tốt những điều này sẽ giúp các em bộc lộ mình một cách
thoải mái, giờ học không bị gò bó, nặng nề như trước.
• Đó là một vài ý kiến của riêng cá nhân tôi về một số khía cạnh nhỏ
về một số giải pháp giúp học sinh lớp 6-7 ở trường THSC Quảng Minh học
tốt giờ vẽ tranh theo đề tài để đồng nghiệp tham khảo.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp
Xin chân thành cảm ơn.
Quảng Minh, ngày 20 tháng 04 năm 2015

Tôi xin cam đoan sáng kiến này do tôi viết.
Không sao chép nội dung của người khác.
Giáo viên

Nguyễn Thị Thanh


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Phương pháp giảng dạy mĩ thuật- Nhà xuất bản giáo dục
Thiết kế bài giảng Mĩ Thuật lớp 6-7 - Nhà xuất bản văn hóa
Nguyễn Quốc Toản; Nguyễn Hữu Hạnh; Đàm Luyện- Sách giáo khoa mĩ thuật
lớp 6-7- Bộ giáo dục và đào tạo.
Tác giả: Nguyễn Quốc Toản; Nguyễn Hữu Hạnh; Đàm Luyện(2006)- Sách giáo
viên mĩ thuật lớp 6-7; Bộ giáo dục và đào tạo.
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở tiểu học Bộ giáo
dục và đào tạo.
- Tác giả: Vũ Duy Cảnh; Trịnh Vĩnh Long; Nguyễn Minh Hảo- (20032007)
-Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
- Tác giả: Nguyễn Quốc Toản- (2008)- Giáo trình mĩ thuật- Nhà xuất bản
ĐHSP Hà Nội
- Tác giả: Nguyễn Quốc Toản; Triệu khắc lễ; Trịnh Đức Minh; Nguyễn
Hữu Hạnh; Đàm Luyện: Nguyễn Đức Toàn- :(2004)- Hỏi đáp về dạy học
mĩ thuật - Nhà xuất bản giáo dục


Phụ lục ảnh

Tranh 1: Chợ hoa


2

Tranh 2: Mân ngũ quả


Tranh 3:Rước kiệu

Tranh 4:Chơi xuân.


Tranh 5: Gói bánh chưng.

Tranh 6: Hội liêm


Tranh 8: Múa rồng

Tranh 10



×