Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chuyên Đề Thực Hiện Đổi Mới Phương Pháp Giảng Dạy Tiết Luyện Tập Môn Hóa Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.8 KB, 24 trang )

Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc

CHUYÊN ĐỀ
THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TIẾT LUYỆN TẬP
MÔN HÓA HỌC

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CĂN CỨ VÀ LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ:
Căn cứ kế hoạch năm học 2013- 2014 của phòng GD&ĐT huyện Yên
Lạc,tạo không khí hoạt động chuyên môn ngay từ đầu năm học.
Căn cứ vào mục tiêu giáo dục phổ thông: Mục tiêu mới của giáo dục nói
chung và giáo dục THCS nói riêng là bồi dưỡng, đào tạo con người mới phát
triển toàn diện về mọi mặt có tri thức, tự chủ, sáng tạo có năng lực giải quyết vấn
đề.
Căn cứ vào định hướng đổi mới phương pháp dạy học: Cùng với các môn
học khác như Toán, Lý, Sinh,.... Môn Hoá là một trong những môn khoa học tự
nhiên nhằm phát triển trí tuệ học sinh một cách toàn diện. Hoá học là môn học
thực nghiệm có nhiều ứng dụng trong thực tế cuộc sống. Nhờ đó học sinh nhận
thức được các kiến thức xung quanh mình. Hoá học giúp các em phát triển tư
duy logic, bồi dưỡng phát huy tính nằng động, chủ động, sáng tạo, phong cách
làm việc khoa học. Ngoài ra nó còn góp phần rèn luyện cho học sinh phương
pháp suy luận, tổng hợp giải quyết vấn đề, từ đó phát triển trí thông minh, linh
hoạt xử lí các vấn đề đặt ra, tạo cho các em tính cần cù, sáng tạo, yêu thích say
mê nghiên cứu khoa học.

Tổ KHTN

1

Năm học: 2013-2014




Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn hoá học ở trường
THCS có nhiều giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp trong giảng dạy có
nhiều những kinh nghiệm hay. Nhưng tập chung chủ yếu trong các giờ nghiên
cứu kiến thức mới. Trong đó giờ luyện tập đòi hỏi khái quát, củng cố kiến thức,
phát triển tư duy tổng hợp, rèn kĩ năng kĩ xảo cho học sinh thì ít được giáo viên
quan tâm. Tổ KHTN-Nhóm Sinh – Hóa trường THCS Liên Châu xây dựng
CHUYÊN ĐỀ:THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TIẾT LUYỆN TẬP-MÔN HÓA HỌC
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
-

Nghiên cứu nội dung bài luyện tập Hoá 8.

- Xây dựng nội dung, hình thức tổ chức một giờ luyện tập nhằm nâng cao
khả năng ghi nhớ, kĩ năng tổng hợp, khái quát hoá, làm bài tập Hóa học, …. cho
học sinh lớp 8
- Tạo hứng thú học tập, tăng khả năng hoạt động độc lập, kỹ năng hoạt động
hợp tác theo nhóm ở học sinh
- Áp dụng vào thực tế giảng dạy.
- Đúc rút kinh nghiệm cho việc giảng dạy sau này.
- Xây dựng được một hệ thống phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
cho tiết luyện tập một cách hợp lí nâng cao chất lượng bộ môn.
- Giúp học sinh có tư duy khái quát tổng hợp các đơn vị kiến thức đã học, có
kĩ năng tự học, tự xây dựng Grap nội dung kiến thức, áp dụng kiến thức đã học
để giải các bài tập, giải thích các hiện tượng trong đời sống.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU.
- Đối tượng: Học sinh lớp 8


Tổ KHTN

2

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
- Phạm vi: Vận dụng trực tiếp trong các bài dạy tiết luyện tập trong chương
trình Hóa học 8: Chất, Nguyên tử, Phân tử; Phản ứng hoá học; Mol và tính toán
hoá học; Oxi, không khí; Hiđro, nước; Dung dịch
- Chuyên đề này viết theo hướng mở, nghiên cứu trong phạm vi các tiết luyện
tập trong chương trình môn Hóa lớp 8. Kế hoạch sẽ bổ sung việc nghiên cứu xây
dựng nội dung phương pháp dạy tiết luyện tập ở lớp 9.

PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Vị trí của phương pháp dạy học trong quá trình dạy học.
Dạy học là hoạt động chủ yếu và đặc trưng nhất của nhà trường phổ thông.
Vì vậy chất lượng giáo dục phụ thuộc trước hết và trực tiếp vào chất lượng dạy
học.Trong dạy học thì phương pháp dạy học có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó
việc lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung bài dạy chắc chắn sẽ đem lại
kết quả cao trong công tác giáo dục.
Một số quan điểm về phương pháp dạy học:
+ Phương pháp dạy học là công việc có tổ chức, có trật tự, có hệ thống, có
kế hoạch nhằm giúp học sinh học tập thuận lợi và có kết quả.
+ Phương pháp dạy học là những hoạt động thực hiện theo những quy luật
tâm lý nhất định (năng lực, nhu cầu, hứng thú của người học).
+ Phương pháp dạy học là cách làm đạt được mục tiêu đã xác định của dạy

học. Nó được coi như công cụ hữu hiệu để việc dạy học trở nên thuận lợi và có
hiệu quả thực sự.
+ Phương pháp dạy học nhằm đạt được kết quả to lớn về dạy và học mà
tiết kiệm thời gian, sức lực, tiền của.
Tổ KHTN

3

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
+ Phương pháp dạy học hướng dẫn học sinh và giáo viên thực hiện các
hoạt động của bài học.
2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập
chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Tính tích cực(TTC) học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri
thức. TTC nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động
cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư
duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách
học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động
cơ học tập. TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu
hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của
mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn
đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không
nản trước những tình huống khó khăn…

TTC học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau
về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.

Tổ KHTN

4

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là để chỉ những phương
pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học.
"Tích cực" trong PPDH được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa
với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ
không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để
dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy
theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách
học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động
nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp
dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn
quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt

động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách
vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác
cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì
mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân
biệt với "Dạy và học thụ động".
Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt
động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới
sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về
kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình

Tổ KHTN

5

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có
phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy
học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể.
Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quátrình dạy học chi
phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện,
tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.
3. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực:
3.1: Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt

động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá
những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế,
người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra
theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn
mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà
còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh
biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
3.2: Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.
Tổ KHTN

6

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ
tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả
học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt
động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ
động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ
thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự
hướng dẫn của giáo viên.

3.3: Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập, áp dụng phương pháp tích cực ở
trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện
công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động
học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường
giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong
tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người
học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và
kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong thực tế nhà trường, phương pháp học tập hợp tác trên lớp được tổ
chức ở cấp nhóm, tổ. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác
trong nhóm từ 4 đến 8 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là
Tổ KHTN

7

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp
giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm
nhỏ tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ; uốn nắn, phát triển tình
bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào

đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp
tác trong lao động xã hội.
3.4: Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận
lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh
hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà
trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà
phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình
huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời
hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành
Tổ KHTN

8

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc

người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để
học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến
thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt
động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án,
giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ
động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động
viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi
của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư
phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà
nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
II. THỰC TRẠNG DẠY HOÁ HỌC Ở TRƯỜNG THCS HIỆN NAY.
1. Ưu điểm:
- Việc đổi mới phương pháp dạy học cùng với nội dung chương trình SGK
mới tác động nhiều đến giáo viên. Nhiều giáo viên đã đầu tư thời gian nghiên
cứu xây dựng phương pháp dạy học, làm đồ dùng, ứng dụng công nghệ hiện đại
vào các giờ dạy. Vì vậy có nhiều giờ dạy tốt, nhiều giáo viên được công nhận
giáo viên giỏi các cấp. Kết quả học tập môn hoá ngày càng cao, có nhiều học
sinh đạt giải học sinh giỏi các cấp. Điều đó phản ánh rõ ưu điểm của việc đổi
mới phương pháp dạy học trong nhà trường.
- Điều kiện cơ sở vật chất trong các nhà trường được trang bị đầy đủ ,điều
này giúp giáo viên tổ chức được nhiều hoạt động học tập đa dạng và phong phú.
Lí luận học đi đôi với hành ngày càng được phát huy. Học sinh hứng thú say mê
với bộ môn
2. Hạn chế.
1.1: Giáo viên:

Tổ KHTN

9


Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
- Trong một số tiết học giáo viên còn truyền thu kiến thức có sẵn trong sách
giáo khoa cho học sinh bằng cách thuyết trình, giảng giải,làm mẫu. Học sinh chủ
yếu thụ động nghe ghi chép trả lời câu hỏi của giáo viên nếu được gọi. Việc tổ
chức hoạt động gây hứng thú cho học sinh ít được chú ý đến. Việc liên hệ thực
tế, tích hợp các vấn đề về sản xuất, các hiện tượng trong tự nhiên ở giờ luyện tập
chưa nhiều, chưa phát huy hết tư duy khái quát, tổng hợp sáng tạo của học sinh.
- Hầu hết các dụng cụ hoá chất , phục vụ cho giảng dạy môn Hoá đều cồng
kềnh, có cả hoá chất độc gây tâm lí ngại chuẩn bị và sử dụng thí nghiệm. Tình
trạng dạy “Chay” vẫn còn tồn tại.
1.2: Học sinh:
Nhiều học sinh có tư tưởng sợ môn này coi là môn phụ ít đầu tư học tập, có
học sinh chỉ học đói phó cho những đợt kiểm tra.
Các hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy bộ môn.

III . CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
A. NHẬN XÉT CHUNG:
Trong chương trình sách giáo khoa Hoá học có 6 chương và 8 bài luyện tập.
Chương I và chương V mỗi chương có 2 bài còn lại mỗi chương có một bài ở
cuối chương. Do đó khối lượng kiến thức trong một bài luyện tập cần củng cố và
các kĩ năng cần rèn nhiều nó mang tính chất như bài ôn tập chương.
B. BIỆN PHÁP.
Để dạy tốt giờ luyện tập trong đó học sinh được làm việc một cách tích cực tự
giác thể hiện tính sáng tạo thì người giáo viên thì phải xác dịnh rõ mục tiêu của
bài.Trên cơ sở mục tiêu của từng bài đã được xây dựng trong sách giáo viên tôi
nhận thấy một giờ luyện tập cần đạt được các mục tiêu khái quát sau:
Tổ KHTN


10

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
-

Củng cố và phát triển kiến thức cũ, phát triển tư duy phân tích khái quát, so

sánh, tổng hợp.
-

Rèn kỹ năng hoạt động ,vận dụng kiến thức.

-

Khơi nguồn kiến thức mới cho bài sau.

-

Giáo dục lòng yêu thích bộ môn, niềm tin vào khoa học
Củng cố kiến thức cũ không phải giáo viên dạy lại các kiến thức cho học

sinh nhớ mà người giáo viên tổ chức điều khiển hoạt động của học sinh để các
em tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức đã học, có kĩ năng ghi nhớ kiến thức
một cách logic khoa học, biết vận dụng các kiến thức đó để giải các bài tập và
giải thích các hiện tượng thực tế...
Như vậy để đạt được mục tiêu trên ta phải xây dựng nội dung, phương

pháp, hình thức tổ chức cụ thể cho một giờ luyện tập. Tức phải trả lời được câu
hỏi: Luyện cái gì ? Bằng cách nào ? Hình thức tổ chức ra sao?
1. Về nội dung:
Nội dung bài phải bám sát nội dung sách giáo khoa và mục tiêu của bài .
Nội dung được xây dựng dưới dạng các bài tập (bài tập định tính, bài tập trắc
nghiệm) vì bài tập là công cụ hữu hiệu nhất để luyện tập củng cố kiến thức . Do
lượng kiến thức trong một giờ luyện tập tương đối lớn,nhiều bài tập nên giáo
viên cần biết chọn lọc các bài tập tiêu biểu,đặc trưng trong sách giáo khoa để đưa
vào giờ luyện. Sao cho sau khi làm xong bài tập đó học sinh được củng cố lượng
kiến thức nhiều nhất. Bên cạnh đó giáo viên phải chủ động xây dựng các bài tập
mới phù hợp. Chú trọng đến các bài tập mang tính khái quát cao, tức nó phải
đảm bảo đầy đủ các kiến thức cơ bản đã học ở những bài trước và nội dung có
liên quan đến các kiến thức tiếp theo (kiến thức xuyên suốt chương trình), kiến
thức thực tiễn. Theo tôi tuỳ theo mục tiêu giờ luyện tâp cần củng cố kiến thức
rèn luyện kĩ năng gì mà giáo viên đưa ra bài tập thích hợp.
Tổ KHTN

11

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Những yêu cầu của bài tập trong giờ luyện tập.
-

Phù hợp với mục tiêu đã đề ra.

-


Đảm bảo tính vừa sức với học sinh: Bài tập được phân loại theo các đối

tượng học sinh: Khá+ Giỏi ; TB ; Yếu.
-

Có tính khái quát cao: Qua bài tập đó học sinh rút ra được mối liên hệ giữa

các kiến thức hoặc làm được các bài tập tương tự.
-

Đảm bảo tính khoa học: Số lượng bài tập trong giờ dạy phải phù hợp với thời

gian học sinh làm việc. Các bài tập đưa ra theo một trình tự logic.
Để tăng khối lượng kiến thức trong một giờ luyện tập mà vẫn đảm bảo
mục tiêu của bài. Trong bài dạy tôi đã kết hợp các bài tập trong sách giáo khoa
với việc xây dựng các Gráp kiến thức để tạo mối liên hệ giữa các kiến thức và
sử dụng các bài tập trắc nghiệm khách quan.
Khi đưa ra Grap, giáo viên chỉ cung cấp 1 hoặc một số thông tin trong các
ô, còn lại học sinh dựa vào mối liên hệ giữa các kiến thức để hoàn thành tiếp.
Sau đó giáo viên đàm thoại phát triển các kiến thức trong từng ô. Học sinh rút ra
mối liên hệ giữa các kiến thức .
1. Một số dạng bài tập tắc nghiệm khách quan được sử dụng khi luyện tập.
1.1: Câu điền khuyết.
- Học sinh phải nhớ lại và trả lời bằng một hay một nhóm từ do một câu hỏi hay
một câu nhận định chưa đầy đủ. Hoặc điền những CTHH thích hợp để hoàn
thành phương trình phản ứng.
- Loại câu hỏi này ưu thế hơn các câu hỏi khách quan khác ở chỗ đồi hỏi học
sinh phải tìm kiếm câu trả lời đúng hơn là nhận ra câu trả lời đúng từ thông tin
đã cho.


Tổ KHTN

12

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
- Câu hỏi này giúp học sinh được củng cố về các định nghĩa khái niệm, định luật,
quy tắc hoá học, tính chất hoá học...
VD: Điền từ hoặc cụm từ thích hợp vào chỗ ..........
a, Hỗn hợp gồm nhiều chất ............ vào nhau.
b, Mỗi chất có tính chất ................và tính chất ............. nhất định
c, .............. gồm hạt nhân có prôton mang điện tích dương và vỏ tạo bởi một
hay nhiều ............... mang điện tích âm.
d, Những nguyên tử cùng loại có cùng số prôtn trong hạt nhân được gọi
chung là ..........
e, .................. là những chất được tạo nên từ một nhuyên tố hoá học.
1.2: Loại câu “Đúng – Sai”.
Người ta gọi câu “đúng – sai” là cách lựa chọn liên tiếp. Đó có thể là những
phát biểu ( nhận định) được đánh giá là “đúng” hay “sai” . Đôi khi chúng được
nhóm lại dưới một câu dẫn. Các phương án trả lời là thích hợp để gợi nhớ lại
kiến thức và một khối lượng kiến thức đáng kể có thể dược kiểm tra một cách
nhanh chóng.
Ví dụ: Điền đúng(Đ) hoặc sai(S) vào ô trống thích hợp
a, Ở cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất 1 mol khí bất kì cũng chiếm các
thể tích bằng nhau
b, Ở điều kiện tiêu chuẩn 1 mol sắt chiếm thể tích 22,4 lit.
c, Ở điều kiện tiêu chuẩn 0,3 mol CO2 chiếm thể tích 5,6 lit.
d, Ở OoC áp suất 1atm một mol khí bất kì đều chiếm thể tích 22,4 lít

1.3: Loại câu ghép đôi:

Tổ KHTN

13

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Ví dụ Nối các số 1,2,3....trước kết quả ở cột 2 với các chữ cái a,b,c.... ở cột
1 cho phù hợp.
Cột 1

Cột 2

a, 28g CaO có số mol

1. 18g

b, 5,6 lit O2 (ở đktc) có số mol

2. o,5mol

c, 1,5 mol nguyên tử Zn có số nguyên tử

3. 6.1023 ng tử

d, 3 mol H2O có khối lượng là


4. 9.1023ng tử
5. 0,25 mol
6. 54g

1.4: Loại câu nhiều lựa chọn.
1.4.1: Một câu nhiều lựa chọn thương gồm 4 bộ phận:
-

Câu dẫn.

-

Câu chọn (gồm từ 3-5 khả năng trả lời)

-

Câu đúng (hoặc sai phải chọn)

-

Câu nhiễu

Ví dụ: X,Y là 2 nguyên tố có hoá trị không đổi .Cho biết CTHH của nguyên tố
X với oxi và của nguyên tố Y với hiđrô lần lượt là X 2O , YH2 . Hãy cho biết Ct
đúng của hợp chất X vàY là:
a, XY2;

b, X2Y ;

c, XY ;


d, X2Y3

1.4.2: Những bài tập định tính:
-

Lập CTHH, hoàn thành PTPƯ, xác định loại phản ứng.

-

Phân biệt các chất , tách các chất.

-

Điều chế các chất

-

Sơ đồ chuyển hoá....

Tổ KHTN

14

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
1.4.3: Bài tập định lượng:
Tuỳ theo vị trí bài luyện tập để rèn kĩ năng hoặc củng cố kiến thức gì để sử dụng

bài tập hợp lí: Bài tập tính theo công thức hoá học hay tính theo PTHH, bài tổng
hợp.
Bài tập định lượng rèn cho học sinh kĩ năng vận dụng các công thức, các
định luật ... để giải bài toán. Bên cạnh đó qua bài tập học sinh nắm vững công
thức hơn, biết được các bước làm các dạng bài tập. Từ đó nhận dạng và giải
được các bài tập tương tự. Như vây giáo viên cần tổ chức cho học sinh rút ra cái
chung nhất của một dạng bài tập và mối liên hệ giữa các đại lượng trong một
công thức.
Theo tôi các bài tập ta nên ra theo hướng vừa xuôi vừa ngược trên một dạng
như: Cho biết đại lượng ở chất tham gia yêu cầu tính đại lượng ở chất sản phẩm
và ngược lại. Hoặc có thể thay đổi giả thiết, yêu cầu của bài toán như: Cho m ct ,
mdd tính C% có thể đổi lại cho C% ; Vdd ; Ddd tính mdd, mct ...
Ví dụ : Đốt kẽm trong ôxi thu được kẽm ôxit (ZnO).
a, Tính khối lượng ZnO thu được khi đốt hoàn toàn 23g Zn?
b, Tính thể tích ôxi (ở đktc) cần dùng ,biết sau phản ứng thu được 40,5g ZnO.
* Tóm lại việc chia nội dung luyện tập thành các dạng chỉ là tương đối vì đa số
bài tập hoá học chứa nhiều kiến thức liên quan: Giải bài tập định lượng cũng
phải hiểu tính chất của các chất, trong một bài toán lại sử dụng nhiều công thức
biến đổi khác nhau.
2. Cách đưa nội dung trong một giờ luyện tâp.
Trong chương trình SGK bài luyện tập luôn được thiết kế theo 2 phần.
Phần I: Kiến thức cần nhớ. Phần II: Bài tập. Theo tôi có 2 cách đưa nội dung:

Tổ KHTN

15

Năm học: 2013-2014



Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
+ GV cho học sinh nhắc lại các kiến thức cần nhớ có liên quan như định
nghĩa, công thức định luật, tính chất vật lí, hoá học.... Sau đó GV đưa ra các bài
tập . Lúc này học sinh dựa vào các công thức, định luật ..... đã cho để giải bài
tập. Cách này không phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo ở học sinh, chỉ áp
dụng đối với những đối tượng học sinh không tự giải quyết được bài tập.
+ Gv đưa ra các bài tập có nội dung để kiểm tra kiến thức của học sinh
trước. Học sinh nghiên cứu thảo luận làm bài từ đó học sinh nêu ra các kiến thức
đã vận dụng và khái quát được mối liên hệ giữa các kiến thức. Cách này phát
huy được năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh.
3. Hình thức tổ chức hoạt động cho học sinh.
3.1: Cần lượng hóa đúng mục tiêu của bài dạy
Với định hướng dạy học mới, mục tiêu của bài học được thể hiện bằng sự
khẳng định về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà người học sẽ phải đạt được ở
mức độ nhất định sau tiết học (chứ không phải là hoạt động của GV trên lớp như
trước đây). Mục tiêu của bài học sẽ là căn cứ để đánh giá chất lượng học tập của
HS và hiệu quả thực hiện bài dạy của GV. Do đó mục tiêu của bài học phải cụ
thể sao cho có thể đo được hay quan sát được, tức là mục tiêu bài học phải được
lượng hóa. Người ta thường lượng hóa mục tiêu bằng các động từ hành động,
một động từ có thể dùng ở các nhóm mục tiêu khác nhau: Nhóm mục tiêu thái
độ, thường dùng các động từ như tuân thủ, tán thành, phản đối, hưởng ứng, chấp
nhận, bảo vệ, hợp tác…; nhóm mục tiêu kiến thức đối với THCS ta chú trọng
lượng hóa theo 3 mức độ (trong 6 mức độ) nhận thức của Bloom: mức độ nhận
biết, mức độ thông hiểu, mức độ vận dụng;nhóm mục tiêu kĩ năng được tạm chia
làm 2 mức độ: làm được và làm thành thạo một công việc
Với những yêu cầu về từng nhóm mục tiêu đã trình bày ở trên, người GV
dựa vào chuẩn kiến thức để xác định được phần giảm tải kiến thức để tinh giản
Tổ KHTN

16


Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
hóa kiến thức trong tiết luyện tập. Trong việc lượng hóa đúng mục tiêu giảm tải
kiến thức của bài dạy GV cần lưu ý phần định tính là trọng tâm còn phần định
lượng chỉ ở mức độ: biết, hiểu, vận dụng ở mức độ đơn giản (hóa học THCS chỉ
chú trọng về phần định tính).
3.2: Tổ chức cho HS hoạt động:
Đầu tiên là lựa chọn nội dung kiến thức để tổ chức cho HS hoạt động. Khi
soạn bài GV phải xác định được phần kiến thức mà HS phải thu thập liên quan
đến hình thức hoạt động nào trong các loại hoạt động: hoạt động cá thể, hoạt
động theo cặp, hoạt động theo nhóm, hoạt động lớp. SGK đã trình bày các đơn vị
kiến thức theo các định hướng hoạt động. Trong từng đơn vị kiến thức, GV có
thể tổ chức những hoạt động khác nhau để HS chiếm lĩnh kiến thức.
Trong mỗi hoạt động, GV dự kiến hệ thống câu hỏi xen kẽ với những yêu
cầu HS hoạt động để hướng dẫn các em tiếp cận, tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến
thức mới. Hệ thống câu hỏi của GV nhằm hướng dẫn HS tiếp cận, phát hiện và
chiếm lĩnh kiến thức trong từng hoạt động giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất
lượng lĩnh hội của lớp học. Muốn vậy, giáo viên phải: giảm số câu hỏi có yêu
cầu thấp về mặt nhận thức, mang tính chất kiểm tra, chỉ yêu cầu nhớ lại kiến thức
đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, thường chỉ có một câu hỏi trả lời đúng, ngắn,
không cần suy luận. Loại câu hỏi này thường được dùng khi cần đặt mối liên hệ
giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, khi HS đang tiến hành, luyện tập
hoặc khi củng cố kiến thức vừa mới học.
3.3: Một số kĩ năng đặt câu hỏi
Đầu tiên là câu hỏi biết ứng với mức độ lĩnh hội 1 “nhận biết”: mục tiêu
của loại câu hỏi này là để kiểm tra trí nhớ của HS về các dữ liệu, số liệu, các
định nghĩa, …. Thứ hai là câu hỏi hiểu ứng với mức độ lĩnh hội 2 “thông hiểu”:

mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra cách HS liên hệ, kết nối các dữ liệu,
Tổ KHTN

17

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
số liệu… Thứ ba là câu hỏi vận dụng ứng với mức độ lĩnh hội 3 “vận dụng”:
mục tiêu của loại câu hỏi là để kiểm tra khả năng áp dụng các dữ liệu, các khái
niệm, các quy luật, các phương pháp… vào hoàn cảnh và điều kiện mới là làm
bài tập hóa học. Thứ tư là câu hỏi phân tích ứng với mức độ lĩnh hội 4 “phân
tích”: mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra khả năng phân tích nội dung
vấn đề, từ đó đi đến kết luận, tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh một luận
điểm...
Lưu ý: Khi đặt câu hỏi GV nên đặt câu hỏi yêu cầu HS tư duy; đặt câu hỏi
phù hợp với khả năng; đặt các câu hỏi theo trình tự nội dung bài giảng kết hợp
đưa thêm kiến thức sau khi trả lời câu hỏi; câu hỏi cần ngắn gọn, đầy đủ và gây
sự chú ý của HS trước khi đặt câu hỏi; diễn đạt câu hỏi rõ ràng và dành đủ thời
gian HS suy nghĩ trước khi trả lời. GV không nên đặt câu hỏi chỉ trả lời đúng
hoặc sai, mập mờ, không xác định hay không hỏi những câu hỏi quá khó; không
nên gọi tên HS trước khi đặt câu hỏi và không tập trung câu trả lời vào một số
HS khá.
- Các nội dung của tiết luyện tập giáo viên cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà,
nghiên cứu thêm các kiến thức bổ xung cho việc làm các bài tập.
-

Việc kiểm tra bài cũ không nhất thiết phải kiểm tra đầu giờ có thể lồng ghép


trong toàn bộ tiết học.
-

Trên lớp đảm bảo học sinh vừa được làm việc độc lập vừa được hoạt động

tập thể (nhóm). Giáo viên là người tổ chức điều khiển, có thể cho cán sự lớp điều
hành. Để tiết kiệm thời gian các nhóm có thể nghiên cứu những nội dung (bài
tập) khác nhau thuộc cùng một dạng. Như vậy sẽ tăng tính độc lập tự chủ của các
em. Hoặc các nhóm có thể nghiên cứu cùng một vấn đè, từ đó các nhóm có sụ thi
đua . Đòi hỏi học sinh tìm được kiến thức làm bài vừa chính xác vừa nhanh và có
nhiều cách làm hay. Qua đố học sinh rút ra được cách làm một cách tối ưu. Sau
Tổ KHTN

18

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
khi học sinh làm xong bài giáo viên có thể cho các tự xây dựng các bài tập tương
tự và cho biết cách làm. Điều này sẽ kích tính sáng tạo ở học sinh. Giáo viên có
thể tổ chức luyện tập dưới hình thức trò chơi để thay đổi không khí.
Khi đánh giá kết quả học sinh theo tôi giáo viên phải thể hiện rõ vai trò là
người “trọng tài khoa học”. Người giáo viên chỉ tham gia đánh giá ở giai đoạn
cuối của mỗi vấn đề. Trước hết cho học sinh đánh giá học sinh: Cá nhân đáng giá
cá nhân, tập thể, nhóm đánh giá cá nhân, nhóm đánh giá nhóm. Bằng cách nhận
xét kết quả, cách làm của bạn, của nhóm khác. Cuối cùng giáo viên mới là người
kiểm định các kết quả, kiến thức mà các em tìm được. Từ đó các em rút ra được
kiến thức.
Như vậy tuỳ từng tiết luyện tập, tùy đặc điểm từng lớp mà giáo viên sử dụng

các nội dung khác nhau kết hợp với phương pháp và hình thức tổ chức cụ thể để
đạt được mục tiêu đề ra, học sinh thoải mái hứng thú trong việc tiếp thu kiến
thức, say mê yêu thích bộ môn.
IV. VÍ DỤ MINH HOẠ
Tiết 15:

BÀI LUYỆN TẬP 2

A.Mục tiêu:
- Kiến thức: Học sinh ôn tập về công thức của đơn chất và hợp chất; củng cố
cách lập công thức hóa học; cách tính phân tử khối của chất; củng cố bài tập
cách xác định hóa trị của nguyên tố
- Kỹ năng: Rèn luyện các kỹ năng làm bài tập: Tính hoá trị nguyên tố, nhận biết
đúng sai cũng như lập được công thức hoá học của hợp chất khi biết hoá trị.
- Thái độ: Giáo dục ý thức tự giác tích cực trong học tập
B.Phương pháp:
- Hỏi đáp, gợi mở, dẫn dắt, vận dụng, hoạt động nhóm, ……
C. Chuẩn bị:
Tổ KHTN

19

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
- GV : Hệ thống câu hỏi trong chương, bảng nhóm, phiếu học tập, máy chiếu
Projectos
- HS : Ôn tập về CTHH, ý nghĩa của CTHH, quy tắc hoá trị, lập CTHH.
D.Tiến trình lên lớp:

1. Ổn định tổ chức:

-Sĩ số :
- Ổn định tổ chức lớp, biên chế lớp thành 3 nhóm học

tập
2. Kiểm tra bài cũ:

Trình chiếu Slide 1

3. Bài m ới
*Đặt vấn đề:

* Triển khai
bài:
Hoạt động của thầy và trò
Tổ KHTN

Nội dung
20

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Hoạt động 1:Kiến thức cần nhớ

I. Các kiến thức cần nhớ:
1. Công thức hoá học:


- HS nhắc lại các kiến thức cần nhớ về * Đơn chất:
công thức hoá học của đơn chất và
A (KL và một số phi kim ở thể rắn)
hợp chất.
Ax (Một số phi kim ở thể khí và thể
lỏng, thường x = 2)
* Hợp chất: AxBy, AxByCz...
Mỗi công thức hoá học chỉ 1 phân tử
của chất (trừ đ/c A).
+ HS nhắc lại khái niệm hoá trị ?

2. Hoá trị:

* Hoá trị là con số biểu thị khả năng
- GV khai triển công thức tổng quát liên kết của nguyên tử hay nhóm
a
b
nguyên tử.
của hoá trị.
AxBy
Chỉ
- A, B : nguyên tử, nhóm ng. tử.

+ Biểu thức quy tắc hoá trị ?

- GV hướng dẫn HS cách thiết lập mối - x, y : chỉ số của A, B.
quan hệ giữa hóa trị và chỉ số
- a là hóa trị của A, b là hóa trị của B
→ x. a = y. b => x/y = a/b
+ Nếu a= b thì x= y= 1

+ Nếu a# b thì : x= b, y= a (đk x/y tối
- GV đưa ra VD, hướng dẫn HS cách giản)
làm.
a. Tính hoá trị chưa biết:
VD: PH3 , FeO , Al(OH)3 , Fe2(SO4)3 .
* PH3: Gọi a là hoá trị của P.
PH3 → 1. a = 3. 1

a=

3.1
= III .
1

* Fe2(SO4)3 : Gọi a là hoá trị của Fe.
Fe2(SO4)3 → a =

3.II
= III .
2

* VD khác : Tương tự.
b. Lập công thức hoá học:

Tổ KHTN

21

Năm học: 2013-2014



Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
Hoạt động 2:Cách lập CTHH của * Lưu ý: - Khi a = b → x = 1 ; y = 1.
hợp chất
- Khi a ≠ b → x = b ; y = a.
- GV hướng dẫn HS cách lập công
→ a, b, x, y là những số nguyên đơn
thức hoá học khi biết hoá trị.
giản nhất.
* Lập công thức hoá học:

- HS: Lập công thức hoá học của:

- HS lập:

+ S (IV) và O.

SO2

+ Al (III) và Cl (I).

AlCl3

+ Al (III) và SO4 (II).

Fe2(SO4)3
II. Vận dụng:

Hoạt động 3:Vận dụng
* GV đưa ra một số bài tập vận dụng

những kiến thức đã học.

+ BT1: Một hợp chất phân tử gồm 2 + HS: X 2 O3 → 2. X + 3. 16 = 160.
nguyên tử nguyên tố X liên kết với 3
160 − 48
= 56.
X
=
nguyên tử O và có PTK là 160 đvC. X
2
là nguyên tố nào sau đây.
X = 56 đvC. Vậy X là Fe
a. Ca.
b. Fe.
c. Cu.
d.
→ Phương án : d.
Ba.
V
Px O II y → x. V = y. II
+ BT2: Biết P(V) hãy chọn CTHH phù + HS:
a

II

hợp với quy tắc hoá trị trong số các
công thức cho sau đây.
a. P4O4 .

b. P4O10 .


x II 2
=
= .
y V 5

c. P2O5 .

x = 2; y = 5

d. P2O3 .

→ Phương án : c
+ HS:

X aO II → a =

1.II
= II . → X
1

h.trị II.
+ BT3: Cho biết CTHH hợp chất của
3.I
nguyên tố X với O và hợp chất của
= III →Y h.
Y aH I3 → a =
1
nguyên tố Y với H như sau: XO ,
trị III

YH3 .
Hãy chọn CTHH phù hợp cho hợp Vậy CTHH của X và Y là : X3Y2
chất của X với Y trong số các CT cho → Phương án : d
sau đây:
Tổ KHTN

22

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc
a. XY3 b. X3Y c. X2Y3

d. X3Y2

+ HS: Li2O = 2. 7 + 16 = 25 đvC.

e. XY
KNO3 = 39 + 14 + 3. 16 = 101 đvC.
+ BT4: Tính PTK của các chất sau:
Li2O, KNO3
16,K=39,N =14)

(Biết

- Các nhóm nộp kết quả và theo
= dõi,nhận xét chéo nhau
- Ghi chép kiến thức chuẩn


Li=7,O

- Các nhóm HS thảo luận hoàn thiện
từng bài tập
- GV chữa chi tiết để HS hiêủ cặn kẽ
PHẦN III . KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Những đánh giá cơ bản nhất
- Khối lượng kiến thức được luyện trong một tiết nhiều hơn.
- Học sinh hiểu bài sâu hơn, các em tự giác tích cực làm bài, có nhiều cách
làm hay và rút ra kết luận chính xác hơn.
- Kiến thức bài làm của cá nhân, nhóm làm ra đều được trình bày trước lớp.
Các nhóm so sánh sản phẩm lẫn nhau, thi đua tìm ra cách làm nhanh hơn, Trí tuệ
học sinh được phát huy một cách tối đa. Tiết học sôi nổi học sinh hứng thú thoải
mái.
2. Các kiến nghị:
Theo tôi muốn phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học
sinh và giờ dạy đạt kết quả cao thì người giáo viên phải:
- Bám sát đối tượng học sinh tìm hiểu trình độ hứng thú của từng em, từng
lớp.Từ đó đưa ra các bài tập hướng học sinh vào để học sinh có hứng thú giải
quyết. Với mỗi vấn đề khi giải quyết được nó phải gợi mở hướng giải quyết vấn
đề tiếp theo.

Tổ KHTN

23

Năm học: 2013-2014


Trường THCS Liên Châu –Yên lạc – Vĩnh Phúc

- Với mỗi bài cần nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung SGK kết hợp với các kiến
thức thực tế để xác định kiến thức trọng tâm. Giáo viên cần tăng cường tìm thêm
các cách làm mới trên cơ sở lấy nội dung sách giáo khoa làm trung tâm từ đó xây
dựng các phương pháp sát với thực tế, biến cái khó hiểu thành cái dễ hiểu.
- Đa dạng hoá cách tổ chức hoạt động tìm hiểu ghi nhớ kiến thức: Hoạt động
cá nhân, nhóm đôi, nhóm lớn, trò chơi…
- Với mỗi tiết luyện tập cần xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng để học sinh
vận dụng:
+ Tích hợp các kiến thức thực tế, gắn bài học với vấn đề đời sống sản xuất
+ Sử dụng các phương tiện hiện đại , lựa chọn phương pháp phù hợp, tổ chức
và phối hợp nhiều hình thức hoạt động cho học sinh.
+ Khuyến khích kịp thời các kết quả học sinh đạt được.
Trên đây là một vài nhận định và kinh nghiệm của toàn thể Tổ KHTN
trường THCS Liên Châu. Xin giới thiệu cùng các đồng nghiệp tham khảo. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để chuyên đề này được
hoàn chỉnh hơn và có thể ứng dụng vào trong thực tiễn giảng dạy các tiết luyện
tập của bộ môn Hóa học.
Liên Châu, ngày 25 tháng 8 năm 2013
Tổ KHTN-Trường THCS Liên Châu

Tổ KHTN

24

Năm học: 2013-2014



×