Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Kinh tế đầu tư thực trạng vốn FDI và ODA đầu tư vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.45 KB, 20 trang )

FDI
Thực trạng:
10 tháng đầu năm: Thu hút FDI bằng 91,3% cùng kỳ 2015
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 10
tháng đầu năm 2016. Theo đó, Việt Nam thu hút thêm được 17,613 tỷ USD vốn
FDI, bao gồm cả vốn đăng ký mới và tăng thêm, bằng 91,3% so với cùng kỳ 2015.
Cụ thể, từ đầu năm đến nay Việt Nam thu hút được 2.061 dự án FDI mới với
tổng vốn đăng ký đạt 12,265 tỷ USD, bằng 98,7% so với cùng kỳ năm ngoái và
967 lượt dự án tăng vốn, với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,348 tỷ USD, bằng
77,9% so với cùng kỳ 2015. Vốn FDI giải ngân 10 tháng đầu năm đạt 12,7 tỷ
USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước.
Từ đầu năm đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành,
lĩnh vực của Việt Nam. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được
nhiều nhất với 842 dự án đầu tư đăng ký mới và 691 lượt dự án điều chỉnh tăng
vốn, với tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm là 12,84 tỷ USD, chiếm 72,9% tổng
vốn đầu tư đăng ký trong 10 tháng đầu năm.
Hàn Quốc vẫn là nhà đầu tư dẫn đầu trong tổng số 65 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm là 5,62 tỷ USD,
chiếm 31,9% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ 2 với tổng vốn
đăng ký mới và tăng thêm là 1,92 tỷ USD, chiếm 10,9% tổng vốn đầu
tư. Singapore đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,73 tỷ
USD, chiếm 9,8% tổng vốn đầu tư.
Hải Phòng, Hà Nội và Đồng Nai là 3 tỉnh thu hút đầu tư mạnh nhất trong 10
tháng đầu năm với lần lượt là 2,73 tỷ USD; 2,03 tỷ USD và 1,87 tỷ USD.
FDI "đổ" mạnh vào công nghiệp chế biến, chế tạo


Trong 10 tháng năm 2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép
mới đạt 8.389,4 triệu USD, chiếm 68,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động
kinh doanh bất động sản đạt 999,3 triệu USD, chiếm 8,1%; các ngành còn lại đạt


2.876,6 triệu USD, chiếm 23,5%.
Những tín hiệu lạc quan từ đầu năm
Theo số liệu chính thức của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
cho thấy, tính đến ngày 20/1/2016, cả nước có 127 dự án mới với tổng vốn đăng
ký là 1,01 tỷ USD, tăng 157,9% so với cùng kỳ năm 2015; có 56 lượt dự án đăng
ký tăng vốn với tổng vốn tăng thêm là 323,41 triệu USD, tăng 19,2% so với cùng
kỳ năm 2015.
Như vậy, tính chung trong tháng 1/2016, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng
thêm là 1,33 tỷ USD, tăng 101,2% so với cùng kỳ năm 2015. Điểm sáng khác thể
hiện ở vốn giải ngân tăng 23,1% so với cùng kỳ năm 2015, ước đạt 800 triệu USD.
Đây chính là tín hiệu tích cực báo hiệu một năm thu hút FDI sẽ đạt kết quả khả
quan không kém năm 2015.
Ông Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), thì số vốn giải ngân sẽ tiếp tục xu hướng tích cực. “Năm 2015,
vốn FDI giải ngân là 14,5 tỷ USD, theo xu hướng thì có thể năm nay, vốn giải
ngân sẽ tiếp tục tăng khoảng 10-15%, thậm chí cao hơn”, ông Thắng dự báo.
Năm 2015, việc một loạt dự án FDI quy mô lớn, như phần tăng thêm 3 tỷ
USD của Dự án Samsung Thái Nguyên, hay 3 tỷ USD của Samsung Display, rồi
Dự án Liên hợp Thép Formosa Hà Tĩnh... đã đóng góp lớn cho vốn giải ngân.
Chưa năm nào, vốn FDI giải ngân tốt như vậy và kỳ vọng đang tiếp tục được đặt
vào năm 2016.
Hạn chế:


Thứ nhất, dù đã có nỗ lực nhất định trong việc thu hút một số doanh nghiệp
công nghệ cao, đánh giá chung Việt Nam vẫn chưa đạt mục tiêu nâng cao đáng kể
trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp FDI.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch Đầu tư, mặc dù công nghệ chuyển giao vào Việt
Nam hầu hết là công nghệ có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở Việt
Nam, phần lớn các doanh nghiệp FDI có công nghệ trung bình so với thế giới

(80%), một phần đáng kể có công nghệ lạc hậu (14%) và chỉ có 6% có công nghệ
cao. Các công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI thường là các công nghệ
được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư chứ không phải theo nhu cầu đổi mới
công nghệ do phía Việt Nam chủ động đưa ra. Sau hơn 25 năm thu hút FDI, kết
quả như vậy là hết sức hạn chế. Lưu ý rằng, trong số 500 Tập đoàn xuyên quốc gia
hàng đầu thế giới, chúng ta mới chỉ thu hút khoảng 100, trong khi đó Trung Quốc
đã thu hút 400 doanh nghiệp. Và ngay cả trong trường hợp thu hút một số tập đoàn
công nghệ cao nổi tiếng toàn cầu như Nokia, Samsung... công đoạn sản xuất tại
Việt Nam là công đoạn cuối, tức là chỉ lắp ráp, không đòi hỏi lao động chất lượng
cao và công nghệ tiên tiến.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có những ưu đãi chung đối với các ngành công
nghệ cao chứ chưa có những ưu đãi cụ thể, cao hơn đối với các ngành công nghệ
cao đi kèm với công đoạn sản xuất đòi hỏi công nghệ cao.
Ngoài ra, do nhiều dự án FDI đưa vào dây chuyền công nghệ lạc hậu nên có
tác động tiêu cực đến môi trường. Báo chí đã đề cập nhiều về sự tàn phá môi
trường của một số doanh nghiệp FDI như công ty Vedan tại Đồng Nai, công ty
Tung Kuang tại Hải Dương, công ty Long Tech tại Bắc Ninh... Nhiều doanh
nghiệp chưa tự giác trong việc tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường, chỉ vận
hành hệ thống xử lý chất thải khi cơ quan chức năng quản lý môi trường phát hiện
và xử phạt.
Bên cạnh việc phá hoại môi trường là việc khai thác cạn kiệt tài nguyên.
Trong thời gian vừa qua, giai đoạn trải thảm đỏ đón nhà đầu tư, đã thu hút đầu tư


vào khai thác tài nguyên khoáng sản rất nhiều từ dầu khí đến than đá, quặng…
Đây là nguồn tài nguyên không tái tạo được. Sự khai thác bừa bãi thiếu quy hoạch
sẽ gây tổn thất lớn tài nguyên quốc gia.
Thứ hai, mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước
còn yếu, không hỗ trợ nhiều cho khu vực doanh nghiệp trong nước phát triển. Kết
quả khảo sát của UNIDO năm 2011 cho thấy doanh nghiệp FDI tham gia khảo sát

chỉ sử dụng ở mức độ thấp các sản phẩm trung gian cho đầu vào được chế biến chế
tạo trong nước. Tỷ lệ sản phẩm đầu vào được mua từ các nhà chế biến chế tạo
trong nước ở tất cả loại hình doanh nghiệp FDI là tương đối thấp (khoảng 26,6%).
Các doanh nghiệp FDI nhập khẩu phần lớn thành phần đầu vào khác (58,4%) hoặc
thông qua công ty mẹ (20,4%) hay nhập trực tiếp (38%).
Mối liên kết dọc tương đối yếu này giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước cũng được kiểm chứng qua cuộc khảo sát chỉ số PCI của VCCI năm
2012. Theo cuộc điều tra này, các doanh nghiệp FDI tham gia tích cực vào chuỗi
cung ứng toàn cầu và chủ yếu sử dụng hàng hóa và dịch vụ trung gian của doanh
nghiệp nước ngoài (38% từ các chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài, 18% từ
doanh nghiệp khác ở nước ngoài), trong khi đó chỉ sử dụng có 34% từ các doanh
nghiệp tư nhân trong nước.
Thứ ba, trong những năm qua, chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ngày
càng trở thành một vấn đề nóng trong quản lý hoạt động kinh doanh của khu vực
FDI, làm thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Những dấu hiệu của hiện tượng
này đã có từ nhiều năm nay khi từ các số liệu vĩ mô cho thấy sự mất cân đối giữa
đóng góp của vốn FDI vào vốn tổng đầu tư xã hội (khoảng 25%), và đóng góp vào
ngân sách Nhà nước (chỉ khoảng 10%). Bên cạnh đó, theo số liệu của Tổng cục
Thống kê so với khu vực DNNN và DNTN của Việt Nam, khu vực FDI lại có tỷ lệ
lớn các doanh nghiệp bị thua lỗ trong suốt một thời gian dài (khoảng gần 50% giai
đoạn 2002-2009), tuy nhiên điều đáng ngạc nhiên là nhiều doanh nghiệp thua lỗ lại
vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất, duy trì kinh doanh và tiếp tục thua lỗ trong những


năm sau đó. Những con số nói trên cho thấy có điều gì đó không ổn trong báo cáo
thống kê hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI.
Thứ tư, chính sách phân cấp triệt để hay còn gọi là phân cấp "trắng" công
tác cấp phép, quản lý đầu tư FDI cho các địa phương trong điều kiện thiếu thể chế
liên kết vùng. Các địa phương còn thiếu năng lực thẩm định và quy hoạch đầu tư
đã dẫn đến tình trạng cấp phép tràn lan, phá vỡ quy hoạch ngành và lãnh thổ, làm

giảm hiệu quả thu hút và sử dụng các dự án FDI.
Thứ nhất, Việt Nam chưa có chiến lược dài hạn về thu hút FDI. Trong vòng
2 thập kỷ qua mức độ thu hút FDI của Việt Nam khá ấn tượng, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các mục tiêu khác của việc thu hút FDI vẫn chưa
đạt được như như mục tiêu về tạo công ăn việc làm hay như mục tiêu thu hút các
doanh nghiệp FDI có công nghệ cao nhằm tạo ra các giá trị gia tăng nội địa cao và
kỳ vọng chuyển giao công nghệ trong ngành sản xuất cũng như nông – lâm – thủy
hải sản đã không thành hiện thực khi phần lớn các công ty đa quốc gia vào Việt
Nam chỉ đầu tư vào các dây chuyền sản xuất đơn giản, công nghệ thấp, ít giá trị
gia tăng.
Thứ hai, chính sách thu hút FDI hiện tại tương đối phức tạp và mơ hồ. Có
quá nhiều các dạng ưu đãi đầu tư được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác
nhau. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc thực hiện. Các
quy chế về ưu đãi đầu tư còn thiếu, tạo kẽ hở cho các nhà đầu tư không trung thực
trục lợi. Chưa kể, các ưu đãi đầu tư đa phần là ưu đãi về thuế, trong khi các biện
pháp khuyến khích đầu tư khác như đào tạo lao động, liên kết công nghiệp, chuỗi
cung ứng… lại thiếu vắng.

Cơ hội thu hút FDI trong khối TPP
Hiện nay, Việt Nam đã và đang là một điểm sáng thu hút đầu tư trong khu
vực và quốc tế. Điển hình là Việt Nam đã có nhiều nỗ lực vượt bậc và đạt được


những kết quả quan trọng trong cải cách thủ tục hành chính thuế, góp phần cải
thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây cũng
là một nhân tố quan trọng hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Bởi theo đánh giá của
các doanh nghiệp FDI thì môi trường kinh doanh ổn định là một tiền đề không thể
thiếu để quyết định đầu tư.
Theo TS. Nguyễn Mại, nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang đánh giá tích cực về
triển vọng phát triển kinh tế và môi trường đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, chúng ta

ngày càng tăng cường được các lợi thế cạnh tranh để trở thành trung tâm xuất khẩu
của thế giới, thu hút nhiều dòng chảy vốn FDI.
Riêng tại khu vực châu Á, xu hướng mới của FDI vẫn là chuyển dịch từ
Trung Quốc (hiện đứng đầu thế giới về thu hút FDI) sang các nước khác. Trong
bối cảnh đó, Việt Nam được nhiều tập đoàn đa quốc gia lựa chọn là phương án số
1 để rót vốn đầu tư. Dự báo về thu hút FDI trong năm 2016, GS Nguyễn Mại cho
rằng, có khả năng sẽ cao hơn năm 2015 khoảng 3 - 4 tỷ USD.
Số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố, tính
đến cuối năm 2015, đã có 8 nước ASEAN bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái
Lan, Brunei, Indonesia, Philippines, Lào và Campuchia đầu tư FDI vào Việt Nam.
Các nhà đầu tư ASEAN đã đầu tư vào 18/18 ngành trong hệ thống phân ngành
kinh tế quốc dân, với trên 2.700 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đầu tư đăng ký
56,85 tỷ USD, chiếm 20,9% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, việc AEC được thành lập vào
đầu năm 2016, với các hiệp định chung về điều chỉnh đầu tư (Hiệp định Đầu tư
toàn diện ASEAN - ACIA), thương mại (Hiệp định Thương mại hóa ASEAN ATIGA) và dịch vụ (Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ - AFAS), sẽ làm tăng
sức hấp dẫn của khu vực này trong thu hút đầu tư.
Hơn nữa, so với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam vẫn là quốc gia
có nhiều lợi thế thu hút đầu tư nhờ nền tảng chính trị ổn định, hạ tầng giao thông,


chính sách thu hút đầu tư được cải thiện mạnh mẽ. Chính phủ Việt Nam liên tục
đưa ra cam kết, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư trong và ngoài nước
hoạt động.
Chuyên gia kinh tế trưởng Shang-Jin Wei của Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) nhận định, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với làn sóng cạnh tranh trực tiếp từ
một số thành viên TPP về chi phí sản xuất thấp. Trong đó, luồng vốn đầu tư FDI
vào những ngành công nghiệp sử dụng lao động chi phí thấp như dệt may và giày
dép sẽ bắt đầu chuyển hướng sang thị trường Việt Nam.
Ông Phan Hữu Thắng, cho rằng, TPP là một hiệp định kiểu mẫu của thế kỷ 21,

với mức độ sâu hơn, rộng hơn WTO về các lĩnh vực cắt giảm các dòng thuế; tăng
cường quy định liên quan đầu tư nước ngoài và bảo vệ nhà đầu tư; bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ; tăng cường minh bạch trong cạnh tranh; các vấn đề về lao động…
Do đó, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên TPP sẽ
phát triển mạnh trong tương lai. Từ đó kéo theo dòng vốn đầu tư vào Việt Nam của
các nước trong khối TPP và cả các nước ngoài khối. Các nhà đầu tư ngoài khối
TPP sẽ đầu tư vào Việt Nam nhằm hưởng lợi ưu đãi thuế quan
Những cơ hội cho Việt Nam
Theo các chuyên gia kinh tế, TPP và thỏa thuận thương mại với Liên minh
Châu Âu (EU) mới đây sẽ giúp Việt Nam tăng cường sức mạnh xuất khẩu và thu
hút thêm vốn FDI.
TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư), cho rằng TPP là một hiệp định thương mại tự do (FTA) kiểu mẫu của
thế kỷ 21, với mức độ sâu hơn, rộng hơn WTO về các lĩnh vực cắt giảm các dòng
thuế; tăng độ mở cửa của dịch vụ; tăng cường quy định liên quan đầu tư nước
ngoài và bảo vệ nhà đầu tư; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; tăng cường minh bạch
trong cạnh tranh; các vấn đề về lao động…
Do đó, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên TPP sẽ
phát triển mạnh trong tương lai, từ đó kéo theo dòng vốn đầu tư vào Việt Nam từ


các nước trong khối TPP và cả các nước ngoài khối. Các nhà đầu tư ngoài khối
TPP sẽ đầu tư vào Việt Nam nhằm hưởng lợi ưu đãi thuế quan (Quốc Hùng- Hồng
Phúc, 2015).
Nhiều chuyên gia quốc tế cũng cho rằng, Việt Nam sẽ là quốc gia được
hưởng lợi nhiều nhất khi tham gia TPP, dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có
trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ
và kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Mức tăng
đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai
thác các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp.

Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh vượt trội về thu hút đầu tư
nước ngoài, do các nước cạnh tranh với Việt Nam như Trung Quốc, Philippines,
Indonesia, Thái Lan, Myanmar... đều chưa được tham gia TPP.
Báo cáo Tác động của TPP do Viện Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế
(VEPR) công bố mới đây đánh giá rằng khi tham gia vào TPP, đầu tư nước ngoài
được dự đoán sẽ tăng khoảng 13 tỷ đô la Mỹ, mức tăng gần bằng tăng thu hút FDI
vào Nhật Bản, gấp đôi mức tăng FDI vào Úc, Malaysia... Thực tế từ năm 2013 trở
lại đây, trước việc TPP sẽ trở thành hiện thực, nhiều dự án về dệt may, giày da,…
từ các nước ngoài khối TPP đã đổ vào Việt Nam, và đây là một thí dụ cụ thể về
khả năng thu hút FDI từ các nước ngoài khối TPP. Theo báo cáo của VEPR, sở dĩ
FDI tăng là do Việt Nam là nước có lợi thế xuất khẩu khi giá nhân công rẻ, chi phí
đầu vào trung bình rẻ hơn so với nhiều nước khác, nguyên liệu nhiều ngành như
nông sản, thủy sản có tại chỗ…
Thách thức
Dòng vốn FDI của các đối tác lớn trong toàn cầu có xu hướng giảm; Cạnh
tranh trong thu hút FDI ngày càng gay gắt giữa các quốc gia. Sức cạnh tranh của
môi trường đầu tư mỗi nước sẽ quyết định thành tựu thu hút đầu tư của nước đó.
Đối với Việt Nam, những khó khăn nội tại của nền kinh tế đã tồn tại nhiều năm
vần cần tiếp tục được khắc phục: Nguồn nhân lực cao, đã qua đào tạo còn thiếu;
Cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn yếu kém so nhiều nước trong khu vực; Công nghiệp
hỗ trợ chưa phát triển, còn có khoảng cách giữa chính sách và việc thực thi...


Bên cạnh việc thu hút một lượng lớn nguồn vốn FDI, Việt Nam cũng phải
đối mặt với những thách thức. Theo các chuyên gia kinh tế, sẽ xảy ra sự cạnh tranh
khốc liệt giữa Việt Nam với các nước thành viên TPP trong thu hút đầu tư, bởi các
quốc gia này là những nền kinh tế phát triển, có dịch vụ, chính sách liên quan đến
đầu tư quốc tế rõ ràng.
Đồng thời, quá trình hội nhập sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực
của toàn bộ nền kinh tế. Các ngành bị ảnh hưởng rất lớn khi Việt Nam tham gia

vào TPP sẽ là chăn nuôi, doanh nghiệp phân phối - bán lẻ, khu vực doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Ngoài ra, vốn FDI giúp công nghiệp phụ trợ Việt Nam phát triển, nhưng
cũng là mối nguy cho các doanh nghiệp nội địa không có quy mô lớn và công nghệ
hiện đại...
Hơn nữa, TPP đòi hỏi các nước tham gia phải mở cửa rộng hơn nền kinh tế
cho cạnh tranh nước ngoài, thực thi luật lao động chặt chẽ hơn và các tiêu chuẩn
môi trường cao hơn.
GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
(VAFIE) trả lời phỏng vấn trên báo Dân trí cho rằng, TPP cũng là 1 trong rất nhiều
hiệp định thương mại tự do khu vực mà Việt Nam đã ký kết và tham gia nên chúng
ta không nên coi nó là chiếc đũa thần hoặc kỳ vọng quá cao vào nó để có thể thay
đổi được nền kinh tế từ đây. Cái chính vẫn ở cách chúng ta chơi và những người
chúng ta chọn ra để chơi với họ. Cần phổ biến cho người dân, doanh nghiệp hiểu
về TPP là gì và thực sự chủ động trong cuộc chơi này. Ngoài những màu hồng,
phải chỉ cho họ những góc tối, điểm mờ được gọi tên là những thách thức và khó
khăn không hề nhỏ.
TS. Phan Hữu Thắng cho rằng, việc thu hút đầu tư nước ngoài phải song
song hai yếu tố: vốn đi kèm công nghệ. Vị thế của Việt Nam hiện nay khác 25 năm
về trước, chúng ta đã hội nhập sâu rộng và trở thành thành viên của nhiều hiệp
định thương mại, khu vực kinh tế chung. Cho nên, trong thời gian tới, chúng ta có
nhiều cơ hội để đón các dòng vốn từ bên ngoài. Cơ hội là thế nhưng với thu hút


dòng vốn FDI, chúng ta nên đặt vấn đề: lựa chọn đối tác, dự án, môi trường và an
ninh quốc phòng. Đặc biệt, các địa phương, không nên “chạy theo thành tích” mà
quên đi những hệ lụy khi cấp phép “nhầm” dự án.
Ở đây, vai trò quản lý và quy định cho vấn đề xét duyệt dự án đầu tư cũng
như hậu kiểm là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, chúng ta cũng phải quan tâm đến
chuyện dòng vốn FDI đi vào thực tế. Đến nay, trong tổng số hơn 250 tỷ USD thì

chỉ mới giải ngân được trên 100 tỷ USD, vậy những dự án còn lại cần phải được
đốc thúc để sớm triển khai thực hiện (Hải Âu, 2015).
Giải pháp:
Việt Nam cần phải giải quyết đồng thời 3 nhiệm vụ: Phát triển nhanh về
kinh tế vùng và cả nước; Phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định về chính trị, trật
tự an toàn xã hội, sự lành mạnh về môi trường văn hóa và sinh thái; Phát triển có
hiệu quả, cả hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường, coi hiệu quả tổng thể, lâu
dài chi phối hiệu quả cụ thể, trước mắt. Muốn vậy cần triển khai một số giải pháp :
Thứ nhất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút, sử dụng FDI
khoa học, hợp lý
- Tiếp tục thu hút các nhà đầu tư vừa và nhỏ phù hợp với từng lĩnh vực, từng
địa phương; đồng thời, chú ý thu hút và chăm sóc những nhà đầu tư lớn, có sử
dụng công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường.
- Có kế hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong triển khai dự
án sau khi đã được cấp phép, đem lại hiệu quả tốt cho đôi bên.
- Định hướng phát triển các khu công nghiệp chuyên ngành, hạn chế phát
triển các khu công nghiệp đa ngành như hiện nay.
- Giảm bớt các quy hoạch không cần thiết, tạo một quy hoạch thống nhất, dễ
thực hiện, đạt hiệu quả cao. Đồng thời, phải có kế hoạch định hướng thu hút đầu tư
vào lĩnh vực dịch vụ hoặc lĩnh vực công nghệ chuyển dần sang những ngành có


giá trị tăng cao như công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp sản xuất, phát triển hạ tầng và
thị trường tài chính.
Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho FDI.
- Đảm bảo ổn định về kinh tế, chính trị cho hoạt động kinh doanh của các
nhà đầu tư nước ngoài.
- Giảm tối thiểu các thủ tục hành chính, bỏ những thủ tục không cần thiết,
rút ngắn thời gian cấp phép, giúp doanh nghiệp triển khai dự án nhanh chóng.
- Tập trung nguồn nhân lực phát triển hệ thống kết cấu, hạ tầng về vật chất

và hạ tầng xã hội một cách đồng bộ. Đồng thời, phải có chương trình kế hoạch
phát triển đào tạo đội ngũ lao động trình độ cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu.
Thứ ba, thúc đẩy xúc tiến đầu tư phù hợp, khoa học và hợp lý.
- Không nên hình thức kiểu phong trào, phải thực sự xúc tiến đầu tư có trọng
tâm, trọng điểm và hiệu quả thực sự. Trong xúc tiến phải tránh cạnh tranh không
lành mạnh giữa các địa phương.
- Cần tổ chức thực hiện xúc tiến đầu tư một cách đa dạng, phong phú như:
Thông qua các chuyến viếng thăm của các nguyên thủ quốc gia, tổ chức hội nghị
xúc tiến đầu tư trong nước và quốc tế.
Thứ tư, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các nhà đầu tư tùy theo từng lĩnh vực
trong từng thời kỳ
- Cần có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập, thuế sử dụng đất đai, thuế, hải
quan cho các nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực như: Các dự án phát
triển công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao, phát triển hạ tầng, thị trường tài chính.


- Chính quyền các cấp cần sát cánh với các nhà đầu tư nước ngoài giải quyết
những khó khăn về các thủ tục hành chính cùng những khó khăn khác phát sinh
trong tiến trình hoạt động kinh doanh.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp FDI
Cần tập trung kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các doanh nghiệp FDI
làm gây ô nhiễm môi trường, cố tình sử dụng những công nghệ lạc hậu, bắt tay với
nhau để làm giá, chuyển giá, trốn lậu thuế, đối xử hà khắc với công nhân nước sở
tại, bỏ trốn, xù nợ… Muốn vậy, cần phải đào tạo, xây dựng đội ngũ kiểm tra, kiểm
soát đủ trình độ, năng lực và phẩm chất; trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại để phát hiện những sai phạm, tạo cơ sở để xử lý nghiêm minh những
doanh nghiệp FDI vi phạm pháp luật Việt Nam.
Ví dụ
Việt Nam đang được xem là “con át chủ bài” trong cuộc đổ bộ thị trường
ngoại của Lotte. Có mặt tại Việt Nam từ 2008, đến nay, Lotte đang sở hữu 12 công

ty hoạt động trong nhiều lĩnh vực, như bánh kẹo, thức ăn nhanh, bán lẻ, giải trí,
xây dựng, công nghệ thông tin... 6 TTTM lớn, 178 cửa hàng Lotteria, 11 rạp chiếu
phim, 1 khách sạn.


ODA
Tầm quan trọng của ODA đối với phát triển kinh tế Việt Nam
Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc,
Malaixia và từ tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt Nam
đã và đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng và đa
dạng hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong
chiến lược này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể
hiện ở một số điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng
vốn đầu tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được.
Do đó, ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn
cho đầu tư phát triển. Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật
của chúng ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn
gì, nhưng cho đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện
đại với mạng lưới điện, bưu chính viễn thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành
phố trong cả nước, nhiều tuyến đường giao thông được làm mới, nâng cấp, nhiều
cảng biển, cụm cảng hàng không cũng được xây mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra
đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra một môi
trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật một
lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành giáo dục,
y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp …
Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ
hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.

Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành
tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài
trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công


nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các
buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ
Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan học tập kinh
nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ dự
án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại
cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này các nhà tài trợ sẽ góp
phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta.
Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế .
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả
nước. Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành
chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả
những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước,
trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một
cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện
thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ
cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho
việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu
cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ

thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm
phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các
cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho
môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở
hạ tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành


được do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà
nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI.
Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần
quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thực trạng:
Mặc dù nguồn vốn ODA chỉ chiếm khoảng 4% GDP, song lại chiếm tỷ
trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bình quân
chiếm khoảng 15-17%). Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngân sách nhà
nước dành cho đầu tư phát triển của ta còn hạn hẹp, trong khi nhu cầu phát triển
kết

cấu

hạ

tầng


kinh

tế

-



hội

lại

rất

lớn.

Có thể nói, ODA là nhân tố xúc tác cho phát triển, giúp Việt Nam thực hiện thành
công các chiến lược phát triển 10 năm và các kế hoạch 5 năm. Cụ thể:
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: Các chương trình và
dự án ODA đã góp phần cải thiện và phát triển sản xuất nông nghiệp, thay đổi bộ
mặt nông thôn Việt Nam, như: các chương trình phát triển thủy lợi, giao thông
nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phát triển lưới điện nông
thôn…
Các dự án hỗ trợ phát triển hạ tầng nông thôn đã góp phần cải thiện đời sống
người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong
việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục..., góp phần
quan trọng vào công tác xoá đói giảm nghèo tại các vùng nông thôn.
Bên cạnh đó, các chương trình, dự án ODA cũng đã hỗ trợ công tác nghiên cứu
khoa học, công nghệ nông nghiệp giúp nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm
nông nghiệp, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.



Về năng lượng: Nhờ có ODA, Việt Nam đã xây dựng hàng loạt các dự án
nguồn thuỷ điện, nhiệt điện và năng lượng tái tạo, lưới điện và trạm phân phối...
góp phần nâng cao năng lực sản xuất, truyền tải, phân phối, quản lý hệ thống điện,
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải cao với tốc độ 15%-17%/năm.
Về giao thông vận tải: Đây là ngành tiếp nhận vốn ODA nhiều nhất. Trong
thời kỳ 1990-2013, ngành Giao thông Vận tải đã hoàn thành và đang thực hiện 132
dự án với tổng vốn ODA hơn 17 tỷ USD, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn
ODA đạt 5 tỷ USD và đang thực hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ
USD. Các chương trình, dự án ODA trong lĩnh vực này đã hỗ trợ Việt Nam xây
dựng và hoàn thiện hệ thống giao thông quốc gia cũng như giao thông vùng và tại
các tỉnh, thành.
Trong giáo dục và đào tạo: Tất cả các cấp học đều nhận được sự hỗ trợ
thông qua các chương trình và dự án ODA, giúp tăng cường năng lực dạy và học,
hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi được đến trường, đẩy mạnh giáo dục cho tất cả mọi
người. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các dự án hỗ trợ kỹ thuật, chủ yếu bằng viện
trợ không hoàn lại, đã đào tạo và đào tạo lại cho hàng vạn cán bộ Việt Nam ở các
cấp về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quản lý kinh tế, tài chính
ngân hàng, quản trị công...
Các chương trình và dự án ODA đưa tới Việt Nam những chuyên gia quốc
tế từ khu vực và thế giới, thông qua đó, cán bộ Việt Nam đã học hỏi được không
những về chuyên môn mà còn phong cách làm việc chuyên nghiệp, tinh thần trách
nhiệm đối với công việc được giao.
Về y tế: các chương trình, dự án ODA đã tăng cường cơ sở vật chất và kỹ
thuật cho công tác khám và chữa bệnh, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, xây dựng
cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia...
Ngoài ra, nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, phòng chống
HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm được thực hiện bằng vốn ODA đã đem lại
hiệu quả tích cực. Sự hỗ trợ của ODA đối với ngành y tế trong thời gian qua đã

góp phần vào những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ (MDG) liên quan tới y tế.


Trong phát triển đô thị và bảo vệ môi trường: Từ nguồn vốn ODA, hầu hết
các thành phố, thị xã, thị trấn đã được xây dựng mới, cải tạo hoặc mở rộng hệ
thống cung cấp nước sinh hoạt, thoát nước và một số nhà máy xử lý nước thải.
Nhiều thành phố ở Việt Nam đã được cải thiện về môi trường bằng các dự án vốn
ODA, điển hình thành công là dự án kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè ở thành phố Hồ
Chí Minh, với sự hỗ trợ vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB), dòng kênh tưởng
như đã chết này lại hồi sinh, trở thành con kênh xanh, sạch, đẹp.
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: Nhiều kỹ năng và kinh nghiệm quản
lý tiên tiến được chuyển giao cho các cơ quan, các trung tâm nghiên cứu, cũng như
các bộ, ngành và địa phương với sự hỗ trợ của các chương trình, dự án ODA về
công nghệ cao, tiên tiến trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây dựng... Dự án phát triển hạ tầng khu công
nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội
do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển hình.
Về xây dựng thể chế: Thông qua việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, Việt Nam
đã học hỏi được những kiến thức, kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện môi trường
thể chế, pháp lý trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế và khu vực, nhất là quá trình chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Nhiều dự thảo luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đã
được xây dựng với sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA, như: Luật Xây dựng, Luật Đất
đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp…
Hạn chế và yếu kém
Qua 20 năm tiếp nhận ODA, thực tế cũng đã chỉ ra còn nhiều hạn chế trong
việc tiếp nhận, sử dụng hiệu quả nguồn lực này, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, năng lực hấp thụ nguồn vốn ODA còn kém, chưa đáp ứng được yêu
cầu. Có thể nhìn nhận thực trạng này thông qua tỷ lệ giải ngân so với nguồn vốn

ODA đã ký kết trong 20 năm qua chỉ đạt khoảng 67%. Riêng thời kỳ 2006-2010,
khoảng 7 tỷ USD vốn ODA đã ký kết, nhưng chưa giải ngân, trong đó có nhiều
chương trình, dự án được hưởng các điều kiện tài chính ưu đãi cao phải chuyển
tiếp sang thời kỳ 2011-2015.


Nhiều chương trình và dự án chậm tiến độ, nhiều trường hợp phải xin gia
hạn. Do chậm tiến độ thực hiện, mà một số dự án bị cắt giảm, hủy một số hạng
mục, hoặc phải tái cấu trúc toàn bộ dự án, gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả sử dụng
nguồn vốn này.
Hai là, thiết kế của một số chương trình, dự án ODA chưa sát với thực tế
Việt Nam nói chung và của các địa phương nói riêng. Một số dự án ODA thí điểm
những mô hình phát triển, như: tín dụng quy mô nhỏ, quản lý và kinh doanh nước
sạch, phát triển sinh kế, bảo vệ và phát triển rừng..., nhưng chỉ hoạt động khi còn
dự án, mà không nhân rộng được và áp dụng trong thực tế sau khi dự án kết thúc.
Đồng thời, trong cùng một lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, các nhà tài trợ áp
dụng các mô hình khác nhau, dẫn đến trùng lặp, kém hiệu quả và lãng phí nguồn
lực của địa phương, cũng như của các nhà tài trợ.
Ba là, việc lồng ghép các chương trình và dự án của Chính phủ trên địa bàn
với các chương trình và dự án ODA, nhiều khi có sự trùng lặp, có những nội dung
gần nhau, như: xóa đói giảm nghèo, giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn...
làm hạn chế hiệu quả nguồn vốn.
Thực tế đã xảy ra trên cùng một địa bàn thôn, xã... có nhiều công trình cùng
một lĩnh vực do nhiều nguồn vốn tài trợ, song chính quyền địa phương không đủ
năng lực quản lý và thiếu nguồn tài chính nhằm duy trì hoạt động của các công
trình này một cách có hiệu quả để phục vụ lâu dài cho người dân.
Bốn là, nhiều bộ, ngành và địa phương để xảy ra những vụ việc vi phạm các
quy định quản lý ODA của Chính phủ và của nhà tài trợ, có tình trạng tham nhũng
gây ảnh hưởng đến uy tín quốc gia.
Năm là, sự phối hợp trong nội bộ các bộ, ngành, giữa Trung ương, địa phương

và các nhà tài trợ chưa thật sự thông suốt, nhất là các lĩnh vực có sự tham gia của
nhiều nhà tài trợ hoặc các chương trình, dự án đa ngành đa cấp và đa mục tiêu.
Sáu là, tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực và trình độ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ tham gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất là ở các
địa phương. Nhân sự các ban quản lý dự án thường không ổn định, trong nhiều


trường hợp hoạt động kiêm nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa thực hiện
thường xuyên, có hệ thống và bài bản.
GIẢI PHÁP: Để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA trong thời
gian tới, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập
trung bình thấp, cần phải thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng cho các chương trình
và dự án ODA để đạt tỷ lệ giải ngân cao nhất và nhanh nhất, đây là điều rất cấp
thiết với Việt Nam. Thiếu nguồn lực đối ứng, gồm tài chính và nguồn vốn con
người có năng lực, thì khó mà thành công trong sử dụng ODA có hiệu quả cao để
phục vụ các mục tiêu phát triển. Dù là ODA vốn vay hay viện trợ không hoàn lại
đều đòi hỏi những chi phí trong nước mới có thể hiện thực hóa được vốn ODA trở
thành những kết quả phát triển cụ thể.
Thứ hai, xu thế nguồn vốn ODA không hoàn lại và có lãi suất ưu đãi giảm
đi khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, thay vào đó phải sử dụng
vốn vay kém ưu đãi. Vì thế, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay này đòi hỏi Việt
Nam phải tăng cường năng lực và cải tiến mạnh mẽ tình hình thực hiện dự án, sử
dụng tập trung hơn để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế và xã hội quy mô lớn, có
giá trị và tạo ra tác động lan tỏa đối với sự phát triển chung của cả nước.
Thứ ba, hoàn thiện các văn bản pháp lý, đổi mới trong quy trình và thủ tục
quản lý dự án ODA trên cơ sở kết hợp tham khảo những quy chuẩn của các nhà tài
trợ, nhất là trong ba khâu công việc quan trọng: đấu thầu mua sắm; đền bù, di dân
và tái định cư; quản lý tài chính của các chương trình, dự án dẫn đến tình trạng
trình duyệt “kép”.

Thứ tư, trong quan hệ hợp tác phát triển mới, các mô hình viện trợ mới sẽ
được áp dụng nhiều hơn, sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính
phủ được khuyến khích. Do vậy, Chính phủ cần có những chính sách và thể chế
thích hợp để tạo môi trường cho các mô hình, phương pháp tiếp cận mới. Bên cạnh
đó, cần hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ để sử dụng một cách hợp lý các cách
tiếp cận và mô hình viện trợ mới, nhất là hỗ trợ ngân sách trong tiếp nhận tài trợ để


nâng cao hiệu quả sử dụng, giảm bớt các thủ tục và góp phần cải thiện các hệ
thống quản lý công của Việt Nam theo chuẩn mực và tập quán quốc tế.
Thứ năm, cần xác định các ưu tiên đầu tư khi sử dụng ODA và nâng cao
công tác giám sát, theo dõi và đánh giá dự án. Bởi, bản chất ODA vẫn là khoản
vay và có nghĩa vụ phải trả nợ, nên cần loại bỏ tư tưởng “xin” ODA trong một bộ
phận cán bộ ở các cấp, kể cả cán bộ lãnh đạo chưa hiểu rõ vai trò và bản chất của
ODA, dẫn đến chưa quan tâm đầy đủ đến việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.
Do đó, cần nâng cao năng lực và nhận thức cho đội ngũ tham gia quản lý, sử dụng
nguồn vốn ODA



×