Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.92 KB, 13 trang )

Đại học quốc gia hà nội
khoa kinh tế
-------*****-------

nguyễn lê quý hiển

năng lực cạnh tranh xuất khẩu
của sản phẩm dệt may việt nam
Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị
Hà nội 2005

PHN M U


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với tốc độ tăng trƣởng trung bình là 23,8%/năm (1990-2000) và tốc độ tăng
trƣởng năm 2004 là 19%, ngành dệt may Việt Nam đang là một trong những ngành
có tỷ lệ tăng trƣởng cao nhất. Với 92% sản phẩm sản xuất ra để phục vụ xuất khẩu,
sản phẩm xuất khẩu đóng vai trò tối quan trọng trong phát triển ngành dệt may
Việt Nam. Cùng với dầu thô, gạo, thủy-hải sản, các sản phẩm dệt may là một trong
những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua
cũng như định hướng cho thời gian tới (năm 2004: đóng góp 4,3 tỷ USD trong
tổng số 26 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu).
Tuy nhiên, do Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thƣơng mại Thế giới (WTO) nên Việt Nam sẽ không đƣợc hƣởng những ƣu đãi
trong Hiệp định Dệt may (ATC) mang lại. Trong khi đó, các quốc gia là thành viên
WTO đã thực hiện bãi bỏ hoàn toàn chế độ hạn ngạch (quota) đối với các sản phẩm
dệt may cho các nƣớc trong Tổ chức. Đồng thời, trong số các thành viên WTO có
một số quốc gia có năng lực phát triển và khả năng sản xuất cũng nhƣ sức cạnh
tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may rất cao so với Việt Nam (Trung Quốc, Ấn
Độ, Hàn Quốc, Thái Lan...); trong khi đó sức sản xuất, khả năng cạnh tranh, khả


năng quản lý, trình độ công nghệ... thậm chí cả tay nghề công nhân của ngành dệt
may Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần đƣợc tháo gỡ (ngay cả khi Việt Nam đã
trở thành thành viên của WTO). Nhƣ vậy, ở thời điểm hiện nay, ngành dệt may
Việt Nam đang đứng trước những khó khăn lớn nhất từ tham gia vào thị trường
xuất khẩu sản phẩm dệt may thế giới.
Nhận thức rõ vai trò trong xuất khẩu cũng nhƣ những thách thức đang đặt ra
cho ngành dệt may Việt Nam thời gian tới, Thủ tƣớng Chính phủ đã có quyết định
số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 04 năm 2001 "Phê duyệt chiến lƣợc phát triển
và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lƣợc phát triển ngành dệt may
Việt Nam đến năm 2010". Trong quyết định này, mục tiêu phát triển ngành dệt
may Việt Nam là: "Phát triển ngành dệt may Việt Nam thành một trong những


ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu..., tạo nhiều việc làm cho xã
hội, nâng cao năng lực cạnh tranh...". Quyết định này thể hiện rõ chủ trƣơng,
đƣờng lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đối với đẩy mạnh phát triển ngành
công nghiệp dệt may cũng nhƣ định hƣớng sản xuất hƣớng tới xuất khẩu cho
ngành này.
Vậy, để triển khai thực hiện những chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Chính
phủ (nâng gấp đôi kim ngạch xuất nhập khẩu - 8 đến 9 tỷ USD vào năm 2010; 75%
nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu là sản phẩm nội địa...), và
xuất phát từ các yêu cầu thực tiễn nêu trên, ngành dệt may Việt Nam sẽ phải triển
khai đồng bộ một hệ thống các giải pháp để có thể giữ vững và mở rộng thị trƣờng
xuất khẩu sau khi các quốc gia WTO bãi bỏ chế độ hạn ngạch đối với sản phẩm dệt
may (01/01/2005) và sau khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO?... Một
trong những đòi hỏi quan trọng đặt ra là cần xem xét, đánh giá thực trạng khả năng
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam, đề xuất các giải pháp khắc
phục khó khăn, khai thác lợi thế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
sản phẩm dệt may Việt Nam.
Vì thế, đề tài: “Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt

Nam” là một đòi hỏi bức bách của thực tiễn hiện nay và trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu:
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam là một vấn
đề đƣợc các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan và nhiều nhà kinh tế trong
nƣớc và quốc tế quan tâm. Những năm gần đây đã có những công trình nghiên cứu
và một số tài liệu đƣợc ấn hành liên quan đến vấn đề này, nhƣ:
- Dự án JICA-NEU, 2001 "Tổng hợp kết quả điều tra, tìm hiểu về tình hình
và chính sách phát triển công nghiệp dệt may Việt Nam".
- Dự án JICA-NEU, 2001 "Công nghiệp dệt may Việt Nam: Chính sách phát
triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".
- Tổng công ty Dệt may Việt Nam, 2000: "Chiến lƣợc "tăng tốc" phát triển
ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010".


- Hitoshi Sakai - Viện nghiên cứu Nomura, 2000: "Định hƣớng cho kế hoạch
phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới năm 2020".
- Hall Hill, Đại học Quốc gia Australia 1998: "Công nghiệp dệt may Việt
Nam những thành công, những thách thức trong tƣơng lai".
Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.
- TS Thân Danh Phúc, Nguyễn Anh Tuấn (Đại học Thƣơng mại) Nhân tố
Trung Quốc với chiến lƣợc phát triển thị trƣờng nội địa ngành dệt may (Tạp chí
Công nghiệp 7/2003).
- Hiệp hội các Nghiệp đoàn tự do (ICFTU), 2004: "Dệt may Bangladesh "lách
khe cửa hẹp""- New York Times (12/2004).
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực
tiễn quan trọng về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam,
nhƣng về cơ bản, các giải pháp, chính sách đƣa ra nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam đã gặp phải những hạn chế nhất
định do hoàn cảnh, điều kiện và thời điểm nghiên cứu; hoặc những giải pháp này
chỉ mang tính chất đối sách, thậm chí chỉ mang tính đơn lẻ cho mỗi doanh nghiệp.

Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam hiện nay vẫn là
một vấn đề cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của Luận văn là đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu
của sản phẩm dệt may Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm này trong thời gian tới.
Mục đích này đƣợc triển khai thông qua một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
là:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh, tiêu chí đánh giá năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm và kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.


Đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm
dệt may Việt Nam.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Dƣới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam và chỉ đề cập đến những giải pháp, chính sách vĩ mô cho toàn ngành;
không đi sâu vào những vấn đề có tính tác nghiệp trong hoạch định chính sách
cũng nhƣ trong việc tổ chức thực thi chính sách đối với từng doanh nghiệp dệt may
riêng lẻ.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động sản xuất và
xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam năm 1995 đến nay (năm đánh dấu
những chuyển biến lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là quan hệ thƣơng
mại quốc tế của Việt Nam).

Về không gian: Ngành dệt may ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính trị,
nhƣ: Phƣơng pháp Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp cụ thể, nhƣ: Tổng kết thực
tiễn, kinh nghiệm; phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, phân tích dự báo…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu
của sản phẩm dệt may Việt Nam từ năm 1995 đến nay, để từ đó thấy đƣợc những
mặt còn tồn tại, hạn chế trong thời gian qua và một số vấn đề đặt ra trong thời gian
tới.


- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của Luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế về
nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.
Chương 2: Thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam
trong thời gian tới.


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CẠNH TRANH VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY

Cạnh tranh là một hiện tƣợng vốn có của Kinh tế thị trƣờng - mô thức kinh tế
mà mọi quốc gia muốn phát triển đều cần trải qua. Nhƣ vậy, có thể khẳng định
cạnh tranh là một hiện tƣợng mà mọi quốc gia, dân tộc trên con đƣờng phát triển
đều phải chấp nhận, nhận thức đúng về nó. Có nhiều cách tiếp cận, nhận thức về
cạnh tranh; khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, cấp độ cạnh tranh; các
yếu tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh cũng nhƣ hệ thống các tiêu chí đánh giá
năng lực cạnh tranh...
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Một số khái niệm.
- Cạnh tranh.
Khái niệm về cạnh tranh đã đƣợc các nhà nghiên cứu kinh tế của các trƣờng
phái kinh tế khác nhau nghiên cứu, xem xét và phân tích dƣới nhiều góc độ, cấp độ
khác nhau. Các nhà nghiên cứu kinh tế Tƣ sản Cổ điển cho rằng: "Cạnh tranh là
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng;... nó mang lại cho mỗi thành viên
trong thị trƣờng một phần xứng đáng so với khả năng của mình...". Theo C.Mác,
"cạnh tranh Tƣ bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tƣ bản
nhằm giành đƣợc những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để
thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch...".
Trong nền kinh tế thị trƣờng, thuật ngữ cạnh tranh đƣợc dùng để chỉ cuộc đấu
tranh quyết liệt, sống còn giữa các nhà sản xuất, cung cấp các chủng loại hàng hóa,
dịch vụ với nhau; không phân biệt hình thức sở hữu về tƣ liệu sản xuất (nhà nƣớc,
tập thể hay tƣ nhân...) với mục đích cuối cùng của cạnh tranh là giành lấy phần
thuận lợi hơn cho mình.


Theo từ điển Cornu (Pháp), cạnh tranh đƣợc hiểu là "Chạy đua trong kinh tế;

hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng
hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi
bên, thể hiện qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để bị mất đi một lƣợng khách hàng
thƣờng xuyên".
"Chạy đua trên một thị trƣờng mà cấu trúc và sự vận hành của thị trƣờng đó
đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung cấp với
bên kia là những ngƣời sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ; các hàng
hóa, dịch vụ này đƣợc tự do tiếp cận trong điều kiện các điều kiện kinh doanh
không phải là hệ quả của áp lực hoặc ƣu đãi do pháp luật mang lại".
Khái niệm về cạnh tranh đƣợc đề cập đến trong Đại từ điển Kinh tế Thị
trƣờng (Trung Quốc) với thuật ngữ "cạnh tranh hữu hiệu", "cạnh tranh có hiệu
quả", "cạnh tranh giá cả", "cạnh tranh phi giá cả" và "cạnh tranh tiềm tàng".
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh đƣợc định nghĩa là sự "tranh đua
giữa các cá nhân, tập thể có chức năng nhƣ nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng
về mình"; "cạnh tranh quốc tế" đƣợc hiểu là "cạnh tranh giành nguồn nguyên liệu
và thị trƣờng tiêu thụ của sản phẩm trên thế giới". Cũng về khái niệm này, Từ điển
Thuật ngữ Kinh tế cho rằng: "cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân,
tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng
giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành đƣợc". Vì mục tiêu lợi nhuận,
các nhà sản xuất nhất thiết phải chiến thắng trong cạnh tranh hoặc chí ít là cùng
phân chia một thị trƣờng có giới hạn với các đối thủ cạnh tranh của mình. Nhƣ vậy,
rõ ràng là bản chất của cạnh tranh là nhằm tới tối ƣu hóa đầu vào (hạ thấp tối đa
chi phí sản xuất) và tối đa hoá đầu ra (thu lợi nhuận cao nhất có thể). Một số nhà
nghiên cứu kinh tế Việt Nam quan niệm rằng: Cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về
giá cả hàng hóa, dịch vụ và đó là con đƣờng, phƣơng thức để giành lợi nhuận cao
cho các chủ thể kinh tế...


Tóm lại, còn có nhiều nhìn nhận chƣa thật sự thống nhất về khái niệm cạnh
tranh, song, xét về bản chất của nó thì cạnh tranh luôn đƣợc phân tích, nhìn nhận,

đánh giá trong trạng thái động và đƣợc ràng buộc trong mối quan hệ so sánh một
cách tƣơng đối. Theo cách nhìn nhận đó thì mọi nỗ lực mà các bên tham gia nhằm
tìm kiếm, dành giật những lợi thế về mình đều đƣợc thống nhất diễn tả trong các
khái niệm khác nhau về cạnh tranh. Cạnh tranh bao hàm hai mặt: Tích cực và tiêu
cực. Về mặt tích cực thì cạnh tranh đã tạo động lực để các chủ thể vƣơn tới, đạt tới
trạng thái tiến bộ hơn (năng suất cao hơn, mẫu mã đẹp hơn, chất lƣợng tốt hơn...)
nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất có thể. Tuy nhiên, nếu cạnh tranh đƣợc tiến hành
bằng các động thái tiêu cực thì sẽ trở nên kìm hãm sự hình thành và phát triển cái
mới, mang lại một thực trạng cực đoan hơn và kết quả lại trái ngƣợc so với tích
cực. Ngày nay, khái niệm cạnh tranh đang ngày càng trở nên phổ biến và đƣợc
nhìn nhận dƣới khía cạnh tích cực nhiều hơn. Mặc dù đã nói tới cạnh tranh là có
ngƣời thắng, kẻ bại và mục đích kích thích sự phát triển không phải là mục tiêu của
các bên tham gia cạnh tranh song bản thân nó đã thúc đẩy sự phát triển của nền sản
xuất xã hội.
- Năng lực cạnh tranh.
"Năng lực" đƣợc định nghĩa trong Đại Từ điển Tiếng Việt là: "Những điều
kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì" hay "khả năng đủ để thực hiện tốt một
công việc". Cũng trong tài liệu này, "năng lực cạnh tranh" đƣợc hiểu là: "Khả năng
giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên cùng một
thị trƣờng tiêu thụ". Một số nhà nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh tranh chỉ có ý
nghĩa trong quan hệ thƣơng mại và nó đƣợc mô tả qua các chỉ số đánh giá khác
nhau. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác lại xem năng lực cạnh tranh bao
gồm cả các điều kiện để triển khai hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tới
điểm cuối cùng của quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ, là đảm bảo nâng cao
mức sống cho ngƣời dân. Ở Việt Nam, trong quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu


kinh tế, năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh đƣợc đề cập đến dƣới nhiều
góc độ; sử dụng nhiều thuật ngữ để diễn tả khác nhau.
Fafchamps cho rằng, khả năng cạnh tranh chính là khả năng của một doanh

nghiệp có thể sản xuất ra một sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá
của sản phẩm ấy trên thị trƣờng. Theo đó, các doanh nghiệp có đủ điều kiện và khả
năng sản xuất ra sản phẩm có chất lƣợng tƣơng tự với doanh nghiệp khác nhƣng chi
phí thấp hơn thì đƣợc đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao hơn. Trong khi Randall
cho rằng khả năng cạnh tranh chính là khả năng giành đƣợc và duy trì thị phần trên
thị trƣờng với lợi nhuận nhất định thì Dunning lại đứng trên quan điểm vể khả năng
cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để nhìn nhận về năng lực cạnh tranh khi
ông nêu ra: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp
trên các thị trƣờng khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh
nghiệp đó... Nhìn chung, hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng: Năng
lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất
sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trƣờng và duy trì đƣợc mức độ thu nhập thực tế
của mình.
Tuy xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận, đánh giá và xem xét
song các quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh đều
liên quan đến hai khía cạnh là khả năng chiếm lĩnh thị trƣờng và có lợi nhuận. Từ
đó, chúng ta có thể lột tả bản chất khái niệm năng lực cạnh tranh. Đó là khả năng có
thể nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận đƣợc.
1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh
tranh.
- Cạnh tranh quốc gia.
Cạnh tranh ở cấp quốc gia đƣợc đánh giá chính là năng lực cạnh tranh của nó
và bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành từ các yếu tố vĩ mô đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp hoạt động trên quốc gia đó cũng nhƣ khả năng cạnh tranh


của các sản phẩm, dịch vụ có xuất xứ từ quốc gia đó trên thị trƣờng quốc tế. Theo
đó, năng lực cạnh tranh quốc gia đƣợc định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế
đạt đƣợc tăng trƣởng bền vững, thu hút đƣợc đầu tƣ, đảm bảo ổn định kinh tế, xã
hội và nâng cao đời sống của ngƣời dân. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã đƣa

ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh quốc gia là "khả năng đạt và duy trì đƣợc mức
tăng trƣởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tƣơng đối và các đặc
trƣng kinh tế khác". WEF cũng đƣa ra tám nhóm yếu tố (bao gồm hơn 200 chỉ số)
để xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một quốc gia (trọng số của mỗi nhóm
chỉ số có sự thay đổi nhất định qua các thời kỳ). Tám nhóm chỉ số đó là: (1) Độ mở
của nền kinh tế; (2) Các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của Chính phủ;
(3) Các yếu tố về tài chính; (4) Các yếu tố về công nghệ; (5) Các yếu tố về kết cấu
hạ tầng; (6) Quản trị; (7) Các yếu tố về lao động; (8) Và các yếu tố về thể chế.
Theo M.Porter "chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về năng
lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là nhân tố xác định cơ bản cho việc nâng cao
sức sống của một quốc gia xét về dài hạn". Cũng theo ông, chỉ số năng suất đến
lƣợt mình lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của các công ty.
Do vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia lại phụ thuộc vào các yếu tố trong nền kinh
tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho phép các công ty sáng tạo và duy trì lợi thế
cạnh tranh trong một lĩnh vực cụ thể. Ông đƣa ra bốn nhóm các yếu tố tác động tới
năng lực cạnh tranh quốc gia là: (1) Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất
(nguồn lao động, tay nghề lao động, tài nguyên, vốn, tiềm năng về khoa học - công
nghệ, hạ tầng cơ sở...). (2) Nhóm các điều kiện về cầu phản ánh bản chất của nhu
cầu thị trƣờng trong nƣớc đối với sản phẩm, dịch vụ của một ngành. (3) Nhóm các
yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả năng cạnh tranh quốc
tế. (4) Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lƣợc của công ty và của các
đối thủ cạnh tranh.


Với các đánh giá nhƣ vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ số luôn
đƣợc các nhà đầu tƣ quốc tế quan tâm, xem xét trong quá trình lựa chọn địa điểm,
lĩnh vực đầu tƣ. Hơn thế nữa, bản xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia còn có có
ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ cũng nhƣ doanh nghiệp...
- Cạnh tranh ngành.
Năng lực cạnh tranh của ngành đƣợc định nghĩa là khả năng bù đắp chi phí,

duy trì lợi nhuận và đƣợc đo bằng thị phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành đó
cung cấp trên thị trƣờng. Theo M.Porter, các yếu tố sau ảnh hƣởng đến khả năng
cạnh tranh của một ngành là:
(1) Những yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản
xuất, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh; bao gồm
các yếu tố sản xuất cơ bản (khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và các yếu
tố sản xuất mới (cơ sở hạ tầng, thông tin, trình độ lao động, khả năng nghiên cứu
phát triển, bí quyết công nghệ...). Các yếu tố sản xuất cơ bản quyết định rất lớn đến
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành song các yếu tố sản xuất
mới còn quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh để nâng cao năng lực
cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp cũng nhƣ toàn ngành. Không giống nhƣ yếu tố
sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới có đƣợc thông qua đầu tƣ của chính phủ,
các ngành, các công ty.... Bên cạnh đó, những yếu tố sản xuất cơ bản thì mọi công
ty đều có thể sở hữu và do đó rất khó tạo nên lợi thế cạnh tranh trong dài hạn; trong
khi đó, những yếu tố sản xuất mới cần phải đƣợc đầu tƣ và duy trì thế mạnh nếu
muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong dài hạn (vì chúng khó có thể sao chép, rập
khuôn).
(2) Điều kiện của cầu: Các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất luôn phải
cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế khác. Các sản phẩm thay
thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngƣỡng tối đa
cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khả năng


lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngƣỡng chặn trên
đối với lợi nhuận của ngành càng cứng nhắc. Ngƣời mua tranh đua với ngành bằng
cách bắt ép giá giảm xuống, chất lƣợng và các dịch vụ tốt hơn; làm cho các đối thủ
cạnh tranh chống lại nhau. Điều đó buộc các doanh nghiệp trong ngành phải coi
các yêu cầu của khách hàng là trên hết và phải tìm mọi cách để đáp ứng tối đa có
thể nhu cầu của họ thì mới thu đƣợc lợi nhuận. Vì vậy, nhu cầu đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh

nghiệp và toàn ngành. Có thể khẳng định rằng, đặc tính của cầu giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc hình thành các đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực
để nâng cao chất lƣợng, gia tăng giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới.
(3) Các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ: Với mỗi ngành sản xuất, sự
hình thành và phát triển cũng nhƣ năng lực cạnh tranh của nó luôn có sự phụ thuộc
rất lớn vào các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ; không có ngành nào phát
triển một cách độc lập, riêng biệt hoàn toàn (nông nghiệp phụ thuộc vào các ngành
sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật...; công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự
phát triển của các ngành nhƣ: nguồn nguyên, nhiên liệu, công nghiệp chế tạo máy
móc...). Nếu những ngành liên quan và phụ trợ này phát triển mạnh mẽ thì sự phát
triển của ngành cũng thuận lợi; khả năng cạnh tranh mới cao; nếu ngƣợc lại sẽ có
tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh cũng nhƣ sự phát triển của ngành. Nhƣ
vậy, sự phát triển của một ngành còn bị tác động của rất nhiều ngành khác; giữa
các ngành có sự liên quan tới nhau, sản phẩm của ngành này là yếu tố đầu vào của
ngành kia và ngƣợc lại.



×