Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp CNH hđh ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.99 KB, 28 trang )

A. Giới thiệu vấn đề
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nớc ta có sự thay đổi và đạt
đợc nhiều thành tựu to lớn. Để đạt đợc những thành tựu ấy chúng ta không
thể quên đợc bớc ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nớc,
mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm
thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nớc.
Đối với nớc ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nớc phát triển thì tất
yếu phải đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xây
dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn
minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã
hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta.
Đề tài: "Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam" là một nội dung
phức tạp và rộng. Do trình độ có hạn, nên không tránh khỏi khiếm khuyết
trong việc nghiên cứu. Rất mong nhận đợc đóng góp ý kiến của thầy cô và
các bạn để bài viết này đợc hoàn thiện hơn.
B. Giải quyết vấn đề
I. Hình thái kinh tế xã hội Mác - Lênin.

Mọi ngời đều biết, trong lịch sử t tởng nhân loại trớc Mác đã có không
ít cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tởng khác nhau mà có sự phân
chia lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng hạn nh
là triết học duy tâm Hê - ghen (1770 - 1831) phân chia lịch sử xã hội loài
ngời thành ba thời kỳ chủ yếu, thời kỳ phơng Đông, thời kỳ cổ đại và thời


kỳ Gree -ma - ni. Nhà xã hội chủ nghĩa không tởng Pháp Phu - ri - ê (1772 1837) chia lịch sử xã hội thành bốn: giai đoạn mông muội, gian đoạn dã
man, giai đoạn gia trởng, giai đoạn văn minh.

1


Mọi ngời cũng đã quen với khái niêm thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng,
thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nớc... và gần đây là các nền văn minh:
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận trên có những điểm hợp lý nhất định, và do đó đều
có ý nghĩa nhất định, nhng cha nói nên bản chất sự phát triển của xã hội
một cách toàn diện, tổng thể, do đó mà có những hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiệp cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch
sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật
để nghiên cứu lịch sử xã hội, đa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình
thành nên học thuyết "hình thái kinh tế xã hội". Hình thái kinh tế - xã hội
là một khái niệm chủ nghía duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn nhất định. Với một điều quan hệ sản xuất đặc trng cho xã hội đó phù
hợp với một trình độ nhất định củalực lợng sản xuất và một kiến trúc thợng
tầng tơng ứng đợc xây dựng trên những quan hệ sản xuât ấy.
Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận hình
thái kinh tế - xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến thức thợng tầng,
tức toàn bộ các yếu tố cấu trúc thành bộ mặt của thời đại: Chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật... Do đó, nó cắt nghĩa xã hội đợc sáng tỏ
hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội mới với t cách là "Hòn đá tảng" của
xã hội học Mác xít nói chung cho phép chúng ta hình dung quá trình phát
triển của lịch sử là một quá trình lịch sử tự nhiên. Loài ngời đã trải qua năm
hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến cao đó là. Hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiến hữu nô lệ, phong kiến, t bản chủ

nghĩa và ngày nay đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
phong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội chế độ xã hội mới
cao hơn sẽ thay thế. Đó là khi phơng thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời,
hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất
quá lơn không thể phù hợp thì phơng thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và
xuất hiện một phơng thức sản xuất mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lợng sản xuất.
Nh vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ
biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất.

2


Để hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất ta phải nắm đợc thế nào là quan hệ sản xuất và lực lợng sản
xuất.
1. Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lợng sản xuất là mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên, là biểu
hiện trình độ trình phục tự nhiên của con ngời trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa t liệu sản xuất
(quan hệ nhất là công cụ lao động) với ngời lao động với kinh nghiệm và kỹ
năng lao động nghề nghiệp. Lực lợng sản xuất đóng vai trò quyết định phơng thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa ngời với ngời sản xuất vật chất
thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý
trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan
hệ sản xuất quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan
hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con ngời tạo ra. Song nó đợc hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào yếu tổ chủ quan của con ngời. Quan hệ

sản xuất mang tính ổn định tơng đối với bản chất xã hội và tính phơng pháp
đa dạng trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất có mối quan hệ biện chứng
vơi nhau biểu hiển ở chỗ.
Xu hớng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lợng
sản xuất mà trớc hết là công cụ.
Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ
sản xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lợng sản xuất
(phù hợp) nhng do mâu thuẫn của lực lợng sản xuất (đông) với quan hệ sản
xuất (ổn định tơng đối) quan hệ sản xuất lại trở thành xiềng xích kìm hãm
sự phát triển của lực lợng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp là không phù
hợp là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng củalực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn bao hàm mâu thuẫn. Khi phù hợp
cũng nh nếu không phù hợp với lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất luôn có
tính độc lập tơng đối với lực lợng sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác
động trở lại đối với lực lợng sản xuất, quy định múc đích xã hội của sản
3


xuất, xu hớng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố
tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Sự tác động
trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật
kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. Phù hợp và không phù
hợp giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến
của mọi phơng thức sản xuất.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất
nh sự thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội.

Trong "Hệ t tởng Đức" (1846) lần đầu tiên Mác - Anghen đã hình dung sự
thống nhất đó là một "Quan hệ song trùng", giữa hai "Sự trao đổi chất" tất
yếu và phổ biến ở mọi nền sản xuất - xã hội đó là "trao đổi chất giữa ngời
với tự nhiên (lực lợng sản xuất) và giữa ngời (quan hệ sản xuất)".
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản
xuất đợc Mác - Anghen khái quát thành quya luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất và trình độ, tính chất của lực lợng sản xuất.
Đây là một trong những quy luật cơ bản của đời sống xã hội.
luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.

Quy

Tính chất phát triển của lực lợng sản xuất là tính chất của t liệu lao
động. Khi công cụ lao động sản xuất đợc sử dụng bời từng cá nhân riêng
biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của
nhiều ngời thì lực lợng sản xuất có tính cá thể, công cụ sản xuất đợc nhiều
ngời sử dụng (máy móc thiết bị hệ thống công nghệ hiện đại...) để sản
phẩm sản phẩm thì lực lợng sản xuất mang tính chất xã hội.
Trình độ của lực lợng sản xuất đợc thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện
đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và kỹ năng, kỹ
xảo của ngời lao động, trình độ phân công lao động xã hội tổ chức quản lý
sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Trình
độ phân công lao động và chuyên môn hoá và thớc đo trình độ của phát
triển lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của
quan hệ sản xuất. Một câu của Mác trong các tác phẩm Sự Khốn cùng của
Triết học:"Cái cối xay quay bằng tay cho xã hội có lãnh Chúa phong kiến,
cái cối xay chạy bằng hơi nớc cho xã hội có nhà T Bản". Để nâng cao hiệu
quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng của con ngời không ngừng

tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ, tri thức khoa học, trình độ

4


chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của ngời lao động cũng ngày càng
phát triển. Yếu tố năng động này của lực lợng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản
xuất phải thích ứng với môi trờng. Lực lợng sản xuất quyết định sự hình
thành và biên đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất
và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm
thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lợng sản xuất, mâu thuẫn của chúng
tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là giai cấp là
mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lợng sản xuất, loài
ngời đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng
xã hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
VD: Do công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá thô sơ, trình độ hiểu biết
hạn hẹp, để duy trì sự sống, chống lại mọi tai hoạ của thiên nhiên, con ngời
phải lao động theo cộng đồng, do vậy đã hình thành quan hệ sản xuất cộng
sản nguyên thuỷ. Công cụ bằng kim loại ra đời thay thế cho công cụ bằng
đá, lực lợng sản xuất phát triển năng suất lao động nâng cao sản phẩm
thặng d xuất hiện, chế độ chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản xuất t hữu
đầu tiên ra đời. Sau đó do các cỡng bức tàn bạo trực tiếp của chủ nô với nô
lệ đã đẩy đến mâu thuẫn gay gắt giữa họ, quan hệ sản xuất phong kiến thay
thế quan hệ chiếm hữu nô lệ.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến ở các nớc Tây Âu lực
lợng sản xuất đã mang những yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất
phong kiến. Mặc dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến đợc
thay đổi liên tục từ địa tô lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song
quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp vẫn không chứa đựng đợc nội dung

mới của lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất của T bản chủ nghĩa ra đời
thay thế quan hệ sản xuất phong kiến. Trong lòng nền sản xuất t bản, lực lợng sản xuất phát triển, cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội
hoá công cụ sản xuất đã hình thành lao động chung của ngời dân có tri thức
và trình độ chuyên môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lợng sản xuất dẫn
đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa. Giải quyết
mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất t nhân t bản chủ nghĩa,
xác lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo
Mác, do có đợc những lực lợng sản xuất mới, loài ngời thay đổi phát triển
sản xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn của mình,
loài ngời thay đổi các quan hệ sản xuất của mình.

5


Mặc dù bị chi phối bởi lực lợng sản xuất nhng với tính cách là hình
thức quan hệ xã hội sản xuất củng cố những tác động nhất định trở lại đối
với lực lợng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy, định hớng và tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát triển ngợc lại, nếu lạc hậu
hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất hay chỉ là
tạm thời so với tất yếu khách quan của cuộc sống nhng quan hệ sản xuất sẽ
là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của quan
hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất.
Quan hệ sản xuất phải tạo đợc điều kiện sản xuất và kết hợp với tối u
giữa t liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở
rộng.
Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh
thần với ngời lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và

trình độ của ngời sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác
động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao
của các phơng thức sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế - xã hội.
Dới những hình thức và mức độ khác nhau thì con ngời có ý thức đợc hay
không và quy luật cốt lõi này nh sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá
của lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh
tế, phi kinh tế.
2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng mỗi hình thái kinh tế - xã
hội
Không chỉ đặc trng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc chng bởi
một kiến trúc thợng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuất của chính
nó.
Kiến trúc thợng tầng là toàn bộ những t tởng xã hội, những thiết chế tơng ứng và những quan hệ nội tạng của thợng tầng, đó là những quan điểm
t tởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các
thể chế tơng ứng nh Nhà nớc Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể quần
chúng.

6


Kiến trúc thợng tầng đợc hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan
hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định ngời
ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống
trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn d và những quan hệ sản
xuất mới là quan hệ mầm mống của xã hội sau.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế
khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ
sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi
phối các thành phần kinh tế khác. ở xã hội có giai cấp đối kháng giai cấp

này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó
chính là cơ sở nẩy sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc thợng tầng, giai
cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị
về mặt t tởng đối với xã hội, trong đó hệ t tởng chính trị và bộ máy quản lý
nhà nớc có vị trí quan trọng nhất.
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng. Vai trò quyết định của
cơ sở hạ tầng với kiến trúc thợng tầng đợc thể hiện ở một số mặt:
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thợng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí
thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất
cả các lĩnh vực khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thợng tầng tơng ứng. Mâu thuẫn giai cấp mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và
đời sống tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn
kinh tế, từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay
đổi về kiến trúc thợng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái
kinh tế xã hội cũng nh khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh
tế xã hội khác trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng đợc biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng đợc biểu hiện là mâu thuẫn của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ
tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thợng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó
là kiến trúc thợng tầng mới đợc hình thành từng bớc thích ứng với cơ sở hạ
tầng mới.

7


Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay
bằng hệ t tởng thống trị khác và các thể chế tơng ứng của giai cấp thống trị
mới. Đơng nhiên không phải "khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn
đến sự thay đổi của kiến trúc thợng tầng". Trong quá trình hình thành và

phát triển củ kiến trúc thợng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến trúc thợng
tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai
cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọn một số bộ phận hợp lí để sử dụng nó
xây dựng xã hội mới.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đên sự biên đổi về kiến trúc thợng
tầng là một quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thờng trong xã hội có đối
kháng giai cấp, tính chất phức tạp ấy đợc thể hiện qua các cuộc đấu tranh
giai cấp. Tính chất này đợc bộc lộ rõ nét nhất phơng thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa (giai đoạn thấp nhất là xã hội chủ nghĩa) giai cấp cách mạng phải
thực hiện cuộc đấu tranh lật đổ kiến trúc thợng tầng cũ thiết lập hệ thống
chuyên chính của mình, sử dụng nó nh là một công cụ từng bớc đấu tranh
cải tạo định hớng xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng mới, đồng thời với
việc xác lập, củng cố và xây dựng kiến trúc thợng tầng tơng ứng. Đó là quá
trình đấu tranh lâu dài trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
b) Tính độc lập tơng đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thợng
tầng với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thợng tầng không phải phụ thuộc một chiều
vào cơ sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển, chúng có những tác động
qua lại với nhau và ảnh hởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng nh các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội.
Vai trò của kiến trúc thợng tầng đối với cơ sở hạ tầng đợc thể hiện trên
các mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thợng tầng là thực hiện nhiệm
vụ đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng cũ, xây dựng bảo
vệ củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thợng tầng chính là
công cụ của giai cấp thống trị, các bộ phận khác của kiến trúc thợng tầng
cũng có tác dụng mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhng thờng những

8



tác động ấy phải thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay các thể
chế tơng ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thợng tầng không giảm
đi, mà ngợc lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Ví dụ: ở
các nớc t bản, một mặt giai cấp t sản đẩy mạnh chạy đua vũ trang tạo thế áp
đảo quân sự mặt khác ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào quản
lý kinh tế, xã hội phân hoá đội ngũ công nhân, lôi kéo một bộ phận trí thức
công nhân kỹ thuật lành nghề tham gia vào việc phân chia lợi nhuận dới
hình thức các Công ty cổ phần.
Trái lại kiến trúc thợng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã
hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới, chính mục đích đó quyết định
tính tích cực càng tăng của kiến trúc thợng tầng của xã hội chủ nghĩa.
Tác động của kiến trúc thợng tầng đến cơ sở hạ tầng đợc thể hiện trong
hai trờng hợp trái ngợc nhau nếu kiến trúc thợng tầng phù hợp với quan hệ
kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngợc lại nếu kiến trúc
thợng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của kinh tế xã hội, những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời
sớm muộn cũng sẽ bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở
hạ tầng và cơ sở thợng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong
đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế và có tác dụng mạnh mẽ trở lại. Cần tránh khuynh hớng quá thổi
phồng hoặc hạ thấp vai trò của kiến trúc thợng tầng. nếu tuyệt đối hoá vai
trò của kiến trúc thợng tầng thì sẽ rơi vào tả khuynh còn ngợc lại sẽ rơi vào
hữu khuynh.
II. Sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam

Dựa trên cơ sở những lý luận chung trên đây, phần tiếp theo của đề tài
xin phép đợc đi sâu vào vấn đề "hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp công

nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam". Tính tất yếu của mục tiêu và thực
trạng ở nớc ta trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội - xã hội
chủ nghĩa.
1. Tính tất yếu
Loài ngời đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau tiến
bộ hơn, văn minh hơn hình thái trớc.

9


Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên (cộng sản nguyên thuỷ) con ngời
chỉ biết săn bắn hái lợm, ăn thức ăn sống cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn
toàn vào thiên nhiên, họ cha biết chăn nuôi, trồng trọt, cha biết tích luỹ thức
ăn. Họ cùng làm cùng hởng sống theo chế độ quần hôn. Có thể nói đây là
thời kỳ sơ khai một thời kỳ mông muội của loài ngời. Sau đó đến hình thái
kinh tế xã hội: Chiếm hữu nô lệ con ngời đã văn minh hơn họ không còn ăn
tơi sống và đã biết lao động tạo ra của cải, xã hội chế độ t hữu. Xã hội bắt
đầu phân chia thành kẻ giầu ngời nghèo, thay thế chế độ quần hôn bằng chế
độ hôn nhân một vợ một chồng.
Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai cấp đó là
quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con ngời. Nô lệ biến thành
công cụ lao động. Vấn đề giai cấp khi lên đến xã hội phong kiến bản chất
vẫn là quan hệ bóc lột những sự bóc lột thể hiện qua sự cống nạp. Ngời
nông dân, tá điền phải làm thuê và nộp tô thuế cho quan lại, địa chủ, song
họ có một chút quyền lợi là đợc tự do.
Hình thái kinh tế xã hội: T bản chủ nghĩa ra đời đa loài ngời lên nấc
thang cao hơn của nền văn minh. Xã hội đã phong phú hơn về giai cấp. Giai
cấp thống trị là giai cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn rất
nhiều lần so với sự bóc lột trớc đó trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và
phong kiến. Ngời công nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị

thặng d, sự làm việc quá sức... Mặc dù t bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lợng của cải vật chất rất lớn cho xã hội, nhng bản chất bóc lột cùng những
mâu thuẫn khác là không thể điều hoà. Phần đông con ngời trong xã hội t
bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi mất bình đẳng. Cả ba chế độ nô lệ,
phong kiến, t bản chủ nghĩa có những đặc điểm riêng nhng nó đều là chế độ
có khác những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc
lột và giai cấp bị bóc lột, và dựa trên sự t hữu về sản xuất. Giai cấp bóc lột
là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã hội đều chỉ
phục vụ cho quyền lợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại đợc thì nó phải có những mặt tốt
nhất định của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà
các hình thái kinh tế xã hội nói trên đã đạt đợc. Xã hội cộng sản nguyên
thuỷ là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài ngời.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho
xã hội, quan trọng nhất là nó đa con ngời ra khỏi thời kỳ mông muội hoang
dã. Xã hội phong kiến là bớc trung gian để loài ngời chuyển sang một nền
văn minh mới nó hình thành những tiền đề tốt cho sự ra đời của xã hội t bản

10


chủ nghĩa. Nền sản xuất t bản chủ nghĩa không chỉ còn là sản xuất nông
nghiệp, con ngời đã đợc tiếp cận với sản xuất công nghiệp với những thành
tựu khoa học kỹ thuật nó đã tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ lực
lợng sản xuất, nó tạo ra một khối lợng của cải vật chất cho nhân loại bằng
tất cả các xã hội trớc cộng lại.
Song một tấm huy chơng luôn có hai mặt của nó. Mặc dù các xã hội
nói trên đã đạt đợc những thành quả trong lịch sử phát triển loài ngời nh
những mặt trái của nó cùng những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà
giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Nền văn minh đảm bảo sự công
bằng cho xã hội.

Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bớc đầu vừa phát huy thừa kế
những thành quả của chủ nghĩa t bản, đồng thời khắc phục những mâu
thuẫn những hạn chế của t bản chủ nghĩa. Một xã hội mà quyền lực nằm
trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động - một tầng lớp đông đảo
của xã hội. Mọi hoạt động kinh tế - văn hoá - chính trị phục vụ lợi ích
chung của toàn xã hội. Không còn tình trạng bóc lột, mọi ngời đều bình
đẳng, sinh hoạt lao động dới sự quản lý của Nhà nớc thông qua pháp luật
thực hiện chế độ công hữu về t liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ
công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất đợc xây dựng trên cơ sở của lực lợng
sản xuất và trình độ phát triển cao cơ sở hạ tầng phù hợp với kiên trúc thợng
tầng.
Đây là hình thái kinh tế xã hội u việt một đỉnh cao của văn minh loài
ngời.
Từ hai con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội, một con đờng t bản chủ nghĩa
và con đờng đi từ tiến t bản chủ nghĩa.
Nhân loại đã chứng kiến nhà nớc, dân tộc do điều kiện lịch sử riêng
của mình đã bỏ qua 1, 2 giai đoạn lịch sử nào đó đển tiên lên giai đoạn lịch
sử cao hơn dới hình thức này hay hình thức khác tức là "rút ngắn và làm dịu
bớt những cơn đau đẻ". Việt Nam là một trong số những nớc đó.
Song Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi nghèo
nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nớc phát triển bằng con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nớc.
2. Mục đích:
Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay nh Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định là: Xây dựng nớc
11


ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu
kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển

của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng văn minh, và nớc ta đã
chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đây là những nhận định rất quan trọng đối với những bớc đi
tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới.
Thuộc phạm trù lực lợng sản xuất và vận động bên ngoài biện chứng
nội tại của phơng thức sản xuất vấn đề công nghiệp hoá ngày nay gắn chặt
với hiện đại hoá trớc hết phải đợc xem xét từ t duy triết học Mác xít chứ
không phải là từ t duy kinh tế hay t duy nào khác.
Công nghiệp hoá là một quá trình nhằm đa nớc ta từ một nền công
nghiệp lạc hậu thành một nớc công nghiệp hiện đại.
Hiện đại hoá là một mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại, thể hiện
xu hớng lịch sử tiến bộ và phát triển.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn, đòi hỏi phải đi từ cái cụ
thể đến cái tổng thể. Trớc hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hớng
trung của Việt Nam trình độ lực lợng sản xuất ở mức thấp, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội lại không phải từ chủ nghĩa t bản mà từ bớc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa t bản với t cách là một chế độ xã hội. Vì vậy
cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó
quy luật sản xuất phù hợp với tính chất trình độ lực lợng sản xuất là quy
luật cơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm
năng sản xuất. Phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế quốc doanh phải phát
triển mạnh mẽ và có hiệu quả để thực sự có tác dụng chủ đạo với các thành
phần kinh tế khác.
Chúng ta phải khắc phục quan niệm bỏ qua chủ nghĩa t bản một cách
giản đơn. Phải khai thác sử dụng tối đa chủ nghĩa t bản làm khâu "trung
gian" để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội nh Lênin đã chỉ ra.
Chủ trơng phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng
các hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nớc ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn. Đại hội VII của Đảng

cũng đã chỉ rõ "... phù hợp với sự phát triển lực lợng sản xuất thiết lập từng
bớc quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo

12


định hớng sản xuất chủ nghĩa tiên hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý
Nhà nớc". Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của kinh tế quốc doanh. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đó là một trong những phơng
hớng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nớc ta.
Từ chủ trơng đúng đắn đến chủ trơng đi vào đời sống là một bằng chứng.
Độ dài ngắn của bằng chứng này phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan. Trớc
hết là năng lực lãnh đạo. Tổ chức quản lý kinh tế xã hội của Đảng và Nhà
nớc.
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện đang đợc
coi là phơng hớng chủ đạo, phải trải qua của các nớc đang phát triển. Đối
với nớc ta, khi những t tởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh
tế đợc nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với t cách là cơ sở lý luận
của sự công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc, thì một mặt chúng ta phải đẩy
mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh
chóng tạo ra lực lợng sản xuất hiện đại cho chế độ xã hội mới bởi nớc ta là
một nớc nông nghiệp lạc hậu kinh tế kém phát triển quan hệ sản xuất mới
không thể thiết lập trên nền tảng của lực lợng cũ. ở đây công nghiệp hoá
thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội đó không
chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp bằng
nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về
công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trởng nhanh hiệu quả cao và lâu bền
của toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.

Hơn nữa sự vận dụng đúng đắn của các quy luật quan hệ sản xuất, phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất là cần
thiết. Bên cạnh đó từng bớc cơ sở xây dựng hạ tầng và cơ sở thợng tầng.
Đặc biệt là xây dựng Nhà nớc của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản xuất quản lý và phân phối theo
lao động.
3. Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam
Trớc đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nớc chúng
ta đã xác định công nghiệp hoá "là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội" song nớc ta vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận
thức về công nghiệp hoá.
Từ cuối những năm 70, đất nớc đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội
với những khó khăn gay gắt lạm phát phi mã (năm 1986 là 774,7%).

13


Khi đó do t duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có khoảng
cách quá xa t duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu,
bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn
đến tình trạng trì chệ trong công việc: ỷ lại lời nhác, phụ thuộc vào Nhà nớc. Không năng động sáng tạo bằng công tác đợc giao, không cần quan tâm
đến kết quả đạt đợc. Việc theo giờ giấc thậm chí đến muộn về sớm, không
có sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ cha nói đến việc làm ăn, làm hình thức
hiện tợng về tổ chức vô kỷ luật khá phổ biến. Kết quả dẫn đến trong công
tác hành chính thì bảo thủ, quan liêu do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy
quản lý điều hành không nhạy bén, nên từ trên xuống dới hoạt động không
thống nhất. Đặc biệt là ở địa phơng tình trạng lợi dụng cơ sở để mu lợi ích
cá nhân và lợi ích cục bộ (đục nớc béo cò).
Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lợng lạm phát càng
tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nớc đời sống xã hội thấp kém,

nghèo khó. Trớc đây chúng ta do không thấy đợc quy luật lực lợng sản xuất
phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngợc
lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát
triển của lực lợng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo
đúng quy luật, chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt
động trên cơ chế thị trờng làm cho năng suất lao động tăng, lực lợng sản
xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải
tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tơng
đối vì rằng ý thức có tính vợt trớc nên quan hệ sản xuất có khả năng vợt so
với sản lợng sản xuất vợt trớc ở đây là sự vợt trớc có tính phù hợp, vợt trớc
dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là
sự vợt trớc kiến trúc thợng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên
sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận khoa học logic.
Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã
tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Mặt khác quan
trọng hơn là do cha hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã hành động trái quy luật, đã không làm những việc phải làm, vận
dụng một cách dập khuôn máy móc, giáo điều mô hình kinh tế của ngời
khác, trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tởng tợng
chủ t tởng quan duy ý thức. Cả một thời gian dài chúng ta đã quá đề cao vai
trò của quan hệ sản xuất. Chúng ta đã không thấy rõ bớc đi có tính quy luật
trên con đờng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nên tiến hành ngay cuộc cải tạo xã
14


hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và bắt về thực chất là theo đờng
lối "đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa, đa quan hệ sản xuất đi trớc mở đờng cho
lực lợng sản xuất phát triển, thiết lập chế độ công hữu với thuần nhất dới hai

hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể" đây là một sai lầm làm sai quy
luật do đó mà ta cần có quan niệm cho đúng về quan hệ sở hữu và quan hệ
khác (quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) đồng nhất chế độ công hữu
với chủ nghĩa xã hội. Trong nhận thức chúng ta coi các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh là phi xã hội chủ nghĩa, bị ép buộc cải tạo một cách sống
sợng và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của nó. Kinh tế quốc doanh thì đợc thừa
nhận nên phát triển tràn lan, bất chấp điều kiện về vật chất trình độ quản lý
thấp kém hiện có.
Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn
kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên đợc. Nền kinh
tế tuy đạt đợc độ tăng trởng nhất định nhng sự tăng trởng đó không có phát
triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nớc ngoài. Con
ngời không đợc giải phóng và bị lầm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì
trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội.
Do t tởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi lên chủ nghĩa xã hội nên đã
mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng của các nguồn lực hiện có
và khả năng điều hành quản lý của các cấp ngành (1976 có 7000 xí nghiệp
đến 1986 có 12.000 xí nghiệp).
Trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp nớc ta nhiều năm lâm vào
khủng hoảng. Trớc đây do nóng vội, gợng ép và vi phạm nguyên tắc cơ bản
của HTX là "tự nguyện" mang tính chất cơng hữu, ồ ạt mọi ngời không làm
nghề gì cũng đều phải vào HTX. Mà quá trình hình thành nền tập thể này
lại cha đợc chuẩn bị kỹ, một mặt dựa vào kinh tế quốc dân, mặt khác lại dựa
vào bao cấp nên dẫn đến tình trạng vốn liếng nhỏ bé, trang bị đơn giản.
Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh kém.
Cụ thể là sản lợng gạo, lơng thực sản xuất ra không đủ để cung cấp
trong nớc đời sống ngời dân khổ cực. Hạt vừng hạt lạc trở nên hiếm hoi nên
thị trờng trên các chợ (do kế hoạch sản xuất tập trung của HTX, không
khuyến khích mà còn cấm đoán mà các hình thức xen canh gối vụ trên
đồng ruộng).

Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao
động vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, làm cho thị trờng rộng lớn của
nông thôn không phát triển và từ đó làm hãm các ngành khác phát triển. Về
xã hội sự lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn làm cho khoảng cách giàu
15


nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Đồng thời còn làm tăng
thêm các làn sóng di dân từ nông thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn
xã hội, ảnh hởng trật tự an ninh.
Đến khi áp dụng chính sách khoán đất cho nhân dân tự trồng trọt, phá
bỏ hợp tác thì nên Nhà nớc đã có những bớc chuyển mình rất rõ rệt. Lơng
thực bình quân năm từ 13,3 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980, lên 17,6 triệu
tấn trong thời kỳ 1981-1988 và 22,7 triệu tấn 1989-1993. Năm 1993 lơng
thực đạt gần 25 triệu tấn gần bằng mức đề ra cho 1995, đảm bảo cho nhu
cầu trong nớc đã có dự trữ và xuất khẩu. Trong 3 năm gần đây bình quân
năm xuất khẩu đợc 1,6 triệu tấn. Có lợng xuất khẩu thức ăn sau dầu mỏ. Nớc ta từ một nớc thiếu lơng thực đã vơn lên đứng thứ 3 trên thế giới về xuất
khẩu gạo. Nhà nớc phát triển thúc đẩy sự phát triển trong các ngành cơ bản
quen nh công nghiệp, thơng mại dịch vụ.
Sản lợng lơng thực năm 1993 là 24,5 triệu tấn vợt mức dự tính (23
triệu tấn/95) với khoảng 7 triệu tấn lơng thực hàng hoá sản lợng thịt hơi 1
triệu tấn, sữa tơi 15 nghìn tấn.
Trong công nghiệp.
Trong lựa chọn bớc đi, đã có lúc chúng thiên về "u tiên phát triển công
nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp.
Mà không coi trọng đúng mức của phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ. công nghiệp hoá cũng đợc hiểu một cách giản đơn là quá trình xây
dựng một nền sản xuất đợc cơ khí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc
dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn. Quốc hữu
hoá toàn bộ các xí nghiệp t nhân.

Kế hoạch kinh tế của nớc ta hầu nh dậm chân tại chỗ với những viện
nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy đợc năng lực
sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy
đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó
nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nớc phát triển nh vũ bão và trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con ngời.
Một hạn chế nữa là chúng ta mắc phải đó là ta đã phủ nhận quy luật
giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trờng. Thực chất ở đây cũng là do
những nhận thức sai lầm, chủ quan nóng vội mà chúng ta đã cho rằng kinh
tế nớc ta phải tuân theo quy luật giá trị sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trờng mà không hiểu điều quy luật nhất đó là: nớc ta mới ở giai đoạn của thời
kỳ quá độ.

16


4. Một số biện pháp
Để thực hiện đợc mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu nớc mạnh
xã hội công bằng văn minh, đất nớc chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì
đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải
phát triển lực lợng sản xuất, vì không có lực lợng sản xuất hùng hậu với
năng suất cao thì không thể nói đến công nghiệp xã hội. Mà muốn có lực lợng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động cao thì không chỉ dựa vào
nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công mà phải phát triển mạnh công
nghiệp đi lên đối với việc đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền
tảng cho sự tăng trởng nhanh hiệu quả và sự phát triển bền vững toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác là phải tiến hành theo hàng hiện đại
hoá. Đó là bớc đi tất yếu của một quốc gia muốn đi lên từ một nền kinh tế
lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế chung của lịch sử.
Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc CNH - HĐH ở
Việt Nam. CNH - HĐH đa nớc ta vợt qua một chặng đờng dài đi lên công
nghiệp xã hội tính đợc tình trạng chung đó là sự tụt hậu ngày càng xa của

các nớc đang phát triển so với các nớc phát triển . CNH - HĐH là để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, CNH - HĐH đất nớc thì
có tránh đợc nguy cơ tụt hậu về kinh tế và sự lạc hậu về tiến bộ xã hội.
Nhận định đợc những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm rút
ra từ thực tế ở Việt Nam thì năm đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác
định lại t tởng nhận thức một cách đúng đắn hơn: "Không thể nhảy vọt lên
một hình thức cao trớc khi điều kiện vật chất bảo đảm cho nớc ta cha đợc
chuẩn bị đầy đủ "phải luôn hớng vào lực lợng về học thuyết kinh tế xã hội
của Mác. Xác định đợc đây mới là giai đoạn đầu của kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, và để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH phải có
những cơ sở phù hợp hơn, đúng đắn hơn. Tất cả phải xuất phát từ thực trạng
những điều kiện và thuận lợi trớc mắt.
* Khó khăn:
Một vấn đề nổi cộm "chúng ta còn quá lạc hậu, cần phải trang bị mới
hiện đại".
Về nông nghiệp: cho đến nay chúng ta vẫn trong tình trạng lạc hậu về
năng suất vẫn thấp (một lao động trong nông nghiệp trung bình nuôi 2,5 -3
ngời so với ở Mỹ, một lao động nông nghiệp nuôi 30 - 40 ngời). Nông
nghiệp cha thể là chỗ dựa để nâng nhu cầu bình quân đầu ngời một cách
đáng kể nông sản hàng hoá vẫn cha trở thành nguồn chính mà ta có thể dựa

17


vào đó để xây dựng công nghệ và cơ cấu hạ tầng. Thuế thu nhập từ nông
nghiệp không đáng kể.
ở Hải Phòng và Hà Nội: 178,1 tỉ đồng
Đồng bằng sông Hồng 4,6 tỉ. TP. Hồ Chí Minh và vùng ngoại thành là
655 tỉ - SCL 131,8 tỉ.
Về công nghiệp: Chiếm 19% tổng sản phẩm quốc nội, công nghệ chế

tạo 10% tỉ trọng công nghiệp. Theo đúng quá trình của Bộ KHCN và môi
trờng.
Trình độ công nghệ của công nghiệp thuộc giai đoạn 1,2 (thấp) trong
giai đoạn phát triển công nghiệp gồm 7 giai đoạn. Sự đóng góp của công
nghệ trong công nghiệp trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn
thấp (10-20%). Trình độ hiện đại của thiết bị tính chung cả nớc (hiệu quả
16%).
Hệ số hiện đại của thiết bị tính chung cả nớc chỉ đạt 7% năm (bằng 1/2
tối thiểu của các năm).
Tốc độ phát triển của công nghiệp nặng vẫn nhanh hơn công nghiệp
nhẹ.
Công nghiệp ở khu chế tạo tiếp tục tăng: 1989/1988: 81,76%
1990/1989: 95,80% 1991/1990: 99,26%
+ Do chúng ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều
kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên đã gặp nhiều thử thách
gay gắt.
Kết cấu kinh tế ngày càng tăng giữa các nớc giàu và nghèo. Ta mất dần
lợi thế các tài nguyên và lao động. Sự chênh lệch khá lớn về mức sống. Kết
cấu khoa học - kỹ thuật ngày càng lớn.
Nhng nớc ta có những thuận lợi sau:
Nhờ chuyển giao công nghệ nên ta chỉ việc ứng dụng những thành tựu
khoa học - công nghệ. Có thể chọn công nghệ mới, phù hợp để phát triển.
Ta có những bài học kinh nghiệm từ các nớc đi trớc, không mắc phải
sai lầm nh những nớc đó...
Dễ hợp tác để tiến hành công nghiệp hoá.

18


Chúng ta có lực lợng lao động dồi dào, con ngời Việt Nam thông minh

sáng tạo lại có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nớc thông qua
pháp luật.
* Chính sách cụ thể của Nhà nớc ta
Sự phát triển của các nớc trên thế giới và sự nghiệp đổi mới ở nớc ta
củng cố cho chúng ta những bài học lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - quan điểm cơ bản và
hàng đầu của triết học Mác xít - cũng nh nguyên tắc thống nhất giữa lí luận
và thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Mục tiêu mà
Đại hội Đảng lần VIII của Đảng đề ra chính là sự cụ thể hoà hợp thống nhất
về hình thức kinh tế - xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội chủ nghĩa. Ta
phải luôn nhận thức vận dụng đúng đắn sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là
quan hệ bản chất giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng.
Sự đổi mới với tính chất mới mẻ khô khan và phức tạp của nó - đòi hỏi
phải có lí luận khoa học soi sáng. Song phải kết hợp hài hoà giữa lí luận và
thực tiễn. Lý luận không phải bỗng nhiên mà có, không phải từ trên trời rơi
xuống và không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lực lợng rồi mới tiến hành
đổi mới công cuộc không cho phép ta chờ đợi nh vậy. Hơn nữa thực tiễn lại
là cơ sở của nhận thức của lí luận phải qua thực tiễn rồi mới có kinh
nghiệm, có cơ sở để khẳng định thành lý luận.
Trong thời hiện đại nay mọi quy luật phát triển đều chịu sự tác động
mạnh mẽ của khoa học - xã hội vì vậy trình độ phát triển kinh tế và văn
minh xã hội giữa các nớc phát triển và chậm phát triển có xu hớng chênh
lệch ngày càng tăng. Ngày nay dựa vào các lý thuyết lợi thế so sánh lợi thế
tuyệt đối các nớc đi sau nh Nhật, các nớc NICS châu á để rút ngắn đáng kể
thời gian cần thiết để tiến lên trở thành nớc có nền kinh tế phát triển từ một
nớc lạc hậu, chậm phát triển. Và con đờng mà họ đi là con đờng công
nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá thông qua công nghệ.
Trớc tình hình đó Đảng và Nhà nớc đã nhận định và đánh giá tình hình
một cách đúng đắn, điều này ở ĐH Đảng khoá VII đã nêu rõ ràng: trong xu

hớng quốc tế hoá sản xuất và đời sống khoa học - công nghệ trên thế giới
ngày một gia tăng thì công nghiệp hoá phải gắn liền với HĐH, nâng cao
trình độ công nghệ... "Tận dụng lợi thế của nớc đi sau chúng ta tập trung trớc hết cho việc tiếp thu các thành tựu khoa học của thế giới, ứng dụng mở
rộng và làm chủ. Đồng thời phải biết dành nỗ lực nhất định cho những mũi

19


nhọn phát triển, tìm cách đi tắt, đón đầu tạo nên lợi thế cạnh tranh cả về phơng diện kinh tế và công nghiệp tạo nên sự phát triển nhanh và nắm vững
của nền kinh tế".
Chuyển giao công nghệ, nhập công nghệ hiện đại đi đôi phát triển nội
sinh là biện pháp hữu hiệu để trang bị thích hợp do nền kinh tế nớc ta hoà
nhập với nền kinh tế tăng gia trong xu hớng quốc tế ngày càng cao.
Đảng cũng đa ra một số giải pháp mấu chốt để tiếp nhận chuyển giao
kỹ thuật công nghệ trong CNH - HĐH đất nớc nh thu hút qua đầu t trực tiếp
của các nớc công nghiệp phát triển thu hút vốn đầu t kinh tế từ các NIC
châu á; kỹ thuật công nghệ còn có thể đợc đa vào qua con đờng mua và
bán thị trờng thế giới. Kênh chuyển giao khoa học công nghệ còn đợc thực
hiện dới hình thức trao đổi thị trờng, đào tạo các huấn luyện cán bộ khoa
học, nhân viên kỹ thuật, công nhân làm nghề.
Song điều kiện phải có là trình độ đầu t cao và ham hiểu biết, bảo đảm
tốt việc tích luỹ và đầu t trong nớc; bảo đảm công nghệ giữa nớc xuất và
nhập công nghệ không chênh lệch nhu nhiều; nâng cao năng lực quản lý vĩ
mô của Nhà nớc.
Nh vậy, ở phần này ta đã đi sâu vào cốt lõi của vấn đề là cần nh thế
nào để công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Đó là phát triển khoa học
công nghệ, đi thẳng vào thành tựu mới về khoa học công nghệ của thế giới
và nhờ vào việc chuẩn bị tốt năng lực nội sinh về khoa học công nghệ
chúng ta triển khai công nghệ mới đó ở trong nớc.
a) Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới.

Công nghiệp hoá hiện đại hoá ngày nay không thể hiểu nh trớc kia.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay không phải đơn thuần là sự phát
triển mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hiện đại
hoá tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra đợc sự cân đối hài hoà
giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh. Mà "cơ cấu CN-ND
và dịch vụ" là cốt lõi. Từ đó mới có thể tạo ra đợc sự tăng trởng cao và phát
triển bền vững của nền kinh tế nớc ta. Kinh nghiệm của chính nớc ta đã cho
thấy trong những năm xây dựng theo đuổi một cơ cấu kinh tế "phát triển u
tiên công nghiệp nặng hàng đầu", không phù hợp với điều kiện nớc ta là
một nớc nghèo nàn, nông nghiệp lạc hậu, yếu kém, lao động tập trung tới
80% ở khu vực Nhà nớc. Kết quả là không đủ tiêu dùng, xuất không đủ

20


nhập, không tạo đợc tích luỹ nội bộ nền kinh tế quốc dân, nó thể hiện sự
yếu kém nhất định.
Cần phải đổi mới cả t duy nếp nghĩ và hành động. Công cuộc đổi mới
Đảng đã chọn là đúng đắn. Con đờng đó là công nghiệp hoá - hiện đại hoá
với nội dung chủ yếu trong đó có việc hình thành và chuyển dịch kinh tế với
những nội dung chủ yếu trong đó có việc hình thành và chuyển dịch kinh tế
gắn với tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh lại cơ cấu
đầy đủ.
Phơng hớng cụ thể.
Điều đầu tiên cần phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu "công - nông
nghiệp và dịch vụ" phù hợp với xu hớng "mở" của nền kinh tế. Vấn đề này
đợc giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp
lí trong các ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lí với cơ cấu đầu t.
Hớng chuyển dịch đó là giá trị các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỉ lệ sản

lợng chiếm phần lớn trong GDP. Tỉ trọng giá trị sản lợng nông nghiệp giảm
dần (nhng lợng tuyệt đối tăng hàng năm).
+ Nông nghiệp (kể cả lâm ng nghiệp): trong một số năm trớc mắt vẫn
đợc coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nớc cần có những chính sách khuyến
khích đầu t vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng
của các vùng, hình thành những vùng chuyên canh... tạo cơ cấu cây trồng
vật nuôi hợp lí đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái ở nớc ta.
+ Công nghiệp: hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm lợng khoa học - công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề cần
phải đạt đợc đó là: điện tử tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu mới và cơ
khí chính xác.
Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng phải đi trớc một bớc gồm năng lợng
(Điện than, dầu khí) giao thông vận tải.
Từ nay đến năm 2010 phải phát triển tiếp một số ngành nh sản xuất
hàng tiêu dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp
t liệu cần thiết.
+ Công nghiệp chế biến nông thổ thuỷ hải sản: cần đợc chú trọng
nhằm nâng cao giá trị của các mặt hàng lơng thực thực phẩm nhằm thu hút
khách hàng trên thị trờng quốc tế.
+ Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế
mạnh của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh.
21


Cần nâng cao năng lực và trình độ hiện đại các ngành dịch vụ kỹ thuật,
ngân hàng, bu chính viễn thông.
Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn, chúng ta
cần chú trọng phát triển cụ thể nh các dịch vụ vận tải biển, dịch vụ thơng
mại quá cảnh.
Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu t
Nhà nớc cũng nh vấn đề cần giải quyết sớm để phát triển kinh tế.

b) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
(Sự cần thiết): Nớc ta hiện nay là một Nhà nớc so với 80% dân c đang
sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đại bộ
phận ngời nghèo. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông
thôn đã đang và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông
nghiệp không thể tự mình thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật công
nghệ, không có khả năng tăng trởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho nông dân mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ...
chỉ có nh vậy sẽ xoá bỏ đợc trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp
sản xuất nhỏ xoá đói giảm nghèo nâng cao mức tạo nhập bình quân.
Phần trên đã cho thấy thực tế trong mấy năm chuyển đổi sản xuất
nông nghiệp đợc phát triển rõ rệt.
Nhà nớc chuyển biến đáng kể (xuất khẩu lơng thực, thực phẩm...)
Hơn nữa theo kinh nghiệm của các nớc châu á - TBD sự phát triển
công nghiệp giai đoạn đầu chủ yếu đợc đa vào nền tảng của nông nghiệp.
Công nghiệp hoá phải tạo cơ sở cho công nghiệp nông thôn phát triển.
ấn Độ tổ chức tới 102 ngành công nghiệp nông thôn tạo công ăn việc
làm ngăn chặn di c từ nông thôn lên thành thị.
Hàn Quốc: khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn thu hút công
nghiệp chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
Chính vì những bớc đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã
hội ở nông thôn là một việc làm cần thiết trong thời gian trớc mắt nhằm đẩy
tới một bớc sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nớc ta.
Chính sách đờng lối phát triển:
Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phơng hớng hàng chiến lợc
đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp đến hàng mạnh ra xuất khẩu.
Nhiều ngời cho rằng đây là hớng sai lầm nhng thực tế không phải vậy.

22



Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trng là sản phẩm của nó cần
thiết cho mọi cuộc sống hàng ngày.
Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp sản phẩm đủ trong nớc rồi
mới xuất khẩu là một lẽ đơng nhiên những công cụ sản phẩm chỉ trong nớc
còn với xã hội là một lẽ đơng nhiên bởi ta không thể nhập lơng thực mà lại
không tự sản xuất đợc ra.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần đợc quá trình đầu t khoa học công nghệ để đem lại chất lợng sản lợng cao cho sản phẩm. Công nghiệp
nhẹ cần đợc phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp là công nghệ để sản xuất
thuốc trừ sâu phân bón vi sinh không gây độc hại.
Cơ khí hoá là điều kiện đa kỹ thuật máy móc vào sản xuất nông
nghiệp.
c) Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế
Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Để chuẩn bị cho nền kinh tế phát triển cao hơn vào những năm bớc
sang thế kỷ 21 thì cơ sở hạ tầng cần phải đợc hiện đại hoá một phần đáng
kể đó là: hệ thống giao thông vận tải phải đợc nâng cấp cao hơn nữa, hiện
đại hoá sớm hệ thống bu chính viễn thông trong và ngoài nớc, bảo đảm
cung cấp điện cho đô thị, cho sản xuất công nghiệp phải liên tục, phải điện
khí hoá một phần quan trọng vùng nông thôn, cung cấp nớc sạch cho đô thị
từng bớc hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng cho từng vùng lãnh thổ, trớc hết là các
khu vực công nghiệp, các đô thị lớn.
Từ nay đến năm 2010 và sau đó chúng ta có nhiều dự án xây dựng kết
cấu hạ tầng quy mô lớn nh: xây dựng tuyến đờng quốc lộ 1A, tuyến đờng
huyết mạch nối liền Bắc - Trung - Nam nên đạt tiêu chuẩn quốc tế, luận
chứng kinh tế khoa học đã phê duyệt với trên 50 Công ty trong và ngoài nớc
tham gia và đấu thầu với số vốn hơn 2 tỷ USD. Một loạt các cảng biển đợc
xây dựng mới, nâng cấp (cảng Dung Quất đợc đầu t hơn một tỷ USD trong
tơng lai sẽ tính thành cảng biển lớn vào bậc nhất ĐNA...)

Nhìn lại cơ sở hạ tầng của nớc ta, một số đã phát huy hiệu quả kinh tế
của nó. Nh nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, khu gang thép Thái Nguyên đang
đi vào đổi mới công nghệ, nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch...
Trong tơng lai ta sẽ xây dựng trung tâm Đại học, khoa học - công
nghệ,y tế thể dục, trung tâm quốc gia...

23


d) Phát triển kinh tế nhiều thành phần
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của mọi thành
phần kinh tế. Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính
sách của Đảng và Nhà nớc khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển
không nh trớc kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến t
nhân phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trờng tầng
chúng bổ sung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển có hiệu
quả đẩy nớc ta lên một nấc thang cao hơn của công nghiệp hoá - hiện đại
hoá xây dựng đất nớc.
Kinh nghiệm của chính nớc ta đã chứng tỏ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh
tế quốc dân. Có nh vậy chúng ta mới phát huy đợc t tởng Hồ Chí Minh
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết..."
Trong thời gian tới để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
huy tính năng động của ngời trong công cuộc đổi mới vào xây dựng tổ chức
chúng ta cần tăng cờng quản lý chỉ đạo thống nhất quá trình mở cửa, chuẩn
bị tốt các chơng trình kế hoạch, dự án hợp tác với bên ngoài... Đồng thời
phải quán triệt các quyết định chủ trơng đã đề ra.
* Đó là vấn đề trọng tâm nhất của chính sách đổi mới mà Đảng ta đề
ra song ta cần phải kết hợp với những chính sách khác nh phát triển công
nghiệp trên các địa bàn thuận lợi có điều kiện. Hiện nay ta đang chủ trơng

đầu t thúc đẩy mạnh công nghiệp ở các ngành công nghiệp chế biến nông
lâm, thuỷ sản, cơ khí, điện tử tin học; các ngành nguyên vật liệu...
Địa bàn đang thực hiện các khu chế xuất, đô thị công nghiệp có tính
tập trung cao.
- Chú ý đến việc tạo nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và
vấn đề môi trờng.
* Một số vấn đề cần lu ý:
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nớc ta
khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật
vận động đó, muốn tạo ra những bớc chuyển biến tích cực của nền kinh tế
nớc ta đòi hỏi các nội dung của công nghiệp hoá cũng nh phải thờng xuyên
thay đổi và bổ sung.
Các nội dung trong công nghiệp hoá phải liên hệ chặt chẽ và bổ sung
cho nhau quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ sản

24


xuất để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lợng sản xuất, xây
dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng...
Trong quá trình tiến hành cần phải đa con ngời lên vị trí trung tâm.
Đặc biệt là con ngời lao động. Đối với các nớc đang phát triển, để xây
dựng một nền kinh tế mạnh bền vững, không thể chỉ dựa vào vay mợn hay
bỏ tiền ra mua công nghệ của nớc ngoài, mà phải dựa trên cơ sở khả năng,
trí tuệ, phải bằng t tởng văn hoá của mình mới có thể biến công nghệ hiện
đại của thế giới thành cái của mình. Không thể dựa trên vài nguồn tài
nguyên thiên nhiên hay vào số lợng những: mỏ than, giếng dầu, đồn điền
cao su hay ruộng đồng có sẵn mà phải biết phát huy yêu tố con ngời. Đây
cũng là bài học rút ra từ thực tiễn của nhiều nớc trên thế giới có kinh tế phát
triển: Nh Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... phát triển con ngời trở

thành xu thế khách quan trong xã hội hiện đại, là cơ sở tiền đề và thớc đo
cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đây là chuyên đề rộng lớn và toàn diện
bao trùm toàn bộ sự phát triển xoay quanh con ngời.
Nớc ta coi phát triển con ngời là một mục tiêu đầu tiên, là động lực
căn bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo
bồi dỡng nguồn lực con ngời làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển và xem đó
là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của tất cả
thành phần kinh tế, trong đó nhà nớc đóng vai trò chủ đạo, cán bộ và công
chức nhà nớc nói chung, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng là
phơng pháp chủ yếu và quyết định.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xây dựng nhiệm vụ chiến lợc chế độ
nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng thành
thạo chuyên môn nghiệp vụ có khả năng và trình độ để đáp ứng nhu cầu của
tình hình nhiệm vụ trong thời kỳ mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoáhiện đại hoá.
Trong quá trình tiến hành cách mạng có những lúc thuận lợi, bên cạnh
đó có rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và phơng
pháp khoa học sáng tạo, phải có quan điểm khách quan toàn diện phát triển
đa chính sách cụ thể là thực tiễn.
Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn (chẳng hạn nên
áp dụng cơ chế một giá hay 2 giá, vấn đề chống lạm phát, vấn đề khoán
trong Nhà nớc...) phải trải qua thử nghiệm trực tiếp, phải làm rồi mới biết
phải học trong thực tiễn quá trình đó không tránh khỏi việc trả giá cho
25


×