Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.3 KB, 5 trang )

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay theo Hiến pháp (bản sửa đổi 1992),
đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được
công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin(Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực tế, chủ nghĩa dân tộc, một số yếu tố tích
cực của chủ nghĩa tư bản và cả một vài yếu tố có tính truyền thống của ý thức hệ phong kiến cũng có
những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, trong các ngữ cảnh không chính thức, các phương tiện
truyền thông, các nhà lãnh đạo, và đại bộ phận người dân thường dùng một từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta")
để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công thực dân pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân đã đứng
lên chống lại. Dưới sự lãnh đạo của Dảng tuừ 1945 đến 1954 chúng ta đã giành nhiều thắng lợi . để có
được những thắng lợi đó thì Đảng đã có vai trò cực kì quan trọng :
- Đè ra đường lối khang chiến chống Pháp ( toàn dân , toàn diện ,lâu dài và tự lực cánh sinh.).
- Kêu gọi nhân nhân dân tham gia kháng chiến ( lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - 22/ 12/ 1946
- Trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến và giành thắng lợi.
Miền Bắc dốc sức chi viện miền Nam kết thúc kháng chiến chống Mỹ
Sau Hiệp định Pa-ri được ký kết (27-1-1973), cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: Miền Bắc
tiến hành hàn gắn vết thương do chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ để lại và thực hiện khôi
phục, phát triển kinh tế trong 3 năm 1973-1975; miền Nam tiếp tục đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp
định.
Từ tình hình thực tiễn cách mạng miền Nam, Đảng ta khẳng định: Nếu địch không thi hành Hiệp định Pari, tiếp tục chính sách thực dân mới thì ta không có con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh
cách mạng, dùng bạo lực vũ trang để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Yêu cầu cấp thiết đặt
ra cho miền Nam lúc này là phải tăng cường sức mạnh mọi mặt, mà trước hết là nhanh chóng bổ sung
và tăng cường lực lượng của cả ba thứ quân. Thực tế đó đòi hỏi miền Bắc phải dốc sức chi viện cho
miền Nam.

Thanh niên miền Bắc hăng hái lên đường vào chiến trường miền Nam.


Nhờ sự nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân nên kinh tế
miền Bắc nhanh chóng khôi phục và phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc được cải thiện và có điều
kiện bảo đảm yêu cầu chi viện cho miền Nam để kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong những năm


1973-1975, gần 50 vạn thanh niên miền Bắc nhập ngũ lên đường ra mặt trận. Sự tăng viện này có ý
nghĩa rất lớn cho việc củng cố, phát triển khối quân chủ lực ở miền Nam. Đến cuối năm 1974, trên chiến
trường miền Nam chúng ta đã có 113 trung đoàn bộ binh, 5 trung đoàn tăng - thiết giáp với 700 xe các
loại, 1.300 khẩu pháo cao xạ... Thực hiện chủ trương của Đảng, để tăng cường sức mạnh chiến đấu cho
quân đội đáp ứng yêu cầu kết thúc chiến tranh, từ tháng 10-1973 đến đầu năm 1975, ta đã thành lập 4
quân đoàn chủ lực. Đồng thời Đảng và Nhà nước cũng chú trọng xây dựng các sư đoàn, trung đoàn chủ
lực cơ động trực thuộc các quân khu mà cán bộ, chiến sĩ của những đơn vị này chủ yếu là đưa từ miền
Bắc vào.

Nhằm tăng cường sức cơ động của quân đội và khả năng chi viện vật chất kịp thời cho miền Nam, Hội
đồng Chính phủ đã phê chuẩn kế hoạch xây dựng hệ thống đường Đông Trường Sơn và nâng cấp
đường Tây Trường Sơn. Hơn 3 vạn cán bộ, chiến sĩ, công nhân, thanh niên xung phong từ miền Bắc đã
được điều động vào Trường Sơn cùng tham gia nâng cấp và mở đường với cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559.
Vượt qua khó khăn ác liệt đến đầu năm 1975, ta đã mở được 1.200km đường từ Đông Trường Sơn vào
tới Lộc Ninh và 1.240km đường được nâng cấp ở Tây Trường Sơn. Hệ thống đường ống xăng dầu mới
được xây dựng dài 1.311 km nối liền với hệ thống của cả nước, bao gồm 113 trạm bơm, 46 kho dự trữ
với hệ thống bể chứa khoảng 327.800m3. Ngày 17-1-1975, xăng dầu vận hành bằng đường ống đã vào
tới Đông Nam Bộ. Nhờ hệ thống đường được mở rộng và khả năng cung cấp xăng dầu nên việc vận
chuyển, cơ động chiến lược của ta từ miền Bắc vào miền Nam nhanh và nhiều hơn so với những năm
trước.

Trước tình hình phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 và
tháng 1-1975 đã chỉ rõ thời cơ lịch sử đang đến gần và hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn
miền Nam. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định trong năm 1975, miền Bắc cung cấp cho
miền Nam 560.000 tấn vật chất, trong đó tăng cường chi viện cho Nam Bộ gấp 4 lần, Khu V gấp 2 lần và
tăng cường dự trữ gấp 4 lần so với năm trước. Bằng sự cố gắng lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta nên chỉ trong tháng 1 và tháng 2 năm 1975, miền Bắc đã huy động được 57.000 chiến sĩ; 260.000 tấn
vật chất, trong đó có 46.000 tấn vũ khí, đạn dược; 124.000 tấn gạo; 32.000 tấn xăng dầu. Đến tháng 4
năm 1975, miền Bắc đã chuyển giao khối lượng vật chất cho các chiến trường đạt 119% kế hoạch.


Để huy động sức người, sức của cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Bộ Chính trị thành
lập Hội đồng Chi viện chiến trường. Thực hiện phương châm “thần tốc, quyết thắng”, hậu phương miền
Bắc đã chuyển nhanh một khối lượng vật chất hết sức to lớn, đưa tổng số vật chất kỹ thuật đã dự trữ ở
chiến trường lên gần 255.000 tấn, trong đó có 93.540 tấn xăng dầu, 103.455 tấn vũ khí. Để phục vụ cho
Chiến dịch Tây Nguyên vào đầu tháng 3-1975, ta đã dự trữ ở đây gần 54.000 tấn vật chất, trong đó có
7.286 tấn gạo đủ bảo đảm cho lực lượng vũ trang hoạt động dài ngày. Đặc biệt trong chiến dịch Hồ Chí
Minh, ta đã sử dụng lực lượng 5 quân đoàn binh chủng hợp thành gồm nhiều đơn vị được cơ động thần
tốc từ miền Bắc vào cùng với lực lượng vũ trang Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và thành phố Sài Gòn với
270.000 người, lực lượng phục vụ hậu cần chiến dịch lên tới 180.000 người. Nhờ sức mạnh áp đảo, ta
đã nhanh chóng đè bẹp bộ máy ngụy quyền, ngụyquân của địch từ trung ương đến cơ sở, giải phóng
hoàn toàn miền Nam kết thúc sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong thắng lợi chung đó, hậu phương lớn
miền Bắc đóng vai trò hết sức quan trọng.


Ngày ấy cách đây đã 35 năm nhưng nhìn lại những sự kiện đã qua để suy nghĩ về việc huy động sức
người, sức của cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cả hiện tại và tương lai là việc rất hệ trọng. Trong con mắt
của Mỹ - ngụy, vai trò của hậu phương miền Bắc có thể chỉ đơn giản là nơi cung cấp cơ sở vật chất, vũ
khí đạn dược cho chiến trường. Nhưng với Đảng, nhân dân và quân đội Việt Nam thì ngoài vai trò nguồn
cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, căn cứ hậu phương miền Bắc còn là chỗ dựa tinh thần, còn
là nơi tạo ra thế và lực để phát huy sức mạnh tổng hợp giành chiến thắng. Một câu hỏi đặt ra là trong
điều kiện miền Bắc kinh tế còn nghèo, lại vừa phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân và hải quân của giặc Mỹ làm sao có thể khôi phục nhanh và huy động được một khối lượng
vật chất khổng lồ đến thế? Không gì khác chính sức mạnh yếu tố chính trị, tinh thần là động lực thôi thúc
chúng ta làm nên những điều kỳ diệu ấy. Thời đại ngày nay đã khác xa cách đây 35 năm nhưng những
bài học về phát huy nhân tố chính trị, tinh thần để dốc sức chi viện cho tiền tuyến trong giai đoạn cuối của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nguyên tính thời sự.

Vai trò được thể hiện nhất từ sau đổi mới :
(A)Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của nhà nước trong quá trình phát triển
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...

1.Điều cần nhấn mạnh là, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.Phân tích :
- Đây là một đặc điểm bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chi phối bởi bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không có Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa quản lý thì không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đó sẽ chỉ là kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.
- Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng
đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính
sách, pháp luật, bằng các công cụ quản lý vĩ mô (tài chính, tín dụng, kế hoạch, quy hoạch...) mới hạn chế
tính tự phát tư bản chủ nghĩa, đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền
kinh tế đất nước, thực hiện được sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong mỗi bước phát triển.
- Kinh tế thị trường vốn có hai mặt: mặt thuận (tích cực) như thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, chú
trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế... và mặt nghịch (tiêu cực) như thúc đẩy phân hóa giàu - nghèo, khuyến
khích lối sống thực dụng vị kỷ, chạy theo đồng tiền, hạ thấp giá trị đạo đức... Mặt nghịch của kinh tế thị
trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường.
- Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội. Những
lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan, chuyển hóa chúng
thành đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch... để tổ chức thực hiện, đưa vào cuộc sống, nâng cao
đời sống của quần chúng nhân dân đông đảo nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những thành tố cơ bản của hệ thống chính trị, của kiến
trúc thượng tầng chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước chính là
tăng cường sự tác động của chính trị xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường để thúc đẩy kinh tế thị
trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; ngược lại, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ
buộc Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo, còn Nhà nước phải đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động, phải cải cách hành chính cho phù hợp với yêu cầu, quy luật của
kinh tế thị trường.



Như vậy, trong quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn "phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa" ở Việt Nam vừa qua đã phản ánh sinh động tư tưởng biện chứng rất quan
trọng của V.I.Lê-nin - tư tưởng về sự tự giác kết hợp các mặt đối lập biện chứng: chủ nghĩa xã hội và
kinh tế thị trường, những mặt đối lập tưởng chừng không thể kết hợp được như "đất với trời", như "nước
với lửa", như người cộng sản với người buôn xỉ. Vấn đề còn lại là ở chỗ, kết hợp như thế nào để tạo ra
những "âm thanh du dương êm tai" chứ không phải những "điệu nhạc chói tai", như V.I.Lê-nin từng ví
von một cách hình ảnh. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là nhân tố có ý nghĩa quyết định của sự kết hợp đó.
2 - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất và đồng bộ
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát huy cao nhất mặt tích cực và hạn chế tối đa những
khuyết tật của kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý nền
kinh tế.
Trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu
đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, đến nay hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ,
thường phải sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung. Vì vậy, trước mắt phải tiếp tục khẩn trương hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế theo Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. Đồng thời sửa đổi, bổ sung
các luật, pháp lệnh hiện hành và ban hành các luật mới phù hợp với thực tiễn vận động nhanh chóng của
nền kinh tế quốc dân (như luật cạnh tranh, luật chống độc quyền, luật chứng khoán và thị trường chứng
khoán, luật bảo hộ quyền sở hữu tư nhân...). Cần cải tiến công tác làm luật, tăng cường vai trò của Quốc
hội, các Ủy ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách trong tiến trình xây dựng, đưa ra và
phê chuẩn các dự án luật.
3- Hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố cấu thành thị trường chung bao gồm thị trường hàng hóa và dịch vụ,
thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị
trường bảo hiểm, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản, v.v..
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để
phát triển. Thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả lực

lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo chủ động cân đối vĩ mô
nền kinh tế, điều tiết phân phối và thu nhập.
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước theo quy định của pháp luật, kiên quyết đấu tranh
chống các tệ buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, tham nhũng, lãng phí...; tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Phân định rõ chức
năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh; từ đó, thực hiện đúng
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng sở hữu tài sản công của Nhà nước.
4 - Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế
Đổi mới công tác kế hoạch hóa theo hướng xuất phát và gắn chặt với thị trường. Nâng cao chất lượng
công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác
thông tin kinh tế, công tác kế toán, thống kê.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu và chi ngân sách. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân
sách nhà nước. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế.
Nâng cao hiệu quả đầu tư vốn và sử dụng vốn, chống lãng phí, thất thoát vốn. Gắn cải cách ngân hàng
với cải cách doanh nghiệp nhà nước.
5 - Đẩy mạnh cải cách hành chính
Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành một bước cải cách nền hành chính, nhưng phải thừa nhận
rằng, "Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước
cồng kềnh, trùng lắp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà,
không ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn


cho việc phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm động lực phát triển"(3).
Vì vậy, trong những năm tới phải nỗ lực hơn nữa theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010 do Chính phủ phê duyệt nhằm nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cải cách tổ chức bộ máy các cấp từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, có hiệu lực, hiệu
quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm.
Cải cách công cụ và chế độ công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, tinh nhuệ.
Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất, công khai, minh bạch, đơn giản, kiên quyết xóa bỏ

các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân và các doanh nghiệp.
Tất cả nỗ lực đó nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu
quả theo hướng xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một công việc mới mẻ, đầy
khó khăn, phức tạp, vì chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, trong quá trình này, Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa làm vừa học, vừa tổng kết thực tiễn vừa tham khảo kinh nghiệm của các đồng chí Trung Quốc,
không ngừng đổi mới tư duy, nâng cao trình độ tổ chức thực tiễn, kiên quyết đưa sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thành công.
(B)Vai trò của Đảng trông việc giữ vững ổn định chính trị.
-Tạo niềm tin ở dân
-Khuyến khích sản xuất.Chú ý giáo dục
-Tăng cường đoan kết,Củng cố an ninh quốc phòng
-Đối ngoại:Quan hệ vs tất cả các nước tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam



×