LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày
càng gia tăng đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác tích cực hơn, trong đó các thành viên
ASEAN. Từ khi ra đời vào năm 1967 đến năm 1997, phần lớn các quyết định của
ASEAN chủ yếu liên quan đến chính trị , chỉ có quyết định khu vực mậu dịch tự do được
đưa ra vào năm 1993 là quyết định liên quan đến kinh tế.
Tính đến năm 1997, ASEAN luôn là một tổ chức thành công và có uy tín nhờ thực
hiện nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và giữ gìn bản sắc dân
tộc trong sự đa dạng về trình độ phát triển và thể chế chính trị. Nhưng cuộc khủng hoảng
kinh tế năm 1998 ở khu vực đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của ASEAN. Tổ chức
này bị ảnh hưởng về uy tín không lớn, cơ chế hợp tác lỏng lẻo, họp hành quá nhiều ( tầm
khoảng 700 cuộc họp mỗi năm ) nhưng các quyết định nhiều khi không được thực hiện,
ASEAN không mạnh vì các nền kinh tế phân mảnh, không liên kết với nhau.
Nhìn lại xuyên suốt lịch sử ASEAN chỉ là một tổ chức khu vực thiên về chính trị, chưa
có tư cách pháp nhân ở LHQ cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực khác vì chưa có
Hiến Chương, điều lệ, pháp lý. Vì vậy ý tưởng hình thành cộng đồng ASEAN đã đưa ra
trong bối cảnh thế giới và khu vực phát triển đặt ASEAN trước vấn đề và phải liên kết
các quốc gia thành một thể thống nhất.
Để có thể đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, có tính
phát triển cao, phát triển đồng đều giữa các thành viên và hội nhập hoàn toàn vào nền
kinh tế toàn cầu thì các quốc gia ASEAN đã đưa hợp tác kinh tế lên một tầm cao mới phù
hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của ASEAN. Chính vì vậy mà ý tưởng về thành lập
một cộng đồng kinh tế của ASEAN (AEC) đã được đưa ra và đang từng bước trở thành
hiện thực.
Cộng đồng ASEAN quyết tâm “chuyển sự đa dạng về văn hóa và sự khác biệt của
ASEAN thành thịnh vượng và các cơ hội phát triển công bằng trong một môi trường
đoàn kết, tự cường khu vực và hòa hợp”. Mục tiêu mà ASEAN đang hướng tới là một gia
đình các dân tộc Đông Nam Á đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
APEC ra đời vào tháng 11/1989 với 12 thành viên sáng lập: Australia, Nhật Bản,
Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand,
Canada, Mỹ.
Năm 1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan; năm 1993 có thêm
Mexico, Papua New Ghine, năm 1994 có thêm Chile; năm 1998 có thêm Việt Nam, Liên
bang Nga và Peru.
So với toàn thế giới, APEC có vị trí quan trọng, diện tích chiếm 46%, dân số chiếm
41,2%, mật độ dân số bằng 89,8%, GDP chiếm 57,7%, GDP bình quân đầu người bằng
140,1%, xuất khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu bình quân đầu người bằng 121,7%.
Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đạt 19,1%, tuy thấp hơn tỷ lệ 22% của thế giới, nhưng lại có
những thành viên đạt rất cao, như: Singapore 196,5%; Hồng Kông; 163,3%; Malaysia
121,2%; Brunei 74,5%; Thái Lan; 67,7%; Việt Nam 59,6%; Đài Loan 53%...
Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD (Mỹ, Nhật Bản,
Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Mexico, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất
thế giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt, gần đây Trung Quốc với tốc độ kinh tế liên tục tăng
cao và tăng trong thời gian dài kỷ lục…
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
I. Khái niệm sơ lược về Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN và lý thuyết về liên kết khu
vực, các cấp độ liên kết khu vực:
1.1 Khái niệm về AEC:
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một hình thức liên kết kinh tế nhằm tiến tới
thành lập Liên minh kinh tế. Liên minh tiền tệ có những đặc trưng là xây dựng chính sách
thương mại chung, hình thành đồng tiên chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng
của các nước thành viên, thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ, xây dựng hệ thống ngân
hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương của các nước thành viên, xây dựng chính
sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước ngoài Liên minh và các tổ chức
tiền tệ quốc tế.
1.2 Lý thuyết về liên kết khu vực, các cấp độ liên kết khu vực:
Việc toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là vấn đề quan trọng đối với các quốc gia trên
thế giới. Liên kết giữa các quốc gia là việc tất yếu cho sự phát triển kinh tế, mở rộng thị
trường, thu hẹp rào cản. Có thể thấy, liên kết giữa các nước dẫn đến sự phụ thuộc ngày
càng lớn cho nên đòi hoi các quốc gia cần phải có sự liên kết chặt chẽ để giải quyết các
vấn đề toàn cầu như: kinh tế, tài chính, thương mại... Vai trò của việc liên kết quốc tế tạo
đều kiện cho các nước tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, tạo ra sự cạnh tranh cao, các
khu vực phát triển đồng điều. Xét về các nội dung, liên kết kinh tế khu vực được cấu
thành từ: Sự tự do thương mại về hàng hóa, dịch vụ, sự tự do luân chuyển đầu tư, sự tự
do di chuyển, thuế quan chung đối với bên ngoài... để các quốc gia cùng tồn tại, phát
triển và xích lại gần nhau hơn qua việc hình thành nên các mối quan hệ kinh tế-xã hội,
tạo ra các liên kết khu vực.
Liên kết kinh tế quốc tế nói chung và sự hình thành khối kinh tế khu vực nói riêng là
nền tảng cho những hợp tác sâu rộng về mọi mặt kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế và thương mại. Việc thành lập AEC, bên
cạnh những cơ hội mang lại cho Cộng đồng ASEAN, trong đó có Việt Nam; còn đặt ra
những cho Việt Nam nhiều thách thức.
Việc phân biệt các cấp độ liên kết kinh tế khu vực tùy thuộc vào mức độ phối hợp
chính sách giữa các quốc gia thành viên. Có khối kinh tế khu vực chỉ có sự liên kết bằng
các chính sách chung trong một lĩnh vực nhưng cũng có khối kinh tế khu vực lại xây
dựng hệ thống các chính sách chung trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xóa bỏ hoàn toàn biên
giới quốc gia về kinh tế. Có năm hình thức liên kết và hội nhập kinh tế khu vực xét theo
cấp độ cam kết tự do hóa thương mại và liên kết kinh tế như sau:
a) Khu vực mậu dịch tự do (Free trade area - FTA)
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN
Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước
trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%,
loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục
hải quan giữa các nước.
- FTA là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận với
nhau về việc giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng,
tiến tới hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ.
-
Các nước thành viên vẫn giữ được quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các
nước ngoài khu vực. Nói cách khác, những thành viên của FTA có thể duy trì những thuế
quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối với thế giới bên ngoài.
-
Thực hiện đơn giản hóa thủ tục hái quan và thị thực xuất cảnh tạo điều kiện cho hàng
-
hóa, dịch vụ, đầu tư của các thành viên xâm nhập vào nhau.
Tùy theo điều kiện phát triển của các nước khác nhau mà các quốc gia có thể đưa ra các
giải pháp về thuế quan, các biện pháp phi thuế riêng, để phù hợp với các nguyên tắc
chung của khối.
FTA là hình thức liên kết kinh tế phổ biến nhất được sử dụng hiện nay bởi đây là hình
thức cho phép mỗi nước tham gia nhanh hơn, có hiệu quả hơn vào hoạt động thương mại
của khu vực và liên khu vực.
b)
Liên minh thuế quan (Customs Union – CU)
Một hình thức hội nhập kinh tế trong đó hai hay nhiều quốc gia đồng ý tham gia
thương mại tự do, lập ra biểu thuế quan chung và loại bỏ các hàng rào ngoại thương các
nước thành viên, đồng thời áp dụng một dạng thuế quan đối ngoại chung đối với các quốc
gia không phải thành viên, với các đặc điểm sau:
- Các nước trong liên minh thỏa thuận xây dựng chung về cơ chế hải quan thống nhất áp
-
dụng cho các thành viên.
Cùng nhau xây dựng biểu thuế quan thống nhất áp dụng trong hoạt động thương mại.
Tiến tới xây dựng chính sách ngoại thương thống nhất mà mỗi nước thành viên phải tuân
theo.
- Tạo mậu dịch và chuyển mậu dịch
CU là hình thức có tính chất thống nhất tổ chức cao hơn hình thức FTA, nó bao hàm toàn
bộ nhựng đặc điểm của FTA.
c) Thị trường chung (Common Market - CM)
Ngoài việc liên minh về thuế quan, các quốc gia tham gia Thị trường chung còn phải
gỡ bỏ mọi rào cản và tạo sự tự do di chuyển các yếu tố sản xuất trong khuôn khổ liên kết:
- Xóa bỏ những trở ngại đến quá trình buôn bán lẫn nhau như: thuế quan, hạn ngạch giấy
-
phép...
Xóa bỏ các trở ngại cho quán trình tự do di chuyển tư bản và sức lao động của các thành
viên.
- Xây dựng cơ chế chung điều tiết thị trường của các thành viên.
- Tiến tới xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại chung trong quan hệ với các nước ngoài
khối.
CM là hình thức phát triển cao hơn của liên kết kinh tế giữa các nước.
d) Liên minh kinh tế (Economic Union - EU)
EU là hinh thức liên minh mà các quốc gia tham gia liên minh kinh tế sẽ phải có sự
thống nhất thực hiện một chính sách kinh tế chung:
- Các nước xây dựng chung với nhau chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách phát triển
kinh tế nội địa như chính sách phát triển kinh tế ngành, phát triển kinh tế vùng mà không
bị chia cắt bởi biên gới lãnh thổ các nước thành viên.
- Thực hiện phân công lao động sâu sắc giữa các thành viên.
- Cùng nhau thiết lập bộ máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước ( thay
thế một phần hình thức quản lý của chính phủ)
EU là hình thức liên kết có tính tổ chức thông nhất cao hơn so với thị trường chung.
e) Liên minh tiền tệ (Monetary Union - MU)
MU là một hình thức liên kết kinh tế nhằm tiến tới thành lập Liên minh kinh tế. [1] Liên
minh tiền tệ có những đặc trưng là xây dựng chính sách thương mại chung, hình thành
đồng tiên chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên, thống
nhất chính sách lưu thông tiền tệ, xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân
hàng trung ương của các nước thành viên, xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng
chung đối với các nước ngoài Liên minh và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
MU là hình thức liên kết kinh tế cao nhất, tiến tới thành lập một khu vực kinh tế chung
của nhiều nước.
Bảng cấp độ liên kết của kinh tế nhà nước
Hình thức
Thương mại
Chính sách
Tự do lưu
Chính
Sử dụng
liên kết
tự do nội khối thương mại chuyển vốn sách kinh đồng tiền
chung
và lao động
tế chung chung
Khu vực
mậu dịch tự
do
Liên minh
thuế quan
Thị trường
chung
Liên minh
kinh tế
Liên minh
tiền tê
II.
Những nội dung cơ bản của ACE:
II.1 Đặc trưng cơ bản của ACE:
Với việc hoàn thành các mục tiêu trên, AEC sẽ trở thành một thực thể kinh tế các đặc
trưng chính như sau: Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, một khu vực
kinh tế cạnh tranh, một khu vực kinh tế phát triển cân bằng, một khu vực kinh tế hội nhập
đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất:
- Với việc thực hiện hóa Cộng đồng kinh tế ASEAN, ASEAN sẽ trở thành một thị trường
đơn nhất, một không gian sản xuất chung, hướng tới sự phát triển năng động và cạnh
tranh hơn. Các cơ chế và các biện pháp mới bao gồm thúc đẩy việc thực thi các sáng kiến
kinh tế hiện tại, thúc đẩy hội nhập khu vực trong các lĩnh vực ưu tiên, tạo thuận lợi cho
sự di chuyển của các doanh nhân, lao động lành nghề và chuyên gia, đồng thời củng cố
thể chế của ASEAN.
- Một thị trường đơn nhất và một không gian sản xuất của ASEAN bao gồm năm yếu tố
chính: (i) các dòng hàng hóa tự do; (ii) các dòng dịch vụ tự do; (iii) các dòng đầu tư tự
do; (iv) các dòng vốn tự do hơn; và (v) các dòng lao động tự do. Các ngành công nghiệp
trong thị trường đơn nhất và không gian sản xuất chung gồm 12 ngành ưu tiên hội nhập:
sản phẩm từ nông nghiệp, hàng không (vận tải, hàng không), ô tô, điện tử ASEAN, thủy
sản, y tế, các sản phẩm cao su, dệt may và may mặc, du lịch, các sản phẩm gỗ và dịch vụ
logistics cũng như thực phẩm, nông lâm sản.
- Một thị trường đơn nhất đối với hàng hóa và dịch vụ sẽ thúc đẩy sự phát triển các mạng
lưới sản xuất trong khu vực và tăng khả năng của ASEAN trong việc đảm bảo nhận vai
trò trung tâm sản xuất của thế giới và là một phần của dây chuyền cung ứng toàn cầu.
Thuế quan sẽ bị xóa bỏ và các hàng rào phi thuế sẽ được cắt giảm dần. Các thủ tục thuế
quan và hải quan đơn giản, hài hòa và tiêu chuẩn hóa dự kiến sẽ giúp giảm chi phí giao
dịch. Các nhà cung cấp dịch vụ chuyên môn sẽ được di chuyển tự do. Các nhà đầu tư
ASEAN sẽ được đầu tư và các ngành dịch vụ sẽ được mở cửa.
Một khu vực kinh tế cạnh tranh:
- Việc tạo ra một khu vực ổn định, thịnh vượng và có tính cạnh tranh cao là mục tiêu của
hội nhập kinh tế ASEAN. Có sáu yếu tố trong khu vực kinh tế mang tính cạnh tranh này:
(i) chính sách cạnh tranh; (ii) bảo vệ người tiêu dùng; (iii) quyền sở hữu trí tuệ (IPR); (iv)
phát triển cơ sở hạ tầng; (v) thuế; (vi) thương mại điện tử.
- Các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết ban hành các chính sách và luật cạnh trạnh
quốc gia (CPL) để đảm bảo một sân chơi bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các
doanh nghiệp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh tế của khu vực trong dài hạn.
Một khu vực kinh tế phát triển cân bằng:
Có hai yếu tố trong phát triển kinh tế công bằng: (i) phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) và (ii) sáng kiến hội nhập ASEAN. Các sáng kiến này nhằm thu hẹp khoảng
cách phát triển cả cấp độ SME cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của Cam-pu-
chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam (ALMV) để cho phép tất cả các quốc gia thành viên
phát triển theo một định hướng thống nhất và tăng cường khả năng cạnh tranh của cả khu
vực, giúp tất cả các nước tận dụng được cơ hội mà quá trình hội nhập mang lại.
Một khu vực kinh tế hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu:
- ASEAN đang hoạt động trong môi trường toàn cầu với mối liên hệ chặt chẽ giữa các thị
trường độc lập và các ngành kinh tế mang tính toàn cầu. Để các doanh nghiệp ASEAN có
thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đưa ASEAN thành một nhà cung cấp toàn cầu
năng động, có vai trò quan trọng và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường nội
địa, ASEAN không chỉ dừng lại ở AEC.
- Hai cách tiếp cận được ASEAN lựa chọn để hội nhập kinh tế toàn cầu là: (i) tiếp cận
thống nhất đối với hợp tác kinh tế ngoại khối thông qua các hiệp định thương mại tự do
(FTA) và các hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (CEP) và (ii) tăng cường tham gia vào
các mạng lưới cung ứng toàn cầu.
II.2 Nội dung thực hiện ACE:
a. Tự do di chuyển hàng hóa, dịch vụ:
Để đạt đến cấp độ cộng đồng kinh tế, mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện các
biện pháp loại bỏ hàng rào thuế quan và nhợng hạn chế về mậu dịch khác, đồng thời thiết
lập một biểu thuế quan chung cho các nước thành viên với phần còn lại của thế giới, tức
là thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên, hay nói
cách khác, các nước thành viên phải có sự hòa hợp nhất định về chính sách kinh tế nói
chung và chính sách thương mại nói riêng. Từ đó, tạo điều kiện đẩy mạnh di chuyển hàng
hóa và tăng mức trao đổi thương mại, dịch vụ nội khối.
Đối với tự do hóa dịch vụ, các quốc gia thành viên cũng phải xóa bỏ các hạn chế
về thương mại dịch vụ; thực hiện tự do hóa bằng cách mở rộng chiều sâu và phạm vi theo
nhuợng cam kết nhất định.Không chỉ dừng lại ở biện pháp xóa bỏ hàng rào thuế quan mà
còn yêu cầu gỡ bỏ những rào cản khác đối vói thương mại. Điều này liên quan đến thủ
tục hải quan quy định hành chính và tiêu chuẩn hóa sản phẩm. Các nước thành viên phải
xác lập được hệ tiêu chuẩn hàng hóa thống nhất, hoặc đạt được thỏa thuận về công nhận
tiêu chuẩn của nhau (MRA). Theo thỏa thuận như vậy, việc giám định và cấp chứng nhận
của một quốc gia trong cộng đồng kinh tế đối với mặt hàng cụ thầ nào đó sẽ được các
quốc gia còn lại mặc nhiên công nhận. Ngoài ra, yếu tố khác biệt về lợi thế so sánh giữa
các quốc gia thành viên, hay nói cách khác là tính bổ sung cho nhau mạnh mẽ cũng hết
sức cần thiết đầ thúc đẩy trao đổi hàng hoá dịch vụ trong cộng đồng kinh tế.
b. Tự do di chuyển khách du lịch và lao động có tay nghề:
Cộng đồng kinh tế được hình dung như một trung tâm sản xuất đơn nhất từ đó bán
hàng ra thế giới trên cơ sở lợi thế so sánh về tính bổ sung lẫn nhau giữa các nền kinh tế
thành viên. Một trung tâm sản xuất như thế sẽ khai thác tốt lợi thế so sánh của các nước
thành viên, phát huy hiệu quả và tăng cường sức cạnh tranh. Yếu tố con người luôn là
then chốt, đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Một trung tâm sản xuất như hình dung của
cộng đồng kinh tế đòi hỏi có dòng chảy tự do của lao động có tay nghề. Việc tự do di
chuyần của chuyên gia lao động có tay nghề phần lớn theo các dự án đầu tư, theo luồng
di chuyần vốn sẽ góp phần nâng cao sức cạnh tranh, tiếp thu công nghệ ở những quốc gia
kém phát triần hơn và giúp thu hẹp khoảng cách phát triần giữa các nhóm nước khác
nhau trong cộng đồng. Dòng chảy ngược lại của lao động phổ thông từ các nước dư thừa
lao động tới các nước thiếu hụt lao động cũng góp phần làm tăng tính cộng đồng, giảm
chi phí sản xuất, song không đóng vai trò quan trọng và không được đặt ra là điều kiện
hết sức cần thiết quyết định đến sự ra đời và phát triần của cộng đồng kinh tế; hơn nữa,
lại kéo theo một số ảnh hưởng tiêu cực ví dụ như nhập cư trái phép. Tự do di chuyần lao
động sẽ kéo theo đòi hỏi về sự đồng bộ hóa tiền lương và một số chế độ phúc lợi xã hội
và bảo hiầm xã hội. Tuy nhiên, sự đồng bộ hóa về tiền lương có thể thực hiện sau một
bước vì sẽ mất nhiều thời gian và liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, việc tăng cường xâm nhập, hài hòa đời sống văn hóa, xã hội trong một cộng
đồng thống nhất cũng hết sức cần thiết. Việc tự do đi lại của công dân các nước thành
viên với vai trò khách du lịch hay thương nhân ... cũng là yếu tố quan trọng để cộng đồng
kinh tế nhanh chóng hình thành và hoàn thiện. Các biện pháp được đặt ra như là việc
miễn thị thực trong nội bộ các nước thành viên, các hiệp định hợp tác về lĩnh vực trao đổi
chuyên gia, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan du lịch quốc gia nhằm xúc tiến du lịch
chung trong toàn cộng đồng.
Việc tự do di chuyển lao động có tay nghề, công dân nội khối sẽ một mặt tăng cường
sởc cạnh tranh của cơ sở sản xuất đơn nhất, mặt khác là chất keo dính tăng cường tình
đoàn kết, nâng cao ý chí chính trị và sự tin tưởng lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên.
Điều này đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa bổ trợ sâu sắc cho các điều kiện khác để cộng
đồng kinh tế ra đời, phát triển và hoàn chỉnh.
c. Tự do di chuyển vốn:
Vốn là một yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất. Vốn đặc biệt quan trọng
đối với một "trung tâm sản xuất khu vực" hiệu quả với giá thành thấp. Vốn được di
chuyển giữa các quốc gia thông qua luồng đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong một
cộng đồng kinh tế, việc mở cửa mạnh mẽ các ngành nghề của các quốc gia thành viên
nhằm tạo một khu vực đầu tư để thu hút dòng chảy tự do của vốn trực tiếp và gián tiếp là
một điều kiện hết sức cần thiết. Các quốc gia phải tạo một môi trường đầu tư thông
thoáng, hấp dẫn, nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đầu tư, tiến tới loại bỏ các
quy định và điều kiện về đầu tư có thể ngăn cản các luồng đầu tư và hoạt động của các dự
án đầu tư trong nội bộ cộng đồnơ hoặc từ bên ngoài vào cộng đồng. Việc ký kết các hiệp
định tránh đánh thuế hai lần cũng là một biện pháp được ưu tiên nhằm thu hút luồng đầu
tư. Các quốc gia cũng cần hạn chế và loại bỏ các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, về cân bằng
thương mại, cân bằng ngoại hối và doanh thu trong nước. Chế độ đối xử quốc gia phải
được áp dụng không chỉ cho các nhà đầu tư thành viên trong cộng đồng kinh tế mà có thể
được mở rộng ra cho các thành viên bên ngoài.
d. Các điều kiện khác:
Sự đồng nhất các chính sách kinh tế và trình độ phát triển kinh tế tương đối đồng đều
giữa các nước thành viên được nhắc đến khá nhiều khi bàn về cộng đồng kinh tế. Đó là
những; điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển của cộng đồng kinh tế hay của bất
cứ một hình thức nào trong quá trình khu vực hóa. Những cơ chế sẵn có giống nhau đã và
đang được thịnh hành ở mỗi quốc gia được chuyển thành cơ chế chung của Cộng đồng
kinh tế m à không phải mất thời gian hay khó khăn trong đàm phán và điều chỉnh. Bên
cạnh đó, những quyết định hay ý chí chính trị đồng thuận giữa các nưỉc thành viên cũng
là yếu tố thúc đẩy cộng động kinh tế.
Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế sẽ là một cản trở không nhỏ dẫn đến
những lợi ích khác nhau cho mỗi nưỉc thành viên khi cùng tham gia vào thị trường chung,
tạo ra sự do dự, thờ ơ của những thành viên bị thiệt thòi hơn ... Đồng thời sự khác nhau
về trình độ phát triển sẽ gây nhiều khó khăn thách thức trong việc thực thi các chính sách
chung, các hiệp định nội bộ cộng đồng, cản trở dòng chảy tự do của các yếu tố như hàng
hóa, dịch vụ, vốn và lao động có tay nghề. Vì vậy, sự phát triển đồng đều của các nước
thành viên cũng hết sức cần thiết để thành lập cộng đồng kinh tế. Sự đồng nhất về văn
hóa, ý chí chính trị, dân chủ, niềm tin cũng là điều kiện không thể thiếu đối với sự hình
thành và phát triển của cộng đồng kinh tế.
Để khởi đầu cho quá trình khu vực hóa, các nưỉc phải có một mức độ đồng nhất nhất
định về văn hóa. Đây là cái vốn ban đầu cua liên kết khu vực theo hướng khu vực hóa. Ví
dụ các nước Tây  u có nhiều điểm tương đồng về văn hóa như tôn giáo, phong tục, tập
quán, ngôn ngữ ...và điều này giúp họ liên kết lại vỉi nhau trong việc giải quyết các vấn
đề về an ninh và kinh tế. Tuy vậy, ở một số khu vực như Nam Á, cũng có sự tương đồng
hay giống nhau tương đối về cơ sở văn hóa nhưng không làm xóa đi sự thù địch, kiềm
chế lẫn nhau. Nguyên nhân cốt lõi là các quốc gia đó thiếu ý chí chính trị chung.
Do vậy, sự tương đồng về văn hóa chỉ là cái vốn ban đầu, chưa phải là yếu tố quyết
định cho liên kết khu vực theo hưỉng khu vực hóa. Như vậy, ngoài yếu tố văn hóa, để liên
kết khu vực đạt đến trình độ thị trường chung, cần có sự trùng hợp về quyền lợi kinh tế,
chính trị - an ninh. Sự tranh chấp về lãnh thổ, sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư
tưởng giữa các nưỉc thành viên có thể tạo ra phân cực chính trị trong cộng đồng hay duy
trì tính thỏa hiệp và tình trạng lỏng lẻo trong liên kết. Sự tồn tại nhiều cấp độ của nền
dân chủ và sự quá đa dạng về tôn giáo, sắc tộc ở các quốc gia cũng gây ít nhiều trở ngại
cho sự hình thành cộng đồng kinh tế. Ngoài ra, sự thiếu tin tưởng lẫn nhau sẽ là trướng
ngại vật để các nước thành viên thực hiện tốt các cam kết cho dù đã thỏa thuận về những
lợi ích mà những cam kết đó mang lại.
III.
Các phương thức để thực hiện hóa các nội dung AEC
Hiện nay, trong khối ASEAN, Việt Nam được đánh giá là một trong bốn thành viên
có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC. Việt
Nam đã tham gia hợp tác một cách toàn diện với các nước ASEAN từ các lĩnh vực
truyền thống như: thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận
tải, viễn thông, cho đến các lĩnh vực mới như: bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh
tranh, bảo vệ người tiêu dùng… Cho tới nay, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn
10 nghìn dòng thuế xuống mức 0 - 5% theo ATIGA, chiếm khoảng 98% số dòng thuế
trong biểu thuế. Về thương mại hàng hoá, ASEAN đã sửa đổi, bổ bổ sung các hiệp định
kinh tế ASEAN, trong đó Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) được ký
kết ngày 26/02/2009 tại Thái Lan. Nghị định thư về sửa đổi một số Hiệp định kinh tế
ASEAN liên quan đến thương mại hàng hóa đã được ký ngày 08/3/2013 trong dịp Hội
nghị AEM Retreat lần thứ 19 tại Hà Nội. Các nước cũng đang trong quá trình thảo luận
về các vấn đề hàng rào phi thuế quan trong ASEAN và 7 nước thành viên (gồm Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) đã thử nghiệm
thành công kết nối cổng ASW trong cơ chế hải quan một cửa ASEAN. Về thương mại
dịch vụ, ASEAN đã có những thỏa thuận giúp các bên sớm hoàn tất các thủ tục cần thiết
để Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân có hiệu lực, trên cơ sở đó tạo thuận lợi cho
việc di chuyển của các cá nhân tham gia vào các hoạt động thương mại hàng hóa,
thương mại dịch vụ và đầu tư trong khu vực. Bên cạnh đó, việc thực thi Kế hoạch Chiến
lược Du lịch ASEAN 2011 - 2015 cũng đang được tích cực triển khai nhằm tạo thuận lợi
cho di chuyển của những người làm du lịch thông qua các thỏa thuận công nhận lẫn
nhau. Về đầu tư, ASEAN đang trong giai đoạn thực thi Hiệp định ACIA, trong đó quá
trình rà soát lẫn nhau đã được triển khai nhằm giám sát việc xóa bỏ các hạn chế/trở ngại
hoặc cải thiện các biện pháp theo Kế hoạch tổng thể về xây dựng AEC nhằm thúc đẩy
ASEAN thành một khu vực thu hút đầu tư thống nhất. Về quyền sở hữu trí tuệ, việc thực
thi kế hoạch làm việc với 28 sáng kiến và 5 mục tiêu chiến lược trong Kế hoạch hành
động IPR ASEAN 2012 - 2015 đã giúp nâng cao tính pháp lý và chính sách trong việc
giải quyết các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ
CHƯƠNG 2: VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP AEC
I.
Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế ASEAN
Trong hơn 13 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần quan trọng vào việc triển khai thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà
nước; củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Đóng góp quan trọng đầu tiên của chúng ta sau khi tham gia ASEAN là đã góp phần
tích cực trong việc thúc đẩy kết nạp các nước Lào, Mianma và Campuchia, để hình thành
một khối ASEAN thống nhất, quy tụ tất cả 10 quốc gia ở Đông Nam Á.
Trong lĩnh vực chính trị, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng bạn bè ASEAN trên các
diễn đàn quan trọng như AMM, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) chuyên thảo luận
các vấn đề về an ninh, Diễn đàn sau Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (PMC) để đối thoại
với các nước công nghiệp phát triển; đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các
phương hướng hợp tác và phát triển của khu vực, và trong các quyết sách lớn của
ASEAN như: Tầm nhìn 2020, Chương trình Hành động Hà Nội (HPA), Sáng kiến
Liên kết ASEAN (IAI); tích cực góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác
để nó trở thành xu thế chủ đạo ở Ðông- Nam Á, củng cố các cơ sở pháp lý để duy trì môi
trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển chung của ASEAN. Việt Nam đã tham gia tích
cực vào những cố gắng của ASEAN, nhằm biến Hiệp ước thân thiện và hợp tác (TAC)
Bali thành bộ quy tắc ứng xử không chỉ trong quan hệ giữa các nước khu vực mà giữa
các nước này với các nước ngoài khu vực; ký Hiệp ước xây dựng Ðông-Nam Á thành
khu vực không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Tuyên bố về Quy tắc Ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC) để tiến tới Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên ở Biển Đông
(COC). Ðối với ARF là Diễn đàn duy nhất để các nước khu vực và các nước lớn cùng
nhau đối thoại về các vấn đề chính trị-an ninh, bảo đảm hòa bình, ổn định ở châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để duy trì vai trò đầu tàu của ASEAN tại
Diễn đàn phù hợp lợi ích của các nước thành viên. Việt Nam cũng tích cực duy trì những
nguyên tắc cơ bản đã trở thành bản sắc riêng của ASEAN nhất là nguyên tắc "đồng
thuận", "không can thiệp công việc nội bộ của nhau", góp phần giữ vững sự đoàn kết,
thống nhất, năng động trong đa dạng của ASEAN.
Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại của ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích
cực cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các nước và bên đối thoại quan
trọng, tham gia tổ chức nhiều hoạt động tăng cường quan hệ với các nước đối thoại, đảm
nhiệm tốt vai trò là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc
như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Ô-xtrây-li-a. Việt Nam cũng tham gia tích cực
tiến trình hợp tác ASEAN+3 (với ba nước Ðông - Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và
Hàn Quốc) và các nỗ lực tiến tới việc hình thành một khuôn khổ hợp tác mới trên quy mô
toàn khu vực Ðông Á 7 Chúng ta đã chủ trì thành công Hội nghị PMC+1 với Canada
trên cương vị nước Ðiều phối quan hệ đối thoại ASEAN-Canada và có những đóng góp
tích cực trong quá trình xây dựng và thông qua Kế hoạch Hành động ASEAN - Canada
giai đoạn 2007-2010, được Canada và các nước ASEAN đánh giá cao. Đáng lưu ý Việt
Nam đã đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (tháng 12/1998)
và Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 33 (12-16/9/2001) tại Hà Nội. Từ
tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban Thường trực
ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (AMM-34).
Các Bộ/ngành của Việt Nam cũng đăng cai nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng và cấp Quan
chức cao cấp (SOM) về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng đã đăng cai và
tổ chức thành công Hội nghị Liên minh Nghị viện ASEAN (AIPO) tháng 9/2002.
Không những thế, Việt Nam còn là quốc gia luôn có sáng kiến hay đưa ra trong các cuộc
họp. Ví dụ, tại Hội nghị APEC-11 “Thế giới của sự khác biệt: Đối tác vì tương lai” tổ
chức tại Bangkok, Thái Lan (20-21/10/2003), Việt Nam đã đưa ra hai sáng kiến: thứ nhất,
cần tăng cường hợp tác đầu tư cho cân bằng với hợp tác thương mại nhằm thúc đẩy đầu
tư nội khối APEC, trong đó dành ưu tiên đầu tư vào ASEAN; thứ hai, đưa ra một số biện
pháp cụ thể triển khai kế hoạch hành động hỗ trợ các doanh nghiệp vừa, nhỏ và “siêu
nhỏ”, trong đó có việc đề xuất thành lập Quỹ xây dựng năng lực hỗ trợ các doanh nghiệp
“siêu nhỏ” Cùng với ASEAN, Việt Nam còn tham gia tích cực vào các khuôn khổ hợp
tác liên khu vực khác như Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) và Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Nước ta đã tổ chức rất thắng lợi Hội nghị
Cấp cao Á - Âu 5 (ASEM-5) năm 2004 và Hội nghị các nhà lãnh đạo các nền kinh tế
APEC năm 2006.
Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc xây dựng Hiến
chương ASEAN ngay từ những ngày đầu. Trong quá trình soạn thảo Hiến chương, Việt
Nam đã góp phần bảo vệ những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội. Những
đóng góp của Việt Nam đã góp phần định hướng quan trọng trong quá trình soạn thảo nội
dung Hiến chương, tạo điều kiện để Hiến chương đáp ứng tốt hơn những yêu cầu đặt ra
cho ASEAN trong giai đoạn phát triển mới, được bạn bè hoan nghênh và đánh giá cao.
Nước ta là một trong những nước ASEAN hoàn tất sớm nhất thủ tục phê chuẩn Hiến
chương và là nước thứ hai cử Đại sứ, Đại diện Thường trực tại ASEAN chính thức trình
Thư Ủy nhiệm, điều này một lần nữa khẳng định chính sách Việt Nam luôn coi trọng vị
trí của 8 ASEAN trong khu vực, đồng thời cũng thể hiện mong muốn và cam kết của
chúng ta tham gia và đóng góp một cách tích cực, chủ động, có trách nhiệm trong hợp tác
ASEAN và thực thi các thỏa thuận chung của Hiệp hội. Hơn nữa, trong bối cảnh ASEAN
đang chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, việc lập Phái đoàn
Đại diện thường trực của ta tại ASEAN còn cho thấy mong muốn của Việt Nam nhanh
chóng đưa Hiến chương vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, góp phần củng cố, tăng
cường đoàn kết và liên kết ASEAN vì các mục tiêu của Hiệp hội. Việt Nam chính là nước
đã đề xuất xây dựng trụ cột thứ ba là Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN. Chúng ta cũng
tích cực cùng các nước xây dựng, triển khai Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) nhằm thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên mới (CLMV) và các nước thành
viên cũ của ASEAN. Đến nay, Kế hoạch hành động IAI giai đoạn I (2002-2008) đã được
hoàn tất. Với vai trò là Chủ tịch đương nhiệm Nhóm Đặc trách IAI, ta tích cực cùng các
nước tiếp tục soạn thảo Kế hoạch hành động giai đoạn II (2009-2015) với các trọng tâm
như: phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quốc gia, liên kết kinh tế, và cơ sở hạ
tầng bao gồm cả phần cứng và phần mềm, và sẽ trình lên Cấp cao ASEAN lần thứ 14.
Trong lĩnh vực kinh tế: Vượt qua nhiều khó khăn, thách thức do sự chênh lệnh về
trình độ phát triển, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các chương trình hợp tác, liên kết
kinh tế như Hiệp định đầu tư ASEAN (AIA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA)... đồng thời đưa ra sáng kiến phát triển kinh tế các vùng nghèo liên quốc gia dọc
hành lang Đông-Tây (WEC) tạo ra bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế
Việt Nam với khu vực và thế giới. Kim ngạch thương mại xuất nhập khẩu Việt NamASEAN tăng trung bình 15,8% hàng năm. Đến tháng 3/2005; Việt Nam đã cắt giảm
10.277 dòng thuế, tương đương với 96,15% tổng số dòng thuế phải cắt giảm trong khuôn
khổ CEPT/AFTA. Trong hợp tác đầu tư, tính đến cuối tháng 6/2005, ASEAN đã đầu tư
hơn 600 dự án với số vốn đăng ký là 11,385 tỷ USD, chiếm 23,38% tổng số FDI vào Việt
Nam. Tăng cường hợp tác kinh tế Việt Nam- ASEAN đã góp phần làm lành mạnh hóa
môi trường kinh doanh trong nước. Đáng chú ý nhất là Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO tháng 11/2007 và được bầu
làm ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Đặc biệt quan trọng là, chúng ta đã và đang quyết tâm tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi
mới, cải cách kinh tế trong nước với hàng loạt chủ trương, biện pháp nhằm tăng tốc độ
phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập của cả nền kinh tế quốc dân, của các
lĩnh vực/ngành kinh tế, của các địa phương và doanh nghiệp. Thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới, cải cách kinh tế sẽ góp phần rất quan trọng tạo thuận lợi để chúng ta tham
gia tích cực và hiệu quả nhất vào tiến trình xây dựng AEC, đồng thời tận dụng tốt nhất
những cơ hội tăng trưởng và phát triển mà AEC mang lại cho mỗi nước thành viên
ASEAN.
Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội: Trong hơn 13 năm qua, tích cực hội nhập với khu vực
Đông Nam Á và thế giới, Việt Nam luôn gìn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời
tiếp thu những tinh hoa văn hóa của khu vực và thế giới, giao lưu học hỏi, tăng cường
hiểu biết lẫn nhau giữa các nước bạn bè trong ASEAN.
Ngày nay ASEAN đã trở nên khá quen thuộc với giới thanh niên, sinh viên ở các thành
phố lớn trong cả nước. Việc trao đổi văn hóa giáo dục giữa Việt Nam với các nước
ASEAN đã không ngừng được mở rộng. Nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam đến thăm, biểu
diễn ở các nước bạn, giới thiệu nền văn hóa dân tộc đặc sắc của Việt Nam; đồng thời
nhiều đoàn nghệ thuật các nước ASEAN đã đến biểu diễn, giao lưu tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực giáo dục: Ngay từ đầu những năm 1990, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt
Nam đã coi việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á là
một ưu tiên. Thực hiện chủ trương đó, tháng 2/1990, Bộ Giáo dục Đào tạo chính thức gia
nhập tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO). Sau khi Việt
Nam trở thành thành viên chính của ASEAN, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam trở thành
thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN (ASCOE), đã tích cực phối hợp với các
nước trong khu vực với nhiều hoạt động thiết thực, có hiệu quả và được các bạn đánh giá
cao.
Cùng với việc tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành của
ASEAN như khoa học, công nghệ và môi trường; văn hóa thông tin; phát triển xã hội;
phòng, chống ma túy, v.v... Việt Nam còn mạnh dạn nêu các sáng kiến, đăng cai tổ chức
các hội nghị về hợp tác chuyên ngành, được các nước ASEAN đánh giá cao như việc ta
tổ chức thành công Tuần lễ khoa học và công nghệ ASEAN (1998); Tuần văn hóa
ASEAN lần II theo sáng kiến của Thủ tướng ta tại Hạ Long (2004); Hội thi tay nghề
ASEAN (2004); nhiều hội nghị cấp bộ trưởng quan trọng khác...
Trong lĩnh vực môi trường: Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể về mặt tài chính
cũng như nhân lực để đảm bảo sự hợp tác bình đẳng và hiệu quả với các nước thành viên
khác và đã đề xuất một số dự án hợp tác. Đặc biệt, sáng kiến "Đối thoại về chính sách
thúc đẩy thực hiện Hiệp ước ASEAN về phòng chống cháy rừng" của Việt Nam được các
nước ASEAN hoan nghênh.
Về du lịch, thời gian qua, ASEAN là một trong những khuôn khổ hợp tác du lịch đa
phương mà Việt Nam tham gia sâu rộng và có hiệu quả nhất. Những năm gần đây, lượng
khách từ ASEAN vào Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao. ASEAN luôn là một
trong 3 thị trường gửi khách lớn nhất của Việt Nam. Từ 1999-2004, lượng khách ASEAN
vào Việt Nam đã tăng gần 200%. ASEAN cũng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lớn
vào du lịch Việt Nam, chiếm trên 31% trong tổng số gần 6 tỷ đô la Mỹ đầu tư trực tiếp
vào du lịch. Các nước trong khu vực có nhiều khách đến Việt Nam du lịch là Campuchia,
Malaixia, Thái Lan, Xinhgapo, Philippin.
Những đóng góp trên là sự tiếp nối của quá trình tham gia tích cực và đóng góp to lớn
của Việt Nam kể từ khi gia nhập ASEAN tháng 7/1995. Trong hơn 13 năm qua, với dân
số hơn 86 triệu người và vị trí địa-chiến lược và địa-kinh tế quan trọng, chính trị - xã hội
ổn định, thế và lực ngày càng gia tăng và chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam được
các nước ASEAN và các đối tác bên ngoài nhìn nhận là thành viên đóng vai trò tích cực
đối với hòa bình, hợp tác và phát triển trong ASEAN. Những kết quả này đã phản ánh
Việt Nam là một đất nước phát triển năng động và là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả
các nước, các dân tộc vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Nguyên nhân Việt Nam có được vị thế như vậy trong cộng đồng ASEAN:
Thứ nhất, đó là Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả cao đường lối đối ngoại rộng mở
và đúng đắn phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và
khu vực hoá hiện nay.
Thứ hai, các đối tác của Việt Nam trong đó có các nước ASEAN đều đã nhìn thấy hiện
thực và tiềm năng phát triển của Việt Nam ở tất cả mọi lĩnh vực mà họ có thể hợp tác
cùng phát triển, trong đó trước hết là các lợi ích về phát triển kinh tế và nâng cao vị thế
chính trị ở khu vực và trên thế giới, vì như đã biết Việt Nam là quốc gia có ưu thế về an
ninh chính trị đối ngoại ở Đông Nam Á và hơn thế nữa Việt Nam đang là “miền đất hứa”
có nhiều tiềm năng về các nguồn lực tài nguyên, lao động và lại đang rất ổn định về chính
trị-xã hội... Thực tế cho thấy, đến nay Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các tổ chức
tiền tệ và tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB... Việt Nam cũng đã quan hệ ngoại giao
và hợp tác kinh tế với hơn 150 nước và lãnh thổ trên thế giới, đã ký kết Hiệp định thương
mại Việt Nam-Hoa Kỳ, Hiệp định đầu tư song phương với 40 nước và Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần với 40 nước khác. Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của WTO. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam, chúng ta đã chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, liên tục
đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7% năm, năm 2004 đã đạt 7,6% đến năm 2008
đạt 11%.
Vị thế của Việt Nam trong ASEAN qua cái nhìn của bạn bè quốc tế:
Ông Nicolas Dammen, Phó Tổng thư ký ASEAN đã khẳng định vai trò quan trọng của
Việt Nam trong ASEAN. Ông Nicolas nói: “Việt Nam đã có những đóng góp tích cực
cho ASEAN kể từ khi tham gia vào Hiệp hội 12 năm trước đây, trở thành nước lớn thứ
hai trong ASEAN và biến ASEAN thành một khối thống nhất. Thêm vào đó, Việt Nam
còn là một cầu nối hữu hiệu cho ASEAN thâm nhập vào Trung Quốc - nền kinh tế có tốc
độ phát triển nhanh nhất thế giới”. Ông Nicolos nhấn mạnh: “Việt Nam ngày nay là một
thành viên không thể tách rời của ASEAN với những đóng góp có hiệu quả và thiết thực
vào các sang kiến và chương trình của ASEAN. Đặc biệt, Việt Nam đi đầu trong trong
lĩnh vực cải cách chính sách và kinh tế trong số các nước thành viên mới của Hiệp hội ở
khu vực Đông Dương. Thêm nữa, Việt Nam còn có vai trò quan trọng trong việc hoạch
định định hướng tương lai của ASEAN không kém gì các nước sang lập tổ chức này ban
đầu”.
Tổng thư ký Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Ong Keng Yong đã đánh
giá cao những đóng góp tích cực của Việt Nam vào nguyên tắc bình đẳng và công bằng
của ASEAN sau khi Việt Nam gia nhập hiệp hội này vào tháng 7/1995.Ông Ong nói:
"Trước hết, nhìn vào bản đồ của hiệp hội, Việt Nam đã thực sự gắn kết vùng phía bắc với
phía nam của khu vực Đông Nam Á. Do đó, quốc gia này có một vai trò rất quan trọng.
Xét về mặt địa lý và nhân khẩu học, đóng góp chính của Việt Nam khi trở thành một
thành viên của ASEAN là đã kết hợp mọi bộ phận của Đông Nam Á thành một khối
thống nhất."Quan trọng hơn, Việt Nam có một đặc tính riêng, đó là sự tôn trọng và tính
nguyên tắc. Tại các cuộc họp của ASEAN, các quan chức Việt Nam thường lắng nghe ý
kiến của mọi người, sau đó họ giơ tay nói "nguyên tắc của chúng tôi là muốn là bạn với
tất cả, mong muốn sự công bằng cho mọi người. Chúng ta thực hiện điều này với các
nước khác như thế nào?". Việt Nam luôn luôn theo đuổi nguyên tắc bình đẳng và công
bằng. Trong bất cứ cuộc thảo luận nào có Việt Nam tham gia, Việt Nam đều đưa ra
nguyên nhân và các giải pháp hữu hiệu. Nói tóm lại, Việt Nam đã có những đóng góp
mang tính nguyên tắc đối với những hoạch định của ASEAN."Là nước láng giềng của
Trung Quốc, Việt Nam sẽ thường xuyên đem những kinh nghiệm lịch sử của mình để
giúp ASEAN thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Những gì Việt Nam làm là nhằm duy trì
nguyên tắc của chúng ta, nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng hòa bình và ổn định.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam luôn đưa ra những đề xuất tích cực và mang
tính xây dựng. Đây không phải là vấn đề cảm tính mà là vấn đề tư duy. Theo ông Ong, sự
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng sẽ đưa Việt Nam trở thành một trong những đầu tàu
quan trọng thúc đẩy sự hội nhập kinh tế của ASEAN trong 5 đến 10 năm tới.
"Việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN đã giúp xây dựng một khu vực gắn
kết hơn" - Đại sứ Laura Q. Del Rosario nói với phóng viên TTXVN ngày 2/8 trong một
cuộc phỏng vấn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (8/8/1967-8/8/2007). Theo bà Laura Q. Del Rosario, kể từ khi gia nhập ASEAN
năm 1995, Việt Nam luôn tích cực trong việc xây dựng đoàn kết và tăng cường thống
nhất trong khu vực. Việt Nam đã đóng góp cho việc thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành
viên của hiệp hội trong việc thực hiện Sáng kiến liên kết ASEAN, phát triển khu vực
Tiểu vùng Mê Công mở rộng và Hành lang kinh tế Đông Tây. "Sự phát triển nhanh
chóng của Việt Nam trong 12 năm qua, cả về vị thế trên thế giới và sức mạnh, là một
đóng góp đáng kể cho ASEAN, một cộng đồng với 505 triệu dân. Việt Nam sẽ tiếp tục
đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định trọng đại cũng như trong việc thúc đẩy
hợp tác khu vực trên nhiều lĩnh vực".
Trong bài phỏng vấn ngày 7/8/2007 dành cho VietNamNet của ông Carl Thayer, một
chuyên gia hàng đầu về châu Á, ông đã ví vai trò Việt Nam trong ASEAN từ một cầu thủ
dự bị thành một tiền đạo. Chính xác hơn, có lẽ nên nói: trước khi trở thành một cầu thủ
trong ASEAN, Việt Nam đã được coi là một đối phương chính. 13 Qủa thực một Việt
Nam hội nhập mạnh mẽ vào ASEAN, một Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng tạo
nên sự trỗi dậy của một ASEAN mới trong bối cảnh thế giới phức tạp đầy biến động đã
được bạn bè thế giới thừa nhận và đánh giá cao. Đây có lẽ là cái nhìn khách quan nhất để
ta thấy rõ được vị thế của mình trong cộng đồng ASEAN.
II.
Tiến trình thực hiện AEC của Việt Nam :
a. Cam kết về hàng hóa:
Trong số các FTA mà Việt Nam đã ký kết, các cam kết về cắt giảm thuế quan trong
AEC là cao nhất và nhanh nhất. Cho đến nay, Việt Nam đã gần hoàn thành lộ trình
cắt giảm thuế quan trong AEC. Hội nhập ASEAN, Việt Nam đã hài hòa hóa hệ thống
tiêu chuẩn, quy trình thủ tục với các nước trong khu vực, ASEAN là nơi Việt Nam
hội nhập đầu tiên, là thị trường xuất nhập khẩu và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đầu tiên của Việt Nam. Về xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN, tốc độ tăng
trưởng bình quân thời gian qua đạt 17,1%, đưa kim ngạch xuất khẩu từ gần 1 tỷ USD
năm 1995 lên 18,3 tỷ USD năm 2015 (tăng hơn 18 lần). Hiện ASEAN là thị trường
xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam (sau Hoa Kỳ và EU). Trước năm 2010, doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang ASEAN 2 nhóm mặt hàng chính là dầu thô
và gạo (chiếm trên 50% tổng kim ngạch). Hiện nay, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang
ASEAN đã đa dạng hơn nhiều, ngoài dầu thô và gạo, các doanh nghiệp Việt Nam đã
xuất khẩu sang ASEAN nhiều mặt hàng khác như điện thoại các loại và linh kiện;
máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện; sắt thép các loại; máy móc thiết bị dụng cụ
và phụ tùng; dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, cao su, v.v…
b. Về thương mại hàng hoá:
Theo Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), ta đã đưa thuế suất về
0% đối với khoảng 90% số dòng thuế và sẽ phải xóa bỏ khoảng 97% số dòng thuế và
xóa bỏ hạn ngạch thuế quan trước năm 2018. Ở chiều ngược lại, khoảng 99% hàng
xuất khẩu của ta sang các nước ASEAN-6 đã được miễn thuế nhập khẩu từ năm 2010.
Ngoài ra, ASEAN đang đẩy mạnh việc thực hiện các cơ chế giải quyết hàng rào phi
thuế quan như tham vấn, đối thoại. Các hoạt động thuận lợi hóa thương mại cũng
được thúc đẩy với nhiều sáng kiến quan trọng như Cơ chế hải quan một cửa ASEAN,
Tự chứng nhận xuất xứ, Cơ sở dữ liệu thương mại ASEAN... đang được vận hành
từng bước. Hiện nay Việt Nam cùng 6 nước ASEAN gồm Bru-nây, In-đô-nê-xia, Malay-xia, Phi-lip-pin, Xinh-ga-po, Thái Lan đã triển khai toàn bộ hoặc một phần xây
dựng cơ chế một cửa quốc gia của mình và đang là một trong số các nước ASEAN đi
đầu trong việc kết nối với cơ chế một cửa ASEAN. Việt Nam cũng đã tham gia và
đang triển khai dự án thí điểm về tự chứng nhận xuất xứ trong ASEAN. Nhờ đó,
thương mại hàng hóa trong ASEAN trở nên thuận lợi hơn, từng bước hướng tới hiện
thực hóa mục tiêu thành lập cơ sở sản xuất chung và thị trường chung ASEAN trong
khuôn khổ AEC.
c. Cam kết về dịch vụ:
Các cam kết về dịch vụ trong AEC đều tương tự mức cam kết trong WTO, trong
một số gói cam kết dịch vụ gần đây của AEC, mức độ cam kết đã bắt đầu cao hơn so
với WTO nhưng không nhiều và cũng phù hợp với mức độ mở cửa thực tế về dịch vụ
của Việt Nam.
Về thương mại dịch vụ, trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ
(AFAS), ta đã cùng các nước ASEAN đưa ra cam kết theo 9 Gói cam kết về thương
mại dịch vụ chung, 6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính, 9 Gói cam kết về dịch vụ vận
tải hàng không, phù hợp với chiến lược phát triển các ngành dịch vụ của ta và pháp
luật hiện hành. ASEAN cũng đang nỗ lực hoàn thành các Gói cam kết tiếp theo và
đàm phán nâng cấp Hiệp định AFAS thành Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN
trong tương lai. Cam kết của Việt Nam cũng như các nước ASEAN về dịch vụ để
thực hiện AEC là cao hơn cam kết gia nhập WTO của ta (WTO+) nên sẽ tác động gia
tăng luồng thương mại dịch vụ nội khối, đặc biệt là trong các lĩnh vực ưu tiên hội
nhập như vận tải hàng không, công nghệ thông tin, y tế, du lịch và logistics.
d. Về tự do hóa đầu tư:
Các cam kết về đầu tư trong AEC toàn diện hơn trong WTO và các FTA đã ký của
Việt Nam nhưng cũng phù hợp với các quy định về đầu tư trong pháp luật Việt Nam
(việc thực thi các cam kết về đầu tư trong AEC không buộc Việt Nam phải sửa đổi
pháp luật trong nước)
Về đầu tư, ta và ASEAN đã ký kết Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) năm
2009 và đang tiếp tục rà soát, loại bỏ các hạn chế về đầu tư. Nỗ lực này sẽ giúp gia tăng
đầu tư nội khối, tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và việc làm của các nước
ASEAN, trong đó có Việt Nam, đồng thời tác động gián tiếp đến sức thu hút đầu tư nước
ngoài từ ngoài khối vào ASEAN, tác động gián tiếp đến việc gia tăng luồng thương mại
giữa các nước ASEAN và nhu cầu cải thiện môi trường đầu tư của mỗi nước. Việc Quốc
hội thông qua Luật đầu tư sửa đổi và Luật doanh nghiệp sửa đổi 2014 là một bước đi
quan trọng của Việt Nam trong việc chuẩn bị tăng cường cho hội nhập trong lĩnh vực đầu
tư và đón xu hướng tăng cường đầu tư trong khuôn khổ AEC. Trong lĩnh vực xúc tiến và
tự do hóa đầu tư, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN đạt được những kết quả nhất định
như xuất bản sách hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp, báo cáo đầu tư ASEAN hàng
năm; tổ chức các hội thảo, diễn đàn về xúc tiến đầu tư; xây dựng trang thông tin ASEAN
về đầu tư, v.v...
Nhìn chung, việc thực hiện các cam kết xây dựng AEC đã mang lại nhiều lợi ích cho
chính phủ, các doanh nghiệp và người tiêu dùng ASEAN. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hội
nhập kinh tế khu vực sẽ không kết thúc vào năm 2015. Nhằm hướng tới mục tiêu hội
nhập sâu rộng hơn, các Nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua Kế hoạch Tổng thể xây
dựng AEC đến năm 2025 với 5 đặc trưng: (i) Một nền kinh tế hội nhập cao và gắn kết;
(ii) Một ASEAN cạnh tranh, đổi mới và năng động; (iii) Nâng cao kết nối và hợp tác
chuyên ngành; (iv) Một ASEAN có sức bật, phát triển toàn diện, hướng tới con người và
lấy con người làm trung tâm; (v) Một ASEAN toàn cầu.
e. Cam kết về lao động:
Cho đến nay việc tự do hóa lao động trong AEC mới chỉ dừng lại ở các Thỏa thuận
thừa nhận lẫn nhau (MRA) về trình độ của lao động có kỹ năng (thông qua xây dựng
hệ thống đăng ký hành nghề chung) trong 8 ngành nghề, nhưng cho tới thời điểm hiện
tại chỉ có 2 MRA đã được thực thi đầy đủ. Tham gia Cộng đồng Kinh tế AEC sẽ tăng
số lượng việc làm của Việt Nam trong thời gian tới đây, mà chủ yếu lợi thế cạnh tranh
ở lao động giá rẻ như ngành dệt may, da giày và nguồn nhân lực cao từ các ngành
nghề như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông…
Trước mắt, trong năm 2015, có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được
tư do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm kế toán,
kiến trúc sư, nha sỹ, bác sỹ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên du lịch. Ngoài ra, nhân
lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó có nhân lực được đào tạo
chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biết là tiếng
Anh, được di chuyển tự do hơn. Nhờ sự thỏa thuận này, người lao động Việt Nam sẽ có
cơ hội học tập và làm việc trong các môi trường chuyên nghiệp phát triển của các nước
trong AEC, đồng thời cũng làm thúc đẩy nguồn nhân lực, đặc biệt với giới trẻ, tạo dựng
tinh thần tự học tập, nâng cao trình độ tay nghề, và quan trọng là rèn luyện tiếng Anh.
Với các nhà tuyển dụng lao động trong nước, cơ hội tuyển dụng chất lượng cao cũng
gia tăng khi thị trường lao động được mở ra trong khối ASEAN, người lao động không
còn bị hạn chế di chuyển bởi rào cản biên giới quốc gia.
III.
Cơ hội và thách thức của Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam
1. Cơ hội
Cơ hội có được một thị trường rộng lớn hơn
ASEAN có tổng GDP trên 2,7 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%-6% hàng
năm. Dân số trên 600 triệu người, với cơ cấu dân số tương đối trẻ. Thu nhập bình quân
đầu người trên 4.500 USD/người/năm. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2012 đạt 110 tỷ
USD. Tổng giá trị giao dịch thương mại 2,5 nghìn tỷ USD (*). AEC với việc tự do hóa
dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động
kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Đầu tư nước ngoài trực tiếp gia tăng và hoạt
động kinh tế ở khu vực đương nhiên sẽ mang lại việc gia tăng nhu cầu bảo hiểm ở Đông
Nam Á. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
nhiều hơn ở các nước khác trong khu vực ASEAN… Đây là cơ hội tốt để các doanh
nghiệp Việt Nam nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường. Mặt khác, AEC tạo lập một khu
vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến kinh tế của nhiều nước trở nên phồn vinh
hơn, dẫn đến tăng thu nhập và hình thành nên một lượng mới người tiêu dùng trung lưu
với thu nhập cao - cũng là đối tượng khách hàng rất tiềm năng của các doanh nghiệp.
Cơ hội mở rộng xuất khẩu
Khi tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam sẽ ngày
càng mở rộng. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài hơn, đặc biệt là từ các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore,
Indonesia... “Điều quan trọng nhất là việc tham gia sâu rộng vào AEC sẽ giúp Việt Nam
tăng cường cải cách nền kinh tế ở trong nước theo những tiêu chuẩn của hội nhập, giúp
cho nền kinh tế Việt Nam phát triển hiệu quả hơn, qua đó dần vượt qua những thách
thức.”, Theo Ông Nguyễn Hồng Sơn - Hiệu trường Trường Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
AEC giúp tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng
đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và
xuất khẩu trong nhiều năm qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ.
Với lợi thế là khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều
Việt Nam và ASEAN năm 2013 đã tăng hơn 5 lần, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của cả nước. Giai đoạn 2002 - 2013, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trung
bình của Việt Nam sang ASEAN đạt 28,4%/năm và nhập khẩu đạt 27%/năm.Từ năm
2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia, Indonexia, Philippines, Thái
Lan, Singapore đều đạt trên 1 tỷ USD.
Cơ hội mở ra cho thấy khi AEC đi vào hoạt động sẽ tạo ra một thị trường đơn nhất,
khai thác được tối đa các hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại, thuế suất lưu
thông hàng hoá giữa các nước trong khu vực sẽ được cắt giảm dần về 0%. Đặc biệt trong
giai đoạn từ nay đến năm 2015 và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng xuất khẩu
sẽ là thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các
biện pháp về phòng vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng. Vì vậy, giai đoạn 20142015 sẽ là “nước rút” để tiến đến mục tiêu xây dựng AEC với kỳ vọng ra đời vào cuối
năm 2015. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ
không thể chỉ bó hẹp tầm nhìn trong tỉnh, thành phố hay trong phạm vi quốc gia mà cần
phải mở rộng hơn tới toàn cầu. Thời gian qua, ASEAN liên tục thuộc nhóm các thị
trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Dẫn số liệu thống kê từ Cục Xuất Nhập khẩu
cho thấy cán cân thương mại của Việt Nam với khối ASEAN đã có sự thay đổi rõ rệt.
Nếu như năm 2011, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam sang khối các nước
ASEAN tương ứng là 13,5 tỷ USD và 20,9 tỷ USD thì con số này của năm 2013 là 18,4
tỷ USD và 21,3 tỷ USD. Điều này thể hiện khoảng cách giữa xuất và nhập của Việt Nam
đã được rút ngắn và con số xuất khẩu cũng tăng vọt. Riêng 6 tháng đầu năm 2014, kim
ngạch thương mại hai chiều ước đạt 20,45 tỷ USD, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2013
và chỉ đứng sau 2 thị trường lớn là Mỹ và EU
Khi AEC hình thành, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán hàng sang các nước
ASEAN gần như bán hàng trong nước. Đây là một trong những thuận lợi đối với việc
lưu chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp. Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ
rườm rà hơn và việc cải cách thủ tục xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng
nhận xuất xứ cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thông quan hàng hoá
sang các thị trường ASEAN. Dự báo trước thềm AEC, xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định nhờ được hưởng ưu đãi thuế quan với tổng số
trên 99% dòng thuế của ASEAN 6 là 0% theo Hiệp định ATIGA. Đây là thời điểm để
các doanh nghiệp hết sức linh hoạt, nhạy bén, sớm nhận diện và nắm bắt những lợi ích
tiềm năng từ AEC để thúc đẩy khả năng tăng quy mô kinh tế không chỉ khối thị trường
này mà còn với các thị trường khác; trong đó có các thị trường ASEAN đã ký các Hiệp
định thương mại tự do như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New
Zealand.
Hiện nay, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam với các đối tác trong khu vực
ASEAN giai đoạn 2003 - 2013 tăng trưởng đều qua các năm, tốc độ tăng trưởng trung
bình đạt 17,7%. Trong đó, xu hướng tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam
với các nước ASEAN trong giai đoạn 2003 - 2013 tương đối giống với xu hướng tăng
trưởng kim ngạch thương mại Việt Nam - ASEAN. Theo số liệu thống kê năm 2013,
kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng truyền thống có thể kể đến như: hàng dệt may đạt
330 triệu USD (tăng 23%), hàng thủy sản đạt 313 triệu USD (tăng 12,6%), gỗ và sản
phẩm của gỗ đạt 73 triệu USD (tăng 34%). Các mặt hàng công nghiệp tăng cao như:
máy móc thiết bị và phụ tùng khác đạt giá trị xuất khẩu 801 triệu USD, tăng 9%, máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD tăng 30%, điện thoại các loại và linh
kiện đạt 2,1 triệu USD, tăng 76%. Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN những năm qua, có thể thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng
lớn nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40%) sau đó là gạo (chiếm
tỷ trọng trên 10%). Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chủ
yếu là nông sản, hải sản và khoáng sản thô. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được
hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá
cả phụ thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định.
Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam
Khi AEC được thành lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn.
Thêm vào đó, khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực
cạnh tranh. Theo quy định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40%
được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các
thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các ưu
đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị
trường khu vực.
Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư
Cơ hội được trông đợi nhất, từ tất cả các nước ASEAN chứ không riêng gì Việt Nam
đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Bởi vì việc kết nối và
xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn
ASEAN như một sân chơi chung, một công xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống
nhất, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ. AEC cũng sẽ giúp
Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh từ thủ tục hải quan, thủ tục hành
chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư cân bằng hơn. Thu hút đầu tư nhiều hơn đồng
nghĩa với quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh và tích cực hơn, góp phần nâng
cao chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo đà cho nền công nghiệp Việt Nam hướng tới
phát triển cân bằng với các quốc gia khác.
2. Thách thức
Một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam khi tham gia vào AEC là sự chênh
lệch về trình độ phát triển so với các nước ASEAN - 6, thể hiện cả ở quy mô vốn của
nền kinh tế, các doanh nghiệp, trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề lao động,…Thời
điểm cộng đồng ASEAN bắt đầu có hiệu lực vào năm 2015, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm, dịch vụ, đầu tư
của các nước ASEAN, đặc biệt là khi các nước ASEAN loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan. Một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa.