Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Nội dung về xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN thành khu vực kinh tế cạnh tranh cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.07 KB, 13 trang )

NỘI DUNG
1. Khái quát chung về Cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC).
1.1 Khái niệm
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là liên kết kinh tế của ASEAN, hình thành trên cơ sở một
hệ thống thể chế và thiết chế pháp lý, nhằm xây dựng ASEAN trở thành một thị trường và một cơ
sở sản xuất thống nhất, có tính cạnh tranh cao, phát triển và đồng đều giữa các nền kinh tế thành
viên và hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu.
1.2 Mục tiêu
Mục tiêu tổng thể của AEC là tạo ra “ một khu vực kinh tế AEC phát triển ổn định, thịnh
vượng, đồng đều, có tính cạnh tranh cao và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.”
1.3. Mô hình liên kết của AEC
Nội dung liên kết của AEC bao gồm:
• Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất.
• Một khu vực kinh tế cạnh tranh cao.
• Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều.
• Một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu.
Để lảm rõ hơn về mô hình liên kết của AEC, ta cần đề cập đến một khía cạnh nội dung trong
liên kết đó, đó là việc xây dựng cộng đồng ASEAN thành khu vực kinh tế cạnh tranh cao. Từ các
vấn đề về lý luận, pháp lý đến các chương trình hành động trong thực tiễn sẽ giúp ta hiểu thêm
phần nào về khu vực AEC cũng như tầm ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thị trường ngày nay.
2. Nội dung về xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN thành khu vực kinh tế cạnh tranh
cao.
Mục tiêu chính của chính sách cạnh tranh để thúc đẩy một nền văn hóa cạnh tranh lành
mạnh. Các thể chế và pháp luật liên quan đến chính sách cạnh tranh gần đây đã được thành lập
trong một số (Nhưng không phải tất cả) các nước thành viên ASEAN (nhóm nước này gọi tắt là
AMC).
Hiện tại không có ASEAN chính thức của cơ thể cho công việc hợp tác về luật cạnh tranh
quốc gia (CPL) để phục vụ như là một mạng lưới cho các cơ quan cạnh tranh hoặc cơ quan có
liên quan đến trao đổi kinh nghiệm về chính sách và tổ chức định mức về CPL. Hiện nay, chỉ có
bốn AMCs (Indonesia, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) có của pháp luật cạnh tranh và các cơ
quan quản lý cạnh tranh. Malaysia đã không được thông qua luật pháp cạnh tranh trên toàn quốc


nhưng thay vào đó, dựa trên quy định cấp khu vực để đảm bảo và thực thi cạnh tranh trong thị
trường.
Có sáu yếu tố chủ yếu trong khu vực kinh tế cạnh tranh của ASEAN:
2.1 Chính sách cạnh tranh.

-1-


Trên phương diện lý luận: Tất cả các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết ban hành
chính sách và luật cạnh tranh quốc gia (CPL) muộn nhất vào năm 2015. Đồng thời, tiến hành xây
dựng mạng lưới các cơ quan liên quan, xây dựng năng lực, xây dựng các chỉ dẫn khu vực trong
chính sách cạnh tranh;
Trên phương diện pháp lý: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN trong tháng 1 năm 2007, Các
nhà lãnh đạo khẳng định cam kết mạnh mẽ của mình để đẩy nhanh tiến độ thành lập một Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015 hình dung ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020 và các nước ASEAN
Concord II, và đã ký Tuyên bố Cebu về Đẩy mạnh việc thành lập một Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015. Đặc biệt, các nhà Lãnh đạo nhất trí đẩy nhanh tiến độ thành lập Cộng đồng Kinh tế
ASEAN vào năm 2015 và để biến ASEAN thành một khu vực với việc di chuyển tự do của hàng
hoá, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề cao, và dòng chảy tự do của vốn.
Nội dung xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN thành khu vực kinh tế cạnh tranh cao được
thể hiện rõ trong Kế hoạch xây dựng tổng thế AEC (AEC blueprint). Trong đó các Điều từ Điều
41 đến Điều 59 đã thể hiện rõ sáu yếu tố chủ yếu trong khu vực kinh tế cạnh tranh của ASEAN.
Chính sách cạnh tranh được thể hiện trong Điều 41 Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (phụ
lục). Điều 41.Tất cả các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết ban hành chính sách và luật
cạnh tranh quốc gia (CPL) muộn nhất vào năm 2015; Tiến hành xây dựng mạng lưới các cơ
quan liên quan, xây dựng năng lực, xây dựng các chỉ dẫn khu vực trong chính sách cạnh tranh;
Khuyến khích các quốc gia thành viên ASEAN về khả năng xây dựng các chương trình, hoạt
động trong chính sách cạnh tranh phát triển quốc gia; Phát triển nguyên tắc về chính sách cạnh
tranh của khu vực vào năm 2010, trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của quốc gia và những
tầm nhìn chiến lược quốc tế nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh thuận lợi; Ngoài ra, còn có các

ấn phẩm “Hướng dẫn về chính sách cạnh tranh khu vực ASEAN” và “Sổ tay về luật và chính
sách cạnh tranh cho doanh nghiệp ASEAN" do Nhóm chuyên gia về luật và chính sách cạnh
tranh ASEAN (AEGC) xây dựng đã được giới thiệu tại Việt Nam vào ngày 24/8/2010 dưới sự
chứng kiến của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN. Với mục tiêu hướng tới việc thiết lập một môi
trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh trong khu vực, hai ấn phẩm này của ASEAN sẽ là
những đóng góp mới cho việc xây dựng và duy trì một sân chơi bình đẳng, cải thiện môi trường
kinh doanh khu vực cho các doanh nghiệp trong nước và xuyên quốc gia, đồng thời thúc đẩy các
nước ASEAN xây dựng hoàn thiện chính sách cạnh tranh và áp dụng cơ chế thực thi luật cạnh
tranh hiệu quả ở nước mình.
Các sáng kiến , biện pháp, và chương trình thực hiện trong thực tiễn:
Cố gắng giới thiệu chính sách cạnh tranh trong tất cả các Các nước thành viên ASEAN vào
năm 2015; Thiết lập một mạng lưới của chính quyền hoặc cơ quan chịu trách nhiệm cho chính
sách cạnh tranh để phục vụ như là một diễn đàn để thảo luận và phối hợp cạnh tranh chính sách;
Khuyến khích các chương trình / hoạt động xây dựng năng lực đối với các nước thành viên
ASEAN trong việc phát triển chính sách cạnh tranh quốc gia; Xây dựng hướng dẫn về chính sách
cạnh tranh khu vực năm 2010, dựa trên kinh nghiệm quốc gia và quốc tế thực hành tốt nhất để tạo
ra một môi trường cạnh tranh công bằng.
-2-


Cạnh tranh là hoạt động nhằm tranh giành thị trường lôi kéo khách hàng về phía mình của
các chủ thể kinh doanh nên cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong cơ chế thị trường khi mà công dân
có quyền tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp, tự do tìm kiếm cơ hội để phát triển sản
xuất kinh doanh. Nếu nói rộng hơn trên quy mô rộng lớn của khu vực thì vấn đề này rất cần được
quan tâm và đưa ra các chính sách để giữa các quốc gia có sự điều chỉnh và thực hiện sao cho
hợp lý. Trong khối thịnh vượng chung ASEAN thì vẫn còn tồn tại sự phát triển không đồng đều
giữa các nước, nhiều quốc gia vẫn chưa thực sự chú trọng đến chính sách pháp luật về cạnh tranh,
nên còn có sự tranh chấp hay các vụ kiện tụng liên quan đến nhiều sản phẩm xuất khẩu. Vì lẽ đó,
việc thiết lập một mạng lưới chung về phát triển chính sách cạnh tranh trong tất cả các thành viên
và trong khu vực chung là điều cần thiết và nên đặt lên hàng đầu.

2.2 Bảo vệ người tiêu dùng
Trên phương diện lý luận: với cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm trong phát triển
kinh tế, ASEAN sẽ tiến hành song song các biện pháp phát triển kinh tế và bảo vệ người tiêu
dùng. Bảo vệ người tiêu dùng thực hiện qua việc: thành lập Ủy ban điều phối ASEAN về bảo vệ
người tiêu dùng, thiết lập một mạng lưới các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng trong ASEAN, tổ
chức các khóa đào tạo cấp khu vực cho cán bộ bảo vệ người tiêu dùng và người tiêu dùng.
Trên phương diện pháp lý: vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được quy định tại Điều 42 AEC
blueprint quy định về bảo vệ người tiêu dùng: Việc xây dựng một khu vực kinh tế tổng hợp với
một phương pháp tiếp cận người làm trung tâm trong khu vực này đã làm cho ASEAN lưu ý rằng
người tiêu dùng không thể bị cản trở trong tất cả các biện pháp thực hiện để đạt được điều này
tích hợp. Bảo vệ khách hàng bằng các biện pháp đã được phát triển song song với việcđề xuất
biện pháp kinh tế để giải quyết đã đang nổi lên bảo vệ người tiêu dùng.
Việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện nay đang được các quốc gia trên toàn thế giới rất
quan tâm và chú trọng. Cuộc sống ngày càng phát triển và kéo theo như cầu chất lượng cuộc
sống ngày càng cao, có cung thì ắt phải có cầu. Tuy nhiên, không phải bát cứ nhà sản xuất nào
cũng lấy chất lượng sản phẩm và uy tín với người tiêu dùng lên hàng đầu, có thể nhiều người vì
lợi nhuận trước mắt mà sản xuất ra hàng hóa không đảm bảo chất lượng. Hiện tại, trên thị trường
tràn ngập các loại hàng hóa đủ mẫu mã và chủng loại, mặc dù các cơ quan quản lý thị trường đã
quản lý sát sao nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng sơ suất. Lợi ích của người tiêu dùng vì
thế mà có thể bị xâm hại trong nhiều trường hợp, có trường hợp quyền lợi của người tiêu dùng bị
xâm hại nhưng chính những người đó cũng không biết. Do đó, việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng được quan tâm là việc cần thiết.
Trong thực tiễn một số sáng kiến, biện pháp hành động cụ thể đã được thực hiện như: Tăng
cường bảo vệ người tiêu dùng trong ASEAN thông qua việc thành lập Điều phối ASEAN Ủy ban
Bảo vệ người tiêu dùng (ACCCP); Thiết lập một mạng lưới bảo vệ người tiêu dùng cơ quan để
tạo điều kiện chia sẻ thông tin và trao đổi; Tổ chức các khóa học đào tạo khu vực cho người tiêu
dùng bảo vệ các quan chức và các nhà lãnh đạo của người tiêu dùng trong chuẩn bị cho một thị
trường ASEAN tích hợp.
2.3 Quyền sở hữu trí tuệ
-3-



Trên phương diện lý luận: Đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ trong khu vực nhằm phát huy
sáng tạo, sáng chế, công nghiệp tiên tiến tạo ra các giá trị gia tăng và làm tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế khu vực. Đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ trong AEC được thực hiện thông qua: thực thi
nghiêm chỉnh Kế hoạch hành động về quyền sở hữu trí tuệ, Kế hoạch hành động về quyền sở hữu
tác giả, gia nhập Nghị định thư Madrid (đối với các quốc gia thành viên có điều kiện), duy trì
tham vấn và trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực thi quốc gia trong bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ, tăng cường hợp tác khu vực về tri thức truyền thông (TK), tài nguyên di truyền (GRs), các
hình thức biểu hiện văn hóa dân gian (CTE).
Trên phương diện pháp lý: Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng trong việc
thúc đẩy sự sáng tạo, phát triển nền kinh tế, văn hóa và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội
nhập quốc tế của mỗi quốc gia. Trong Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC quy định về quyền sở
hữu trí tuệ được ghi nhận trong điều 43, 44, 45:
“ Điều 43. Về nguyên tắc, chính sách sở hữu trí tuệ (IP) có thể phục vụ như là một kích thích
mạnh mẽ để (a) văn hóa, trí tuệ và nghệ thuật sáng tạo và thương mại hóa của họ, (b) thông qua
hiệu quả và thích ứng với biến đổi khí hậu của các công nghệ tiên tiến hơn, và (c) liên tục học
tập để đáp ứng các ngưỡng tăng hiệu suất mong đợi.
Điều 44. IP chính sách cũng có thể giúp để ấp một nền văn hóa rực rỡ của sáng tạo và sáng
chế, và để đảm bảo công bằng hơn truy cập và lợi ích cho tất cả các bên liên quan trong cả hai
truyền thống và mới hơn quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, IP chính sách có thể ảnh hưởng đến cả
hai khối lượng và chất lượng của thương mại và đầu tư và chuyển giao công nghệ tiên tiến, độc
quyền. IP sáng tạo là một yếu tố quyết định chính của địa phương giá trị gia tăng và bên ngoài
khả năng cạnh tranh.
Điều 45. Hợp tác khu vực trong quyền sở hữu trí tuệ đã được hướng dẫn bởi các ASEAN
quyền sở hữu trí tuệ Kế hoạch hành động 2004-2010 và Kế hoạch làm việc cho Hợp tác ASEAN
về quyền tác giả nhằm mục đích để phát triển một văn hóa học tập và đổi mới được hỗ trợ bởi
một IP thân thiện hồ sơ để các doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà phát minh và sáng tạo trong
ASEAN. Ngoài ra, các kế hoạch cũng được thiết kế để thúc đẩy nâng cao nhận thức công chúng
tốt hơn, phối hợp và kết nối mạng, khả năng dự báo, xây dựng năng lực và đóng góp của IP

ngành công nghiệp để cạnh tranh và phát triển.”
Các sáng kiến , biện pháp, và chương trình thực hiện trong thực tiễn:
Trong thực tế, nhận biết được tầm ảnh hưởng quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, các quốc
gia tham gia vào AEC đang tích cực, đẩy mạnh, nâng cao cách chương trình về việc thực hiện
quyền sở hữu trí tuệ. Thực hiện đầy đủ Kế hoạch hành động quyền sở hữu trí tuệ ASEAN 2004 2010, và Kế hoạch Công tác Hợp tác ASEAN về quyền tác giả; Thiết lập một hệ thống nộp đơn
ASEAN thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi cho hồ sơ của người sử dụng và phối hợp thúc đẩy
trong số các Văn phòng IP ở các nước thành viên ASEAN, nhận được văn phòng, dựa trên ngôn
ngữ yêu cầu; Gia nhập Nghị định thư Madrid, nếu có thể; Duy trì tham vấn và trao đổi thông tin
giữa các cơ quan thực thi quốc gia trong quyền sở hữu trí tuệ bảo vệ; Thúc đẩy hợp tác khu vực
-4-


về truyền thống Kiến thức (TK), tài nguyên di truyền (GR) và Biểu hiện văn hóa truyền thống
(CTE).
2.4 Phát triển cơ sở hạ tầng
Trên phương diện lý luận: Phát triển cơ sở hạ tầng được triển khai thông qua nhiều chương
trình và biện pháp khác nhau, trên các lĩnh vực: hợp tác về giao thông vận tải (bao gồm cả đường
bộ, đường biển và đường hàng không), hạ tầng thông tin, năng lượng, khai khoáng và huy động
tài chính cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Trên phương diện pháp lý:
Một quốc gia muốn phát triển thành cường quốc lớn mạnh thì cần phải có một cơ sở hạ tầng
phát triển. Đó là điều kiện thiết yếu trong công cuộc hội nhập chung vào hơi thở năng động của
nền kinh tế thế giới. Cơ sở hạ tầng không chỉ dừng lại ở “điện, đường, trường, trạm” mà đã tiến
tới xây dựng các chung cơ cao ốc, các đường cao tốc xuyên quốc gia, các đường hầm, cây cầu
xuyên lục địa. Hạ tầng muốn phát triển cần phải có sự hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực
hoặc trên quy mô toàn cầu, chính vì vậy phát triển hạ tầng trong Kế hoạch tổng thể xây dựng
AEC được quy định từ Điều 46 đến Điều 57 của Kế hoạch tổng thể xây dưng AEC.
“ Điều 46. Giao thông vận tải Hợp tác. Một hiệu quả, an toàn và mạng lưới giao thông
tích hợp trong ASEAN là rất quan trọng để thực hiện đầy đủ tiềm năng của Khu vực Thương mại
Tự do ASEAN cũng như trong tăng cường sự hấp dẫn của khu vực như là một đơn sản xuất, du

lịch và điểm đến đầu tư và thu hẹp khoảng cách phát triển. ASEAN vận tải cũng là quan trọng
trong liên kết ASEAN với các láng giềng Đông Bắc và Nam Á quốc gia.; Điều 47. Nỗ lực khu vực
đã được thực hiện để tăng cường giao thông vận tải tạo điều kiện thuận lợi và dịch vụ hậu cần,
thúc đẩy đa phương thức mối liên kết cơ sở hạ tầng giao thông và kết nối, tạo điều kiện thuận lợi
giao thông vận tải và du lịch hội nhập và tiếp tục tự do hóa không khí và các lĩnh vực vận tải
biển. Khuôn khổ thuận lợi cho tự do hóa đầy đủ các dịch vụ hàng không ASEAN sẽ được khẩn
trương thực hiện.; Điều 48. Vận tải đa phương thức và tạo điều kiện thuận lợi giao thông vận
tải. Các Kế hoạch hành động ASEAN Giao thông vận tải (ATAP) 2005-2010 bao gồm hàng hải,
đất và vận chuyển hàng không, và tạo điều kiện thuận lợi giao thông vận tải. Kế hoạch này vạch
ra 48 biện pháp hành động.; Điều 49. Đất giao thông. Ưu tiên hoàn thành Liên đường sắt
Singapore-Côn Minh (SKRL) và ASEAN, Mạng lưới đường cao tốc (AHN) dự án.; Điều 50.
Hàng hải và vận tải hàng không. Thông qua chung nguyên tắc và khuôn khổ cho một Vận chuyển
đơn của ASEAN Thị trường và phát triển và thực hiện các đơn ASEAN Thị trường hàng không.;
Điều 51. Thông tin cơ sở hạ tầng. Một an toàn và kết nối cơ sở hạ tầng thông tin là quan trọng
để duy trì khu vực của tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh. Những nỗ lực có được thực
hiện để tạo điều kiện kết nối liên thông và kỹ thuật khả năng tương tác giữa các hệ thống công
nghệ thông tin, tận dụng vào hiện tại mạng lưới quốc gia và phát triển những thành một khu vực
thông tin cơ sở hạ tầng. Nhấn mạnh bằng đã được trao cho nâng cao sự tin tưởng và sự tự tin
trong việc sử dụng của Internet và bảo mật của giao dịch điện tử, thanh toán và khu định cư.;
Điều 52. Phát triển các liên kết nối tốc độ cao trong số tất cả cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia
(NII).; Điều 53. Hợp tác năng lượng. An toàn và đáng tin cậy cung cấp năng lượng bao gồm cả
-5-


nhiên liệu sinh học là rất quan trọng để hỗ trợ và duy trì hoạt động kinh tế và công nghiệp. Khu
vực hợp tác trong các Đường ống dẫn khí xuyên ASEAN (TAGP) và ASEAN Power Grid (APG)
Các dự án cho phép tối ưu hóa của nguồn tài nguyên năng lượng của khu vực an ninh lớn hơn.
Những dự án cũng cung cấp cơ hội cho khu vực tư nhân tham gia về đầu tư, bao gồm cả tài
chính, và chuyển giao công nghệ. Kết nối mạng lưới điện lưới điện và đường ống dẫn khí cung
cấp lợi ích đáng kể cả về tính linh hoạt, an ninh và chất lượng của nguồn cung cấp năng lượng.;

Điều 54. Đẩy nhanh sự phát triển của hệ thống điện ASEAN (APG) và các Đường ống dẫn khí
xuyên ASEAN (TAGP). Các APG liên quan đến 14 dự án kết nối điện và TAGP, 7 dự án kết nối
khí.; Điều 55. Trong khi ASEAN phấn đấu cho việc thúc đẩy thành lập một Cộng đồng ASEAN
vào năm 2015, nó là quan trọng để đảm bảo rằng sự phát triển bền vững thông qua, trong số
những người khác, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính bằng phương tiện của chính sách và các biện
pháp hiệu quả, do đó góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhận dự trữ toàn cầu hạn
chế của năng lượng hóa thạch và giá thế giới không ổn định của dầu nhiên liệu, nó là điều cần
thiết đối với ASEAN nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường năng lượng tái tạo phát triển,
chẳng hạn như nhiên liệu sinh học, cũng như để thúc đẩy mở thương mại, tạo điều kiện thuận lợi
và hợp tác trong lĩnh vực năng lượng tái tạo khu vực và liên quan đến ngành công nghiệp cũng
như đầu tư trong cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển năng lượng tái tạo.; Điều 56. Khai thác
hợp tác. Tăng cường thương mại và đầu tư và tăng cường hợp tác và năng lực trong địa chất và
khu vực khoáng sản cho phát triển khoáng sản bền vững trong Khu vực ASEAN.; Điều 57. Tài
chính cho các dự án cơ sở hạ tầng. Tài chính là luôn luôn được công nhận như là một đóng góp
quan trọng đối với kinh tế tăng trưởng. ASEAN tăng tốc hội nhập kinh tế nỗ lực, đầu tư lớn hơn
sẽ là cần thiết đặc biệt là trong phát triển cơ sở hạ tầng khu vực. Việc đưa ra cơ chế tài chính
sáng tạo để thu hút khu vực tư nhân lớn hơn tham gia như vậy là quan trọng.”
Cơ sở hạ tầng là xương sống của nền kinh tế. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của cơ
sở hạ tầng đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước, cộng đồng kinh tế AEC đã quyết định lựa
chọn cơ sở hạ tầng là một trong lĩnh vực đầu tư chiến lược. Trong kế hoạch tổng thể xây dựng
AEC, lĩnh vực này cùng được quy định rõ ràng và cụ thể được thể hiện từ điều 46 đến điều 57.
Không chỉ được quy định trong kế hoạch, trong thực tiễn các biện pháp, sáng kiến và chương
trình thực hiện cũng được các nước đẩy mạnh hợp tác và đạt được nhiều thành tựu nhất định.
Các sáng kiến, biện pháp và chương trình thực hiện trong thực tiễn:
Trong hợp tác năng lượng:
Đề ra Chương trình Hành động về Hợp tác Năng lượng (APAEC) 2010-2015, được các Bộ
trưởng Năng lượng ASEAN (AMEM) thông qua vào tháng 7/2010. Để đảm bảo việc thực hiện
hiệu quả Kế hoạch Tổng thể Kết nối ASEAN, AMEM cũng đã yêu cầu các quan chức cấp cao
ngành năng lượng phải nỗ lực thực hiện các sáng kiến kết nối có liên quan như sáng kiến về Lưới
điện ASEAN và sáng kiến về Đường ống Dẫn dầu xuyên ASEAN. Nhằm tiến tới mục tiêu giảm

cường độ năng lượng trong khu vực ít nhất 8% vào năm 2015 (trên cơ sở mức của năm 2005),
ASEAN đã đồng ý thực hiện việc rà soát, đánh giá lại việc thực hiện mục tiêu “Hiệu quả và bảo
toàn năng lượng ASEAN” và xây dựng một chương trình hành động và một cơ chế giám sát một
-6-


cách hệ thống để đạt được mục tiêu. Ngoài ra, còn có kế hoạch trong việc: Hoàn tất Hiệp định An
ninh Dầu khí ASEAN tăng cường, an ninh dầu khí trong khu vực; Tạo điều kiện thuận lợi và tăng
cường thương mại và đầu tư khoáng sản; Tăng cường thể chế và xây dựng năng lực con người
trong ASEAN địa chất và khoáng sản khu vực; Thúc đẩy môi trường và xã hội bền vững khoáng
sản phát triển; Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong khoáng sản phát triển.
Năng lượng là chất đốt là động lực chính thúc đẩy cuộc sống của con người. Hiện nay, trên
thế giới nó được coi là vấn đề nóng bỏng gây ra nhiều cuộc chiến tranh ở khu vực Trung Đông,
Tây Á… Việc các cuộc khủng hoảng về dầu mỏ cũng kéo theo rất nhiều hệ quả làm cho nền kinh
tế toàn cầu lăn nhanh trên con đường suy thoái. Vấn đề nóng bỏng này cũng được Cộng đồng
AEC nhận ra tầm quan trọng của việc khai thác những nguồn tài nguyên vốn có trong khu vực
mình. Các chương trình hợp tác nhằm lợi dụng nguồn nước dồi dào của sông ngòi, việc khai thác
dầu khí, chế biến đã góp phần giảm thiểu phần nào sự nhập khẩu từ bên ngoài, giúp ích cho việc
tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có.
Trong hợp tác giao thông vận tải:
Các quốc gia trong AEC đã thực hiện được nhiều chương trình nhằm thực hiện mục tiêu phát
triển cơ sở hạ tầng như: Thực hiện khung ASEAN Hiệp định về tạo thuận lợi cho hàng hoá quá
cảnh Năm 2009; Thực hiện khung ASEAN Hiệp định về vận tải đa phương năm 2010; Hoàn
thiện của Hiệp định khung ASEAN về tạo thuận lợi vận tải liên quốc vào năm 2008 thực hiện đầu
năm 2010.
Hiệp định Đa phương về Tự do hóa hoàn toàn Dịch vụ Vận tải hành khách bằng đường Hàng
không (MAFLPAS) đã được hoàn thành để sẵn sàng cho việc ký kết tại Hội nghị Bộ trưởng Giao
thông Vận tải lần thứ 16 tại Bandar Seri Begawan, Brunei vào tháng 11/2010. Hiệp định này,
cùng với Hiệp định Đa phương về Dịch vụ Vận tải Hàng không (MAAS) và Hiệp định Đa
phương về Tự do hóa hoàn toàn Dịch vụ Vận tải Hàng hóa bằng đường Hàng không

(MAFLAFS) ký vào năm 2009, sẽ giúp hiện thực hóa chính sách của ASEAN về Bầu trời mở, và
tiếp theo đó là mục tiêu xây dựng một Thị trường Hàng không chung ASEAN (ASAM) vào năm
2015. Kế hoạch Giao thông Vận tải Chiến lược của ASEAN (ASTP) 2011-2015 cũng sẽ được
các Bộ trưởng Giao thông Vận tải thông qua vào phiên họp tháng 11 năm 2010.
Hội nghị lần thứ 7 Nhóm công tác ASEAN về giao thông trên bộ khai mạc ngày 27-8 tại Hà
Nội đã tập trung thảo luận việc chuẩn bị triển khai dự án phát triển đường sắt Singapore - Côn
Minh (Trung Quốc) và dự án phát triển mạng giao thông đường bộ ASEAN. Trong hai ngày, 45
đại biểu đến từ 10 nước ASEAN, Nhật Bản và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng sẽ xem
xét và thông qua các văn kiện pháp lý để bảo đảm thuận lợi hóa cho việc lưu thông nhân lực và
hàng hóa trong nội khối ASEAN như xác định tuyến quá cảnh, an toàn đường bộ, áp dụng hệ
thống giao thông thông minh (ITS)...
Vấn đề xem xét các dự án tại Hội nghị Nhóm công tác ASEAN 7 về giao thông vận tải sẽ
được trình lên Hội nghị lần thứ 16 các quan chức cấp cao giao thông vận tải ASEAN (STOM) và
Hội nghị lần thứ 9 các bộ trưởng giao thông vận tải ASEAN diễn ra hạ tuần tháng 10-2003 tại
Myanmar xem xét, quyết định.
-7-


Nhiều dự án xây dựng các con đường nối liền các vùng lãnh thổ được đầu tư như: Hoàn
thành phát triển của tất cả các liên kết bị mất liên đường sắt Singapore-Côn Minh; Hoàn thành
việc thực hiện các dự án AHN, Đặc biệt, con đường xây dựng / cải thiện đường dưới Cấp III (2
làn đường hẹp với đôi bitum điều trị) phần của Transit được chỉ định Tuyến đường Giao thông
vận tải (TTRs) của AHN; Tăng cường an toàn đường bộ trong ASEAN.
Các chương trình vận tải biển cũng được xem xét và quan tâm: Thực hiện có liên quan Quốc
tế Hàng hải Tổ chức (IMO) công ước; Thực hiện Lộ trình hướng tới một tích hợp vàCạnh tranh
vận tải biển trong ASEAN; Thực hiện chính sách ASEAN mở rộng Sky (Lộ trình hội nhập của
ngành du lịch Air); Thực hiện thị trường hàng không ASEAN đơn.
Giao thông vận tải là vấn đề rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đa số các
quốc gia và trong cả khu vực ASEAN. ASEAN nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
khu vực tiếp giáp với các khu vực như Đông Á, Tây Á, và châu Úc; khu vực ASEAN còn tiếp

giáp với các quốc gia lớn như Trung Quốc, Ustraylia… ; là nơi giao thoa của các tuyến đường
quốc tế trên không cũng như trên biển. ASEAN nằm ở vị trí địa lý quan trọng trên thế giới, bởi
nó nằm tại trung tâm giao thông thế giới với 1/3 khối lượng lưu thông thương mại thế giới đi qua
eo biển Ma-lắc-ca; 1/2 trữ lượng tiêu thụ dầu mỏ thế giới được vận chuyển thông qua eo biển
Ma-lắc-ca và Xin-ga-po. Nhận thức được tầm quan trọng trong vị trí của mình, nên cộng đồng
AEC đặt mục tiêu cao trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, để nâng cao vị thế của
mình trong trường quốc tế, cũng như trong việc kêu gọi, thu hút được sự đầu tư từ các tập đoàn
lớn trên thế giới đối với khu vực.
Trong hợp tác công nghệ thông tin(ICT):
Kế hoạch Tổng thể về ICT ASEAN 2011-2015 được dự kiến thông qua tại Hội nghị các Bộ
trưởng Công nghệ Thông tin và Viễn thông vào tháng 11/2010 và sẽ là một tài liệu hướng dẫn
chung cho việc thúc đẩy phát triển hợp tác ICT trong khu vực, nhằm đưa ICT trở thành động lực
mạnh mẽ cho chuyển đổi đời sống nhân dân và kinh tế của khu vực nhờ công nghệ kỹ thuật số,
củng cố khả năng cạnh tranh thông qua việc thực hiện hàng loạt những sáng kiến và hoạt động
chính khác nhau. Bên cạnh đó, các các quốc gia cũng hợp tác trong việc: Hỗ trợ kết nối tốc độ
cao trong số tất cả các quốc gia cơ sở hạ tầng thông tin vào năm 2010 và thực hiện ICT biện pháp
như xác định trong VAP; Tăng cường năng lực xây dựng và các chương trình đào tạo Đội Ứng
cứu khẩn cấp máy tính quốc gia (Certs) và tăng cường hợp tác, năng lực của nó và phạm vi bảo
hiểm của khu vực an ninh mạng mạng, bao gồm cả việc mở rộng CERT ASEAN. Khoan sự cố
bao gồm các đối tác đối thoại của ASEAN trong năm 2007; Khuyến khích sự tham gia của tất cả
các bên liên quan (Con người, cộng đồng, doanh nghiệp và công chúng chính quyền) trong việc
sử dụng và phát triển Ứng dụng công nghệ thông tin và dịch vụ trên khu vực thông tin cơ sở hạ
tầng; Hỗ trợ các ứng dụng ngành công nghệ thông tin (ban đầu trong chính các lĩnh vực như hải
quan, hậu cần, vận tải, công nghiệp nội dung) để nâng cao hiệu quả của họ và năng suất; Mở rộng
số Các nước ASEAN tham gia trong các ASEAN MRA cho thiết bị viễn thông; Làm sâu sắc
thêm chính sách khu vực và khuôn khổ pháp lý để đối phó với những cơ hội và thách thức trong
-8-


khu vực của mạng thế hệ kế tiếp, bao gồm cả khả năng tương tác của các sản phẩm / dịch vụ,

thông tin hệ thống, mạng lưới trong sự hội tụ môi trường.
Trong thời đại hội nhập, toàn cầu hóa công nghệ thông tin chính là minh chứng cho sự phát
triển của các quốc gia. Công nghệ thông tin ngày càng chứng minh tầm quan trọng của nó từ các
quốc gia lớn cho đến các khu vực nhỏ và sự thiết yếu của nó đối với cuộc sống của mỗi người.
Trên thế giới, một số quốc gia phát triển về công nghệ thông tin như Ấn Độ, Mỹ hay Nhật Bản
đều ghi tên mình vào các cường quốc trên thế giới. Đối với các quốc gia ASEAN cũng như cộng
đồng kinh tế AEC muốn phát triển một thị trường chung có nền kinh tế mang tính cạnh tranh cao
thì sự phát triển về công nghệ thông tin là điều tất yếu. Điều đó được thể hiện bằng việc đầu tư
không nhỏ cho công nghệ thông tin, đưa ra nhiều sáng kiến, kế hoạch cụ thể cho việc phát triển
nó. Ngoài ra, để đối phó với nạn “tin tặc” ngày một nguy hiểm và tinh vi các quôc gia cũng đã có
nhiều sự liên kết để thiết lập một mạng lưới an ninh về công nghệ thông tin. Cũng nhờ có sự quan
tâm phát triển đó, các nước trong khu vực đã tận dụng được nhiều nhân tài, với những phát minh
ứng dụng thiết thực và phù hợp với khu vực.
Trong lĩnh vực tài chính
Sau khi Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai (CMIM) chính thức có hiệu lực
vào ngày 24/3/2010 sẽ hỗ trợ các nhiệm vụ của CMIM thông qua việc thiết lập một cơ quan giám
sát khu vực đáng tin cậy và độc lập. Hiện ASEAN đang thảo luận để hình thành Quỹ Cơ sở Hạ
tầng ASEAN (AIF) nhằm hỗ trợ về tài chính cho các yêu cầu về cơ sở hạ tầng lớn của khu vực.
Thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức quốc tế tài chính khu vực phát
triển cơ sở hạ tầng như TAGP, APG, SKRL và ASEAN lộ mạng; Hủy bỏ hoặc thư giãn trở ngại
để vượt biên giới đầu tư / tài chính của cơ sở hạ tầng khu vực dự án.
Tài chính là sự quyết định cho các dự án đầu tư và phát triển. Sự huy động được nguồn tài
chính cả trong và ngoài khu vực có thể giúp các kế hoạch hợp tác được thực hiện nhanh hơn.
Muốn phát triển cơ sở hạ tầng phải có được nguồn tài chính vững mạnh, việc đó yêu cầu phải có
được sự hợp tác lẫn nhau giữa các quốc gia.
2.5 Thuế
Trên phương diện lý luận: hoàn chỉnh hệ thống các hiệp định song phương về tránh đánh
thuế hai lần giữa tất cả các quốc gia thành viên vào năm 2010.
Trên phương diện pháp lý: được quy định tại Điều 58 kế hoạch tổng thể AEC: “Hoàn chỉnh
mạng lưới các thỏa thuận song phương về tránh đánh thuế hai lần giữa tất cả các quốc gia thành

viên vào năm 2010, đến mức có thể.”
Trong Điều 2 khoản 1(c) Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (2009) quy định: thuế
quan được hiểu là bất kỳ thuế nhập khẩu hoặc thuế hải quan nào và bất kỳ loại phí nào áp dụng
đối với việc nhập khẩu của một loại hàng hóa. Thuế quan là một trong hai rào cản đối với thương
mại (cùng với các biện pháp phi thuế quan). Thuế là nguồn thu của các quốc gia, nhưng đó cũng
là công cụ để quản lý và phát triển nền kinh tế. Trong sự hợp tác giữa các nước, có nước phát
triển, có nước kém phát triển, các quốc gia đều theo đuổi những chính sách quản lý khác nhau
-9-


nên việc khi hợp tác có sự không đồng bộ về chế độ thuế giữa quản lý hàng hóa là điều đương
nhiên. Cộng đồng AEC là một chỉnh thể hợp tác giữa các quốc gia, một không gian chung thống
nhất về phát triển kinh tế, nên việc hoàn chỉnh tất cả mạng lưới về thuế chung giữa các quốc gia
là việc làm rất cần thiết, ngoài ra việc tránh đánh thuế hai lần cũng hạn chế được một phần lớn
việc trốn lậu thuế.
2.6 Thương mại điện tử
Trên phương diện lý luận: thiết lập khung chính sách và pháp luật về thương mại điện tử, cho
phép thực hiện các hoạt động thương mại hàng hóa trực tuyến trên cơ sở Hiệp định ASEAN về
thương mại điện tử và các Khung chỉ dẫn chung.
Trên phương diện pháp lý:
Theo Điều 59 Kế hoạch tổng thể AEC:“Để đặt chính sách và cơ sở hạ tầng pháp lý cho điện
tử thương mại và cho phép trên dòng thương mại hàng hóa (thương mại điện tử) trong ASEAN
thông qua việc thực hiện e-ASEAN Hiệp định khung và dựa trên tham chiếu chung khuôn khổ.”
Một số chính sách và chương trình trong thực tiễn: Thiết lập khung chính sách và pháp luật
về thương mại điện tử, cho phép thực hiện các hoạt động thương mại hàng hóa trực tuyến trên cơ
sở Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử và các khung chỉ dẫn chung. Thông qua những hành
động trong những chính sách cạnh tranh của phương tiện viễn thông và sự tăng cường chuẩn bị
của pháp luật nội thương của thương mại điện tử. Sự hòa hợp về cơ cấu tổ chức hợp pháp của
hợp đồng điện tử và sự giải quyết các tranh luận; Phát triển hơn nữa những bài học về nguyên tắc
của hợp đồng điện tử, những hoạt động cơ bản của những dịch vụ trực tuyến về giải quyết các

vấn đề cần tranh luận, và sự công nhận kết cấu lẫn nhau của chữ ký điện tử trong ASEAN; Tạo
điều kiện thuận lợi cho sự công nhận lẫn nhau của chữ ký điện tử trong ASEAN; Nghiên cứu và
khuyến khích thông qua những hành động và nguyên tắc của sự điều chỉnh và những tiểu chuẩn
trên cơ sở cơ cấu chung; Thiết lập nên mạng lưới diễn đàn giữa ngành thương mại trong ASEAN
và cuộc đối thoại hợp tác như là một hệ thống để đẩy mạnh lĩnh vực thương mại và đầu tư.
3. Triển vọng đến 2015.
AEC được thiết lập dựa trên nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, đầu tư, chính sách cạnh tranh. Ý tưởng xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã
được các nước thành viên thông qua vào năm 2007, làm nền tảng phát triển khu vực kinh tế
ASEAN thành một thị trường chung, có khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, góp phần
đẩy nhanh quá trình hội nhập của khu vực vào nền kinh tế toàn cầu, mục tiêu cuối cùng là hình
thành đồng tiền riêng trong khu vực ASEAN nhằm tránh sự lệ thuộc vào đồng tiền thứ ba và
giảm thiểu tác động của biến động tài chính từ bên ngoài.
Theo kế hoạch, từ năm 2015, AEC sẽ là một thị trường chung, một không gian sản xuất
thống nhất. Thị trường ấy sẽ phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN để từng bước xây dựng
một khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới, đem lại sự thịnh vượng chung cho
nhân dân và các quốc gia ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ
được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử
- 10 -


nào. Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp
ASEAN, đóng góp vào việc xây dựng năng lực cạnh tranh của ASEAN với thế giới, từ đó góp
phần giảm khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách phát triển và thúc đẩy ổn định xã hội.
ASEAN có khuynh hướng "mở" với các đối tác ngoài khối thông qua các hình thức liên kết
kinh tế, thương mại. Hợp tác kinh tế của ASEAN với các đối tác bên ngoài được triển khai từ
giữa những năm 90 của thế kỷ XX chủ yếu là với các đối tác lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)... Hai nền kinh tế "đầu tàu” của khu vực - Nhật Bản và
Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng - là những yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế ASEAN.
Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) được coi là một trong những con đường ngắn

nhất để tăng cường hiệu quả hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài. ASEAN đã
ký kết các hiệp định FTA với một số đối tác lớn như Trung Quốc (đã có hiệu lực từ ngày 1-12010), Nhật Bản (có hiệu lực từ năm 2008), Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 6-2007), Ấn Độ (từ
tháng 8-2009), Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân (từ ngày 27-2-2009 và có hiệu lực sau năm 2010).
Ngoài ra, hợp tác kinh tế giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khác như Mỹ,
Nga, Ca-na-đa.. đang ngày càng được tăng cường, góp phần tích cực vào sự phát triển thương
mại giữa ASEAN với các đối tác. Nhiều hình thức liên kết kinh tế với các đối tác bên ngoài,
trong tương lai, sẽ tạo nên mạng lưới đan kết có tâm là ASEAN.
Quá trình xây dựng AEC cũng phải đối mặt với ba trở ngại lớn. Một là, vấn đề khoảng cách
phát triển. Vấn đề khác biệt về định lượng (GNP, GDP bình quân đầu người...) có thể khắc phục
theo thời gian, nhưng những khác biệt về chất (thể chế, chính sách...) thì không dễ dàng. Hai là,
thị trường ASEAN là một thị trường “cộng” chứ không hoàn toàn “hòa nhập” của tất cả thị
trường các nước thành viên, với những chính sách kinh tế không công khai, phát triển ở nhiều
cấp độ, lại chủ yếu hướng ra bên ngoài chứ không phải vào thị trường nội khối. Ba là, ASEAN
không có một nền kinh tế “đầu tàu” và một đồng tiền mạnh để dẫn dắt khu vực. Trong khi đó,
viễn cảnh một "Cộng đồng kinh tế Đông á" lại tỏ ra hấp dẫn hơn AEC do khu vực này có hai nền
kinh tế lớn là Nhật Bản và Trung Quốc. Đề án chính phủ “Sự tham gia của cộng đồng kinh tế
ASEAN trong định hướng phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế” đã chỉ ra ba khả năng
phát triển của AEC:
Thứ nhất, AEC sẽ hội nhập như kế hoạch đã định là trở thành một FTA+ vào năm 2015.
AEC cũng có thể tiến hơn chút nữa là đạt được tự do hoàn toàn trong di chuyển hàng hoá, dịch
vụ, vốn và lao động, tức là dừng lại ở tiến hành cải cách và xoá bỏ rào cản trong hoạt động kinh
tế nội khối.
Thứ hai, là mức độ hội nhập sâu hơn. AEC có thể phát triển lên thành một liên minh thuế
quan, tiến tới một thị trường chung. Tuy nhiên, kinh nghiệm hợp tác của các khối kinh tế khác
cho thấy, để đạt được mức độ liên kết này cũng phải mất đến ít nhất là 10 năm. FTA+ cơ bản sẽ
được hoàn thành vào năm 2015, tức là sớm nhất vào năm 2025, ASEAN mới có thể trở thành liên
minh thuế quan vào năm 2035 mới có thể trở thành một thị trường chung.
Thứ ba, AEC có thể bị hoà tan vào liên kết Đông Á hoặc Châu Á – Thái Bình Dương nếu
tiến trình liên kết kinh tế Đông Á trở nên mạnh mẽ dẫn đến hình thành khu vực thương mại tự do
- 11 -



toàn Đông Á mà AEC vẫn chỉ dừng lại ở mức độ liên kết như FTA+; hoặc các nước thành viên
ASEAN theo đuổi các Hiệp định thương mại tự do song phương với các nước ngoài khu vực.
Với những kết quả đã đạt được, và nỗ lực hiện nay của ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN
với một hình thái là một FTA+ sẽ được hình thành vào năm 2015. Tuy nhiên, với xu thế hợp tác
Đông Á đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, một khu vực thương mại tự do toàn Đông Á hoặc
hơn nữa là một cộng đồng kinh tế Đông Á có khả năng được hình thành trong nay mai. Vì thế,
AEC sẽ buộc phải phát triển thành liên minh thuế quan và thị trưòng chung để không bị hoà tan.
có thể khẳng định Cộng đồng Kinh tế ASEAN đang dần hiện hữu chính là kết quả của quá trình
nghiên cứu, sáng tạo và nỗ lực hết mình nhằm thiết lập và duy trì một khu vực thương mại tự do
năng động, bền vững và đầy tiềm năng của các quốc gia thành viên ASEAN.
Do vậy, Để đạt được mục tiêu liên kết kinh tế ASEAN (AEC) thành công vào năm 2015,
ASEAN cần tính kỹ đến những vấn đề sau:
Cần có những cam kết rõ ràng về chính trị theo từng giai đoạn. Nghĩa là tính đến những khó
khăn và mức phát triển kinh tế khác nhau để quyết định thời điểm liên kết cho từng nhóm nước
và đối với từng lĩnh vực. Điều quan trọng hơn cả của quá trình liên kết là ý chí chính trị bền vững
và sự quyết tâm thực hiện của các nhà lãnh đạo ASEAN; Thứ hai, cần có tầm nhìn và lộ trình liên
kết rõ ràng. Mặc dù ASEAN đã đưa ra lộ trình liên kết cho từng lĩnh vực trong ngành hậu cần,
song cần phải xác định mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực trong mỗi giai đoạn.
Thứ ba, cần có những nguyên tắc và tính tổ chức rõ ràng. Tham khảo thêm kinh nghiệm của
EU, nhưng không coi đó là mô hình bắt chước bởi các thành viên ASEAN không dễ dàng gì giao
phó chủ quyền kinh tế của mình cho một chủ thể ngoại biên (superanational body) như EU đã
từng làm. Liên kết thị trường ASEAN sẽ được tiếp tục tiến hành trên tinh thần đàm phán và cùng
hành động giữa các quốc gia, chứ không theo sự chỉ đạo của cường quốc bên ngoài.
Thứ tư, ASEAN cần kiên quyết khắc phục, xoá bỏ dần chênh lệch phát triển giữa các nước
thành viên trong khu vực như EU đã từng làm. Đây là cách duy nhất hướng tớicộng đồng
ASEAN bền vững trong tương lai.

- 12 -



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Trung tâm Luật Châu Á – Thái Bình Dương, Pháp luật Cộng đồng ASEAN, 2011.
• Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2007.
• .
• />p_page_id=412492&p_cateid=353614&article_details=1&item_id=24328830
• />•
• />• />• />• />
- 13 -



×