Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

skkn dạy học nêu vấn đề trong môn địa lí hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 61 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Trong chương trình Địa lý ở trường THCS theo nội dung hiện hành đã
thực hiện việc áp dụng đổi mới mục tiêu chương trình giáo dục, nhằm đáp ứng
yêu cầu chung của xã hội. Vì vậy bản thân mỗi thầy cô giáo khi tiến hành thực
hiện làm công tác giảng dạy chương trình này cần phải hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của các cấp, các ngành là đưa giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, phải
thực sự tạo ra những con người thực sự làm chủ đất nước: con người đó phải
biết nghĩ, phải dám làm; phải chủ động sáng tạo trong học tập và lao động. Vì
vậy tôi đã tiến hành thực hiện việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực lấy
học sinh làm trung tâm vào quá trình thực hiện dạy học và có hiệu quả. Đó là : “
vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề vào dạy phần các vùng kinh tế
trong Địa lý lớp 9”. Thông qua các cách thức tiến hành: Điều tra kênh hình, khả
năng vận dụng và áp dụng nó, những hiệu quả cụ thể khi vận dụng và các bài
học kinh nghiệm được rút ra. Nhờ vận dụng sáng kiến này mà chất lượng giảng
dạy của tôi cao hơn, và đạt được mục tiêu của quá trình đổi mới, kích thích các
em ham học hỏi khám phá, yêu thích môn học. Trau dồi cho các em tình yêu quê
hương đất nước- con người thêm yêu hơn Việt Nam - Đất nước- Con Người.

1


PHẦN II. NỘI DUNG
I- NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ.
1. Cơ sở lí luận
Trước những yêu cầu của nền kinh tế, chính trị của đất nước.Việt Nam
đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ mở cửa cửa, chuyển đổi từ nền kinh tế hóa
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kiinh tế thị trường có sự điều tiết, quản lí
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta
mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, mở rộng và củng cố hợp
tác với các nước trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa,khoa học kĩ thuật,


chính trị...đã tạo nên sự phát triển mới trong việc hợp tác, đầu tư của nước ngoài
vào Việt Nam. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi phải có những người lao động
“tự chủ, năng động và sáng tạo,có năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn đề
ra, tự lo liệu được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống, qua đó
góp phần xây dựng đất nước giầu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Theo yêu cầu của thời đại, những biến đổi của xã hội đã thôi thúc các
nước trên thế giới quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục, đầu tư và xây dựng một
nền giáo dục đáp ứng kịp thời các yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế, xã
hội và đảm bảo sự hòa nhập và giao lưu quốc tế.
Để phát triển giáo dục, nhiều nước đã xây dựng luật giáo dục, đề ra khẩu
hiệu
“ Hãy cứu lấy nền kinh tế bằng giáo dục”. Giáo dục đã trở thành quốc sách
hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới.
Với những đặc trưng của con người hiện đại như đã trình bày trên, nền
giáo dục mới phải hướng vào những yêu cầu phục vụ cho sự phát triển kinh tế
xã hội. Giáo dục không những tạo ra con người trí tuệ mà phải nhấn mạnh nội
dung nhân văn. Hơn nữa, giáo dục không chỉ chú ý đến mặt thiết chế của xã hội
về mục đích, mục tiêu giáo dục, mà còn phải quan tâm đến lợi ích của người học
và nhu cầu phát triển của chính bản thân người học. Nói cách khác, đó là sự
thống nhất giữa nhu cầu phát triển kinh tế của xã hội và nhu cầu phát triển của
2


chính bản thân cá nhân. Chất lượng đào tạo cần phải được nâng cao cho tương
xứng với những nhiệm vụ mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay. Cùng
với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam từng bước được đổi mới
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Vì lợi ích mười năm năm phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm phải trồng người”. Đảng ta đã xác định giáo dục là: “quốc
sách hàng đầu”, coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính sách
của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước, phục vụ đắc lực cho sự

phát triển của đất nước.
Ngày nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phấn đấu trong vài ba thập kỉ tới đưa đất nước ra khỏi tình trạng
lạc hậu, nghèo nàn, trở thành một nước có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn tăng tưởng kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, biến
lý tưởng, mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội thành hiện thực.Công cuộc đổi
mới này đề ra những yêu cầu mới đối với hệ thống giáo dục, phải “xác định lại
mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch nội dung, phương pháp giáo dục và
đào tạo”.
Chúng ta đã quan tâm đầu tư phát triển cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo
thực hiện mục tiêu“ nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Tuy nhiên“ Bây giờ so với nhiều nước trong khu vực thì phải thừa nhận sự phát
triển giáo dục của nước ta còn nhiều mặt thua kém”, đang có nguy cơ bị tụt hậu.
Kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, chương trình, phương pháp
còn có những hạn chế. Để khắc phục những tình trạng trên chúng ta cần phải “
tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo”, tạo ra những chuyển biến sâu sắc
trong đổi mới tổ chức quy trình dạy học, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục để tạo ra “ những con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo”, đáp
ứng được những yêu cầu của thời đại, có tri thức khoa học cao, có kĩ năng hành
động và tư duy thực tiễn, có phương pháp tự học và nghiên cứu tốt.
3


Ở nước ta, bắt đầu từ năm 2002-2003 cả nước đồng loạt triển khai chương
trình giáo dục phổ thông mới, bắt đầu từ lớp 1. Cùng với việc ban hành chương
trình giáo dục, các sách giáo khoa ở tất cả các môn học đều được biên soạn lại.
Bên cạnh những đổi mới khá triệt để như vậy về nội dung giáo dục, những nỗ

lực tích cực về đổi mới quá trình giáo dục đã được thúc đẩy, đặc biệt là đổi mới
phương pháp dạy học trong nhà trường. Không thể hình dung thế nào được nếu
như thay đổi nội dung chương trình mà vẫn dạy theo phương pháp dạy học cũ.
Chính vì thế mà phương pháp dạy học mới được đổi mới với tinh thần là biến
quá trình học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức của
một người học với vai trò dẫn dắt khéo léo của người giáo viên. Đó cũng chính
là phương pháp dạy học tích cực. Bản chất của phương pháp dạy học này thực
chất là cách dạy phải hướng tới việc học tập tích cực tự giác, chủ động sáng tạo
chống lại thói quen học tập thụ động của mỗi học sinh. Với đặc tính này vai trò
chỉ đạo của giáo viên hết sức quan trọng. Giáo viên phải linh hoạt chuyển đổi từ
dạy học thông báo, giải thích, minh họa sang dạy học theo phương pháp tích
cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức
mà trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động- độc lập hoặc theo
nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh các kiến thức mới, hình thành các kĩ
năng, thái độ mới theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là
chính, nhưng trước đó, khi soạn bài, giáo viên phải đầu tư nhiều công sức và
thời gian mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác,
động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi, hào hứng, tranh luận sôi
nổi của học sinh. Như vậy, cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là giúp học
sinh hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ
động.
Trước sự thay đổi này không ít giáo viên còn bỡ ngỡ. Không theo kịp sự
đổi mới về phương pháp dạy học cũng như chương trình bộ môn. Việc đổi mới
phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học, được
thực hiện cụ thể từng bước từ việc soạn bài, chuẩn bị bài của giáo viên và học
sinh đến việc học tập của từng học sinh. Để giờ học và dạy Địa lí thực sự có
hiệu quả thì giáo viên dạy địa lí phải biết kết hợp và sử dụng hợp lí có hiệu quả
4



những thiết bị dạy dạy học và thống kê kiến thức từ kênh hình sách giáo khoa và
các thiết bị dạy học...
Nội dung sách giáo khoa địa lí các khối lớp trong chương trình trung học
cơ sở đang hiện hành đã được đổi mới đảm bảo được tỷ lệ hợp lý giữa lý thuyết
và thực hành, khắc phục được khuynh hướng “Hàn lâm hóa”, đơn điệu hóa ở
các bậc học trong chương trình học các hệ nói chung và hệ trung học cơ sở nói
riêng. Đặc biệt là hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí bậc trung học
cơ sở đã tăng lên đáng kể, và rất đa dạng bao gồm: Bản đồ, biểu đồ, lược đồ, sơ
đồ, tranh ảnh, niên biểu, lát cắt...hệ thống kênh hình đó đã góp phần quan trọng
trong việc xây dựng và hình thành hệ thống tri thức cho học sinh. Theo thống kê
trong sách giáo khoa Địa lí lớp 9 Phần các Vùng kinh tế Việt Nam cho thấy mỗi
một bài học đều thường có từ 3 đến 4 hình ảnh. Với hệ thống hình ảnh đó có tác
dụng góp phần trực quan hóa các nội dung mang tính trừu tượng vừa là nguồn
cung cấp tri thức quan trọng, là cơ sở để hình thành và rèn kĩ năng địa lí cho học
sinh. Bên cạnh việc đổi mới chương trình dạy học thì việc đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay trong giáo dục đã và đang được quan tâm đến song vấn đề này
ở cả giáo viên và học sinh vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục. Nhất là
việc vận dụng các phương pháp đổi mới đó trong quá trình dạy học của một số
giáo viên hiện nay chưa thật sự có hiệu quả, việc tự học, tự tìm tòi hiểu biết à
khám phá kiến thức của học sinh vẫn rất trây lười chưa tự giác tìm kiếm hệ
thống tri thức để có kiến thức mới chủ yếu vẫn còn lạm dụng sự trợ giúp của
giáo viên tình trạng đó vô tình chung việc đổi mới phương pháp của giáo dục lại
vô tình đã đang quay trở lại điểm xuất phát- hoc sinh thụ động học. Không chỉ
vậy cách dạy học đó khiến cho cơ hội tạo ham mê hứng thú học sẽ mất đi học
sinh không tự giác tìm tòi phát hiện và tìm ra tri thức mới của học sinh về nội
dung môn học đối với các em trong từng môn học còn rất mơ hồ.Trên thực tế để
làm được điều đó đòi hỏi quá trình dạy học phải phải tác động đến nhiều yếu tố
khác nhau, và cần phải có được một quá trình đổi mới toàn diện, đồng bộ các bộ
phận cấu thành của quá trình dạy học trong từng môn học và môn Địa lí nói
riêng, việc đổi mới ở đây là phải tiến hành đổi mới từ khâu soạn giáo án, đến tổ

5


chức dạy học, đến việc đổi mới phương pháp dạy học rồi đến khâu kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trong tình hình hiện nay của ngành giáo
dục nói chung đây là những việc làm có tính cấp thiết, tôi thiết nghĩ cần phải có
sự hưởng ứng tích cực trong việc vận dụng triệt để các cách tổ chức và các
phương pháp đổi mới trong dạy học. Đặc thù của môn học Địa lí trong quá trình
dạy học môn học là không phải chỉ dừng ở chỗ học sinh hiểu và nhận diện được
kiến thức đã học mà điều quan trọng ở môn học là học sinh phải có khả năng
thẩm thấu kiến thức thông qua khả năng giải thích các kiến thức đã được khám
phá. Địa lí lớp 9 nhất là nội dung về các vùng kinh tế của chương trình trung học
cơ sở là một chương trình được xây dựng trên bộ khung kiến thức đổi mới.Vậy
nên nội dung chương trình này có nhiều điều kiện giúp quá trình dạy và học của
giáo viên và học sinh thực hiện được việc đổi mới phương pháp giáo dục triệt
để. Chương trình sách giáo khoa mới đã thực hiện triệt để mối quan hệ tương hỗ
giữa kênh chữ và kênh hình. Trong sách giáo khoa địa lí hiện hành đã đảm bảo
tỷ lệ thích hợp giữa lí thuyết với thực hành, bám sát yêu cầu tăng cường tính
thực tiễn và kĩ năng thực hành. Cấu trúc nội dung của sách gồm 2 phần chính đó
là phần bài viết và những thành tố ngoài bài viết, mỗi thành phần thực hiện một
số chức năng nhất định. Ngoài nội dung kênh chữ là phần cung cấp kiến thức
trực tiếp tới học sinh thì sách giáo khoa địa lí nói chung và địa lí 9 phần các
vùng kinh tế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Bản thân kênh hình trong
mỗi bài học đã góp phần trực quan hóa các nội dung mang tính trừu tượng, vừa
là nguồn cung cấp tri thức quan trọng, là cơ sở để hình thành và rèn luyện các kĩ
năng địa lí cho học sinh. Hệ thống kênh hình có vài trò hỗ trợ việc cung cấp kiến
thức, giảm tính trừu tượng của kiến thức.Tạo điều kiện cần thiết cho học sinh
thực hành để hình thành và rèn luyện kĩ năng. Góp phần đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Giúp cho
giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học kiến thức mới, rèn luyện kĩ năng.

Hỗ trợ giáo viên trong việc nâng cao kiến thức, kĩ năng và thiết kế bài dạy học.
Có thể thấy hệ thống kênh hình đã đáp ứng được khả năng thẩm thấu kiến
thức cho học sinh, chương trình cũng xây dựng nội dung đảm bảo tính cập nhật
6


vừa có tính thực tiễn đời sống qua việc tìm hiểu khám phá nội dung kiến thức
thông qua hệ thống kênh hình và từ đó các em có được những tư duy lô gic về
kiến thức cơ bản và khoa học. Hiểu sâu hơn được mối quan hệ nhân quả để rồi
các em có được những kết luận về những hiện tượng tự nhiên ảnh hướng tới
kinh tế, xã hội, văn hóa... Trên thực tế tại các trường ở một số giáo viên, qua
việc tôi được giao lưu học hỏi kinh nghiệm hội thi giáo viên dạy giỏi và hội thảo
chuyên môn môn Địa lí. Nhìn chung giáo viên chưa có được những kinh nghiệm
vận dụng các phương pháp dạy học hợp lí để khai thác kênh hình thực sự có
hiệu quả, nhiều khi giáo viên dạy dường như chưa xác định được vai trò và ý
nghĩa của việc vận dụng các phương pháp đổi mới vào việc tổ chức khai thác
kiến thức trong quá trình dạy học. Việc khai thác và sử dụng kênh hình hầu như
chưa cần phải sử dụng các phương pháp đổi mới. Mà chỉ coi như một thứ đồ
dùng để trưng bày gây hứng thú trong giờ học với học sinh. Người dạy không
tạo cho được ở học sinh việc hiểu biết rằng kênh hình cũng là huyết mạch cùng
chảy trong sự sống của kiến thức trong chương trình. Vậy nên ở một số tiết dạy
vận dụng phương pháp đổi mới khi khai thác kênh hình là hạn hữu. Hầu như chỉ
sử dụng theo kiểu đồ dùng, khi nào cần thì đưa ra, và đưa ra không cần bàn cãi.
Giáo viên sử dụng kênh hình lúc này có vai trò là mô hình, vật trang trí, vận
dụng kênh hình thực chất chỉ xem như là vấn để phục vụ cho minh họa thôi. Nếu
thế thì thật đáng tiếc, bởi lẽ việc sử dụng và khai thác kiểu không hiểu ý đồ của
xây dựng chương trình như vậy thì việc đổi mới phương pháp và nội dung
chương trình đến bao giờ sẽ đáp ứng được yêu cầu và trách nhiệm của giáo dục.,
bao giờ theo kịp được nền giáo dục hiện đại để xây dựng nền kinh tế công
nghiệp hiện đại. Cơ hội cho học sinh tích cực, tự giác, sáng tạo đã bị mất đi và

đâu còn là đổi mới và vô tình chung người giáo viên đó đã làm giảm đi tính ưu
việt của nội dung chương trình đổi mới. Hoặc đôi khi giáo viên hiểu và biết rõ
được vai trò của kênh hình đấy nhưng vận dụng trong quá trình dạy học lại chỉ
thực hiện với một thói quen chiếu lệ, sơ qua...Tất cả những việc làm đó đều tập
trung mang nặng hình thức và xem thường chất lượng. Nguyên nhân ở đây thiết
nghĩ có nhiều nguyên nhân: Do thói quen phong cách và phương pháp cũ, do
động cơ dạy học đổi mới chưa cao, do nhiều nhân tố khách quan khác... Song
7


thực tế yêu cầu đổi mới ngành giáo dục đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ và toàn
diện. Nhất là phải đổi mới về phương pháp và thực tế cho thấy thành công của
yêu cầu này là khả năng vận dụng đổi mới các phương pháp dạy học. Trong
nhóm các phương pháp dạy học tích cực thì phương pháp dạy học Nêu và giải
quyết vấn đề được đánh giá là phương pháp tạo cho học sinh có được khả năng
tự giác tích cực nhiều hơn, đảm bảo được việc rèn rũa kĩ năng sống và giáo dục
được các giá trị sống nhiều cho các em.Và thông qua phương pháp dạy học này
học sinh tự thấy mình được làm chủ tư duy, sáng tạo và nghiên cứu phần nội
dung kiến thức chúng được khám phá tìm hiểu. Vấn đề vận dụng phương pháp
dạy học theo các phương pháp đổi mới còn rất hạn hữu và việc sử dụng phương
pháp nêu vấn đề thực tế ở môn Địa lí và các môn học khác qua khảo sát điều tra
tôi thấy thực sự chưa hiệu quả và còn ít người quan tâm. Vì vậy tôi quyết định
đưa ra những kinh nghiệm về việc: “Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn
đề để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa phần các vùng kinh tế trong
địa lý lớp 9”. Trong tình hình giáo dục hiện nay việc đổi mới phương pháp đang
trở thành vấn đề cần thiết. Đây là giai đoạn mà nền kinh tế tri thức đang phát
triển rực rỡ, và sự bùng nổ về công nghệ thông tin đang trở thành vấn đề đang
nở rộ chính vì lẽ đó các em cần phải biết sâu sắc hơn nữa về các kiến thức đơn
giản nhất. Các em lại càng cần phải có khả năng giải quyết tốt được các vấn đề
các tình huống từ trong trang sách. Để các em có định hướng tốt những bước đi

của cửa ngõ cuộc đời. Làm được vậy các em mới hiểu được giá trị của trang
sách và hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc học đối với cuộc sống. Từ đó các em thấy
được giá trị đích thực của việc tìm và tự khám phá kiến thức. Để rồi trau rồi
thêm cho các em lòng ham mê học tập và tìm tòi hiểu biết khám phá tri thức tự
giác và độc lập. Điều đó có nghĩa là trước mỗi mảng kiến thức các em cần phải
biết và hiểu sâu sắc những kiến thức mà chúng được học hỏi khám phá. Vì vậy
tôi đã tập trung đầu tư trí tuệ, kinh nghiệm để làm tốt vấn đề có tính chất quyết
định này.
2. Tính mới và tính sáng tạo của sáng kiến.
Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí, là phải nâng cao được chất lượng
dạy học địa lí được thể hiện ở chỗ học sinh tiếp thu nội dung bài học tốt hơn,
8


nắm vững kiến thức địa lí hơn các kĩ năng thực hành và trí tuệ được hình thành
và phát triển tốt hơn. Và rồi các phẩm chất mới của học sinh được hình thành,
củng cố và phát triển mạnh mẽ hơn.
Việc đổi mới phương pháp dạy học thực sự sẽ tạo cho quá trình dạy học
địa lí có một chất lượng tốt và một hiệu quả cao hơn so với dạy học theo kiểu
cũ. Vì vậy, chất lượng tốt, hiệu quả cao của dạy học là hai tiêu chuẩn hàng đầu
để đánh giá thành công của quá trình đổi mới phương pháp dạy học của giáo
viên địa lí.
Đổi mới phương pháp dạy không chỉ là đổi mới phương pháp dạy học
( cách dạy)của thầy mà còn phải quan tâm đến phương pháp học (cách học) của
trò, “phải dạy cách tự học” cho học sinh. Từ đó hình thành cho học sinh năng
lực tự học để họ có thể tự bổ sung kiến thức học thường xuyên học suốt đời.Vì
vậy người giáo viên cần phải chú ý đến cách tổ chức đa dạng hóa các hình thức
dạy- học, và đổi mới phải chú ý đến đặc trưng về nội dung và phương pháp của
môn học, phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy
học, Ngoài những phương pháp chung có thể sử dụng ở nhiều môn học khác

nhau thì việc sử dụng phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong
dạy học bộ môn. Mặt khác cũng cần quan tâm tới đổi mới kiểm tra và đánh giá
kết quả học tập của học sinh. Vì kiểm tra đánh giá kết quả dạy học sẽ có tác
dụng thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.
Viết kinh nghiệm này tôi không có tham vọng sẽ làm một công trình
nghiên cứu khoa học về phương pháp dạy học trong quá trình dạy học. Mà cũng
chỉ là bày tỏ một chút kinh nghiệm do kĩ năng sử dụng của bản thân trong việc
vận dụng và thực hiện các phương pháp dạy học tích cực theo định hướng đổi
mới một phương pháp dạy học phổ biến để hướng dẫn học sinh tìm hiểu và
khám phá kiến thức bằng cách :“Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề
để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa phần các vùng kinh tế trong địa
lý lớp 9” Với mong muốn rằng từ kinh nghiệm này sẽ giúp cho các đồng nghiệp,
những đồng nghiệp của tôi trong việc trồng người cùng tranh thủ sự hợp tác
trong quá trình thực hiện đổi mới của Bộ giáo dục có hiệu quả và nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học trong tình trạng hiện nay. Nó mới ở chỗ là cách thức tiến
9


hành và trao đổi, cách vận dụng linh hoạt trên các bài học mỗi giáo viên khi vận
dụng không quá cầu kì, không quá máy móc..., và mới còn thể hiện ở chỗ kết
quả đạt được là kết quả hiển nhiên đã biết, thúc đẩy mạnh nâng cao chất lượng
dạy học của nước nhà, cũng đồng nghĩa thúc đẩy ý thức học tập và tu dưỡng
luyện rèn của học sinh được đều đặn thường xuyên và có hiệu quả.Và góp phần
cho lớp lớp học trò của ngành giáo dục có một cách học và khám phá kiến thức
mới thực tế hơn, gần gũi hơn, góp phần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho các em. Để rồi các em tiếp thu được bài học một
cách tốt hơn, nắm vững kiến thức địa lí, các kĩ năng thực hành, trí tuệ được phát
triển tốt hơn. Từ đó góp phần hình thành các phẩm chất mới ở các em. Các em

sẽ ham mê nghiên cứu tìm hiểu và khám phá về Địa lí, không chỉ trong nghiên
cứu mà còn trong cuộc sống, trong các ngành kinh tế. Từ đó có ý thức học tập
phấn đấu và rèn luyện để góp phần xây dựng quê hương đất nước, thêm yêu hơn
về Việt Nam- Đất nước- Con người để nâng cao chất lượng và trình độ dạy học
của ngành giáo dục nước nhà. Từ động cơ đó tôi tập trung nghiên cứu, đổi mới
và đã rút ra kinh nghiệm về “Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong
khai thác kênh hình phần các vùng kinh tế trong sách giáo khoa Địa lý lớp 9”.
3. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Kinh nghiệm tập trung đi sâu vào việc vận dụng phương pháp dạy học
nêu vấn đề để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa phần các vùng kinh tế
trong sách giáo khoa địa lý lớp 9. Thông qua cách tổ chức và cách thức tiến
hành song song với nội dung kênh chữ của bài học. Mỗi thầy cô giáo sẽ có
những cách thức khéo léo để triển khai phần kênh thông tin này có hiệu quả, từ
đó có ý thức tiến hành đổi mới phương pháp tích cực thường xuyên. Nhằm nâng
cao chất lượng học và chất lượng dạy của toàn ngành giáo dục đáp ứng được
yêu cầu giáo dục phải đi trước một bước.
Tôi tiến hành vận dụng phương pháp nêu vấn đề cho học sinh giải quyết
các vấn đề thông qua hệ thống các loại kênh hình ở phần các vùng kinh tế trong
sách giáo khoa địa lí lớp 9 mà tôi đang trực tiếp dạy. Trước tiên chúng ta phải
xác định được các đối tượng mà chúng ta vận dụng sẽ gồm có những gì?
10


Tôi đã dùng cách thống kê thông thường bằng cách thống kê các con số
mà anh chị em giáo viên chúng ta vẫn đang làm. Tôi thống kê được hệ thống
kênh hình mà tôi cần thiết phải vận dụng nó gồm:
+ Tranh ảnh địa lí
+ Bảng biểu số liệu thống kê
+ Biểu đồ
+ Lược đồ

+ Bản đồ
+ Sơ đồ
+ Bảng về các tiêu chí.
4. Thực trạng sáng kiến:
a.Những thuận lợi và khó khăn
Nhiều năm nay, trong quá trình cải cách và phát triển giáo dục ở nước ta,
mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đã được thay đổi nhiều lần cho phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công việc đó đã đạt được những tiến
bộ đáng kể. Còn về mặt phương pháp, những thay đổi phương pháp giảng dạy
và học tập nói chung còn quá ít và còn quá chậm trong đội ngũ giáo viên của các
nhà trường. Kế thừa những tư tưởng giáo dục đã từng xuất hiện trong lịch sử sư
phạm, đã tồn tại quan điểm giáo dục lấy thầy làm trung tâm đã tồn tại khá lâu,
và với khuynh hướng phương pháp đó đã cho thấy có nhiều nhược điểm cần
phải thay đổi và điều chỉnh. Phương pháp dạy học truyền thống là phương pháp
giáo dục thụ động lấy thầy làm trung tâm và hoạt động chủ yếu ở phương pháp
đó sẽ là:
+ Giáo viên truyền đạt kiến thức
+ Giáo viên độc thoại phát vấn
+ Giáo viên áp đặt kiến thức có sẵn
+ Học sinh học thuộc lòng
+ Giáo viên độc quyền đánh giá cho điểm cố định.
Và thực hiện thông qua 3 nhóm phương pháp truyền thống: Phương pháp
dùng lời,phương pháp trực quan,phương pháp thực tiễn. Bản chất của các nhóm
phương pháp này chỉ tập trung vào vai trò của người thầy chủ động truyền đạt
kiến thức, và hoàn toàn lấy giáo viên làm trung tâm. Nên trong những năm làm
11


công tác giảng dạy tôi thấy đã có một số giáo viên dường như họ coi việc thuần
thục kiến thức và thể hiện được càng nhiều kiến thức của mình trước học sinh là

niềm đáng tự hào, trong một giờ học thầy có khả năng thuyết trình càng nhiều
dung lượng kiến thức càng quý. Thậm chí bản đồ, hệ thống kênh hình trong sách
giáo khoa có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ và cung cấp kiến thức, tạo
điều kiện cho học sinh thực hành, và giúp giáo viên việc nâng cao kiến thức cho
học sinh lại được một số giáo viên biến nó trở thành hình ảnh chỉ có ý nghĩa cho
việc mô tả, quan sát do nhận biết mà thôi. Bên cạnh đó, thông qua dự giờ học
hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp của mình trong huyện và qua việc tham dự
các kì thi giáo viên, rồi những buổi tổ chức hội thảo chuyên đề do phòng giáo
dục chỉ đạo. Tôi thấy việc tổ chức thực hiện khai thác kênh hình trong giờ học
địa lí của các đồng nghiệp trong huyện nhà dường như mới chỉ dừng ở việc coi
kênh hình là những hình ảnh minh họa cho nội dung kênh chữ trong bài học mà
thôi. Mà trên thực tế yêu cầu trong một tiết dạy địa lí người giáo viên cần cho
học sinh tìm hiểu và khắc sâu kiến thức trên cơ sở từ kênh chữ và kênh
hình.Tiến hành một giờ học người giáo viên cần phải vận dụng và phối kết hợp
nhiều phương pháp để dạy học. Nhưng xưa nay giáo viên chúng ta vẫn lệ thuộc
theo phương pháp cũ theo lối truyền thụ một chiều. Giáo viên giữ vai trò chủ
đạo trong việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, điều đó có nghĩa là chưa rèn
cho học sinh kĩ năng tự học, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, và điều
quan trọng hơn là chất lượng giáo dục không thể cải thiện. Mà đáng buồn hơn là
quá trình giáo dục diễn ra tẻ nhạt, nhàm chán không gây được hứng thú cho học
sinh. Chính vì vậy tôi đã quyết định tiến hành phổ biến kinh nghiệm của bản
thân mình với các đồng chí về việc “vận dụng đổi mới phương pháp dạy học
theo phương pháp dạy học nêu vấn đề để khai thác kiến thức từ kênh hình
cho học sinh,và thực nghiệm dạy học đổi mới phương pháp theo hướng tích
cực lấy học sinh làm trung tâm còn bản thân mỗi giáo viên chúng ta sẽ không
còn là những người cứ nhồi nhét, truyền đạt kiến thức một chiều cho học sinh
mà ngược lại chúng ta những thầy cô giáo sẽ giữ vai trò quyết địnhtrong quá
trình dạy học và đặc biệt trong việc định hướng giáo dục. Bởi lẽ chúng ta cần
12



biết rằng không một hệ thống giáo dục nào có thể vươn cao quá tầm những giáo
viên làm việc trong hệ thống đó. Vì với việc vận dụng phương pháp này người
giáo viên không chỉ còn là người truyền đạt, thông báo những tri thức rời rạc,
mà là người lãnh đạo, tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh,
người hướng dẫn, người cố vấn, người mẫu mực của người học. Để đạt được
điều đó, hoạt động của người giáo viên đa dạng hơn, phức tạp hơn và khó khăn
hơn nhiều. Nếu thiếu tình cảm nghề nghiệp, tình cảm đối với học sinh, thiếu tri
thức sâu và rộng, thiếu kĩ năng sư phạm thì người giáo viên không thể hoàn
thành được nhiệm vụ cao cả đó. Ta có thể so sánh thì sẽ thấy được thực tế hai
quan điểm giáo dục đó có sự khác nhau như sau:
Bảng so sánh giữa 2 quan điểm giáo dục
Các phương pháp giáo dục thụ động lấy học

Các phương pháp giáo dục tích cực, lấy học

sinh làm trung tâm

sinh làm trung tâm.
1. Học sinh tự tìm ra kiến thức bằng hành

1. Giáo viên truyền đạt kiến thức
2.Giáo viên độc thoại phát vấn
3. Giáo viên áp đặt kiến thức có sẵn
4. Học sinh chỉ việc học thuộc lòng
5.Giáo viên độc quyền đánh giá, cho điểm

động của chính mình.
2. Đối thoại học sinh- học sinh; học sinhgiáo viên; hợp tác với bạn, hoc bạn.
3.Hợp tác với giáo viên, khẳng định kiến thức

do bản tìm ra.
4. Học cách học, cách giải quyết vấn đề, cách
sống và trưởng thành.
5. Tự đánh giá, tự điều chỉnh, làm cơ sở để

cố định.
giáo viên cho điểm cơ động.
6. Trình độ phát triển nhận thức thấp, chủ 6. Trình độ phát triển cao hơn ở các lĩnh vực
yếu học sinh ghi nhớ thông tin và sự kiện. nhận thức, tình cảm, hành vi. Học sinh tự tin,
Học sinh phụ thuộc vào tài liệu. Chấp nhận có tinh thần phê phán. Biết xác định các giá
các giá trị truyền thống.

trị....

- Những thuận lợi: Điểm tích cực của đổi mới phương pháp đã nhận thấy
cụ thể thông qua bảng so sánh. Song qua trình tiến hành đổi mới phương pháp
tôi đã gặp không ít khó khăn. Khó khăn thứ nhất là mình cần phải chủ động đổi
mới cách thức dạy phải cụ thể, thường xuyên, liên tục trong mỗi một bài học,
một nội dung. Điều quan trọng là thực sự coi đây là việc cần thiết, phải đầu tư
về thời gian và cần thực nghiệm qua thực tế để so sánh với nhiều đối tượng học
sinh, thăm dò và nhận thức của nhiều đối tượng học sinh để chứng minh khả
13


năng tích cực của việc vận dụng phương pháp. Giáo viên cần chủ động về cách
thức tiến hành tổ chức, chuẩn mực về kiến thức để sẵn sàng đối phó với các tình
thuống có thể xảy ra khi tiến hành tổ chức hợp tác với học sinh. Nên việc phát
vấn và xây dựng hệ thống câu hỏi làm sao vừa kích thích được hứng thú cho học
sinh vừa đảm bảo được thời gian, nêu các vấn đề, xử lí thông tin, tổ chức cho
học sinh thảo luận và tìm các giải pháp khắc phục.

- Những khó khăn: Đây là vấn đề không đơn giản đối với một giáo viên
trong một thời gian ngắn ngủi để tổ chức một tiết dạy. Đôi khi trong giờ dạy học
người giáo viên mải mê tiến hành việc đổi mới phương pháp và thực hiện đổi
mới phương pháp để rồi giờ dạy kéo dài quá giờ cho phép, vô tình ta đẫ làm quá
tải các em. Như vậy chuyển đổi phương pháp theo xu hướng tích cực, theo định
hướng đổi mới là một vấn đề giáo viên phải thực sự có một sự quyết tâm trong
định hướng dạy học. Nhất là phải có một sự tổ chức khéo léo và linh hoạt để
thực hiện khi dạy một giờ học. Làm sao để mọi đối tượng học sinh của mình đều
phải hứng thú, say mê và nhiệt huyết. Để tất cả các em sẽ chủ động trong việc
học tập và nghiên cứu, không còn có tình trạng học sinh bị động trong quá trình
tìm hiểu nghiên cứu học tập, các em không còn ỷ lại trong việc nhận thức, các
em không cần phụ thuộc vào tài liệu học tập như sách Để học tốt, sách bài
tập.Thiết nghĩ định hướng đổi mới đang diễn ra với tinh thần tích cực và đang là
một xu thế chung trong sự phát triển của xã hội và trên toàn thế giới.Thay đổi
chất lượng giáo bắt buộc phải đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, vậy
tôi bắt đầu quyết tâm tiến hành thực hiện đổi mới phương pháp. Tôi đã tiến hành
đầu tư nghiên cứu việc đổi mới phương pháp, trong nhiều phương pháp đổi mới
và tổ chức định hướng hướng đổi mới, tôi thấy phương pháp dạy học nêu và
giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học tích cực. Vì phương pháp dạy học này
là phương pháp dạy học mà đáp ứng được yêu cầu phát huy được năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Dạy học phát hiện và giải
quyết vấn để ngày nay còn trở thành mục đích của dạy học, được cụ thể hóa
thành một số thành tố của mục tiêu là năng lực giải quyết vấn đề, năng lực có vị
14


trí quan trọng hàng đầu để con người thích ứng được với sự phát triển của tương
lai.
Đặc trưng nội dung chương trình Địa lí ở bậc trung học cơ sở nói riêng và
các ngành học nói chung, đều có sự đan xen nội dung kiến thức giữa kênh chữ

và kênh hình. Việc khai thác tìm hiểu kiến thức từ kênh chữ trong quá trình dạy
và học của học sinh là việc làm đơn thuần, không mấy khó khăn nhưng môn địa
lí đặc trưng kiến thức cơ bản được thể hiện không chỉ ở kênh chữ mà còn ở cả
kênh hình. Nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải biết khai thác hài hòa, hợp lí
mới đảm bảo chất lượng dạy và học, và mới đáp ứng với yêu cầu đổi mới nội
dung và phương pháp hiện nay. Song trên thực tế hiện nay nhiều khi giáo viên
chúng ta lại vô tình chỉ vì một lí do nào đó, một thói quen nào đó mà mỗi giáo
viên chúng ta đã quên đi một việc làm có ý nghĩa và quan trọng vô cùng là cho
học sinh khai thác kênh hình.Thậm chí thực hiện công đoạn này nhưng quá trình
thực hiện lại còn rất hạn chế và không chánh khỏi lúng túng.Vậy là chưa tạo ra
cho học sinh thói quen tự học, tự giác sáng tạo, và khả năng thẩm thấu kiến thức
thông qua việc phát hiện, giải quyết kiến thức từ kênh hình.
Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy việc tổ chức dạy học và tiến hành hướng
dẫn cho học sinh khai thác được dung lượng kiến thức từ kênh hình là việc làm
đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực sư phạm, tư duy, và cách tiến hành tổ
chức thống nhất và thuyết phục thì mới có thể tổ chức hiệu quả được việc dạy và
học được một giờ địa lí. Trong thực tế những năm học trước đây, nhìn chung
chất lượng đại trà trong giáo dục còn thấp, hầu như người giáo viên cũng chưa
có điều kiện tiếp cận trong nền khoa học công nghệ, thông tin hiện đại và yêu
cầu đổi mới cũng chưa thực sự là bức thiết. Nên ngay bản thân tôi cũng chưa
thực sự chú ý đến việc đổi mới các phương pháp giáo dục. Đồng thời trong giai
đoạn đó chương trình đổi mới giáo dục cũng chưa tiến hành đồng bộ. Năm học
2002- 2003 chúng ta đồng loạt thực hiện đổi mới chương trình mục tiêu giáo dục
trong đó đi sâu vào đổi mới phương pháp giáo dục và chương trình nội dung
giáo dục. Mỗi lớp học có một yêu cầu về nội dung chương trình, và với lớp 9
phần các vùng kinh tế thì yêu cầu về nội dung chương trình có sự phối hợp chặt
15


chẽ giữa kênh chữ và kênh hình. Chương trình này nối tiếp nội dung chương

trình lớp 8 và chứng minh cho nội dung tự nhiên lớp 8 có ảnh hưởng như thế
nào đối với kinh tế xã hội. chuẩn bị cho nội dung chương trình lớp 12 các em sẽ
học tiến tới ở bậc trung học phổ thông. Trong đó nội dung cơ bản phần các vùng
kinh tế việt Nam của lớp 9 sẽ là phần kiến thức tổng thể các em có thể tư duy về
mô hình kinh tế vĩ mô của đất nước theo thế mạnh riêng biệt từng vùng.Học sinh
sẽ nắm và hiểu biết được về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, tình
hình phát triển kinh tế của vùng và có những dự định, giải pháp để xây dựng
phát triển cho vùng. Trong sách giáo khoa địa lí lớp 9phần các vùng kinh tế, nội
dung mỗi phần học, bài học, mỗi đơn vị kiến thức đều có sự thể hiện của cả
kênh hình và kênh chữ. Phần kênh chữ chủ yếu là nguồn tri thức để dựa vào đó
giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, tìm tòi, phát hiện các kiến thức... Học
sinh thường phải dựa và việc quan sát các tranh ảnh, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ,
bảng số liệu... để tìm kiếm những thông tin bổ sung cho kênh chữ, khai thác kiến
thức từ các kênh hình đó. Và việc khai thác kiến thức từ kênh hình vẫn còn rất
qua loa chiếu lệ, lí do cơ bản giáo viên vẫn coi trọng việc tung nội dung thông
tin kiến thức cho các em, minh họa mô phỏng cho các em theo chiều hướng nhồi
nhét, các em ì lại, không lo, không nghĩ, ghi - nhớ và quên cứ lặp đi lặp lại và
phát lại cũng vô thức. Nên thông qua thực tế các cách dạy đó không đem lại kết
quả cần thiết đáp ứng yêu cầu của thời đại. Tôi đã thực hiện vận dung các
phương pháp đổi mới theo hướng tích cực và áp dụng vào việc vận dụng nó để
dạy học sinh tìm hiểu và khai thác kênh hình. Tôi nhận thấy kết qủa hơn trội của
vận dụng phương pháp đổi mới vào dạy cao hơn và thích thú các em hơn nhiều
so với việc không vận dụng phương pháp nêu vấn đề. Tôi dùng phép so sánh đối
chiếu so sánh kết quả trước khi chưa vận dụng phương pháp nêu vấn đề và sau
khi thực hiện phương pháp nêu vấn đề để khai thác kênh hình. Kết quả đạt được
của việc dạy học khi vận dụng phương pháp nêu vấn đề đã đáp ứng được mục
tiêu của quá trình dạy học. Thông qua việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề
các giờ học đã thực sự tạo nên một chuỗi những “ tình huống có vấn đề”, “tình
huống học tập” và điều khiển học sinh giải quyết các những vấn đề học tập đó.
16



Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học,
phát triển năng lực tư duy sáng và hình thành cơ sở khoa học, phát triển năng
lực tư duy sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học.
Học sinh đã giải quyết được các “tình huống vấn đề” hay “ tình huống học
tập”. Đó là các em đã gặp phải tình huống khó khăn giải quyết mà tri thức đã có,
bằng cách thức đã biết các em không thể thực hiện được mà đòi hỏi phải lĩnh hội
tri thức mới và cách hành động mới. Thông qua tiết dạy thực nghiệm vận dụng
phương pháp này học sinh đã có tâm lí mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều
chưa biết và rất muốn biết.
Ở các tiết thực nghiệm này học sinh của tôi có thể giải quyết được các tình
huống nghịch lí: Tức là học sinh tự giải quyết được vấn đề khi đứng trước một
sự lựa rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.
Học sinh thực nghiệm của tôi cũng đã thực hiện được các tình huống bác
bỏ : tức là các em đã giải quyết được tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một
luận điểm kết luận sai lầm. Và đề giải quyết được vấn đề này các em đã xác
định được và tìm ra được chỗ yếu, chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm
hoặc kết luận đó, đồng thời các em đã chứng minh được tính chất sai lầm của
luận điểm đó.
Ngoài ra trong các tiết dạy các em đã làm quen đươc tình huống “ tại sao”
dù là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học và dạy học. Thông qua
việc vận dụng kiến thức và kĩ năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra. Các em
đã tìm được mối liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên
nhân dẫn đến kết quả đó.
b. Những lợi ích từ việc vận dụng sáng kiến: Đối chiếu kết quả trước và
sau khi tiến hành thực nghiệm nếu trước kia chất lượng nắm bắt sâu sắc kiến
thức của học sinh thông qua giờ học của chỉ đạt 35- 45% thì sau khi tôi thực
hiện đổi mới tỷ lệ đó đã có sự thay đổi hẳn lên tới 65- 78% thậm chí lên tới 80%
là học sinh biết khai thác và sử dụng kênh hình sâu sắc và có hiệu quả. Năm học

gần đây tôi đã thực hiện nghiên cứu vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề
trong khai thác kênh hình để dạy học môn địa lí ở các khối lớp nhưng đi sâu vào
17


tìm hiểu và thực hành ứng dụng trong dạy học địa lí kinh tế lớp 9. Một nội dung
kiến thức khá gần gũi với học sinh thông qua tư duy thực tế. Điều tôi nhận thấy
là nhờ áp dụng dạy theo đổi mới phương pháp mà các học trò của tôi trong giờ
học có chất lượng và am hiểu kiến thức thực tế sâu sắc hơn các em thấy việc học
ý nghĩa và ham khám phá tìm hiểu. Năm học 2013-2014 là năm học đặt ra với
nhiều nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới dạy và học đồng thời cũng
là năm hứa hẹn những thành công đối với ngành giáo dục trong nhiệm vụ xây
dựng đất nước. Để nhiệm vụ đó trở thành hiện thực mỗi một giáo viên cần nhận
rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới giáo dục. Và tôi
cũng mạo muội đưa ra kinh nghiệm của mình về việc Vận dụng phương pháp
dạy học nêu vấn đề để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa phần các
vùng kinh tế ở Địa Lý lớp 9. Tôi đã tiến hành thực hiện và triển khai kinh
nghiệm này.
Điều ta dễ nhận thấy trên thực tế hiện nay ở một số trường học việc học tập
môn Địa lí đôi khi chưa được chú trọng cho dù trong một vài năm gần đây
Phòng giáo dục kết hợp cùng Sở giáo dục đã liên tiếp tổ chức các kì thi chọn
giáo viên giỏi cấp huyện đã thôi thúc giáo viên tích cực đầu tư nghiên cứu đổi
mới phương pháp. Song vẫn còn một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến
chuyên môn, rồi việc học sinh cũng chưa chú ý học, vẫn coi đó là môn học phụ
chưa để tâm học, xem nhẹ việc nghiên cứu, và xác định động cơ học chỉ là qua
loa, chỉ là đối phó. Hiện đã có những tiết dạy chất lượng rất tốt thông qua đổi
mới và nhờ sử dụng phương pháp dạy học tích cực. Dẫu vậy vẫn tồn tại khá
nhiều những tiết học hiệu quả chưa cao, chất lượng dạy và kết quả học còn thấp
so với yêu cầu chung của đổi mới. Nhất là việc vận dụng các phương pháp đổi
mới vào việc khai thác kiến thức từ kênh hình bằng phương pháp tích cực còn

chưa thỏa đáng, giáo viên chỉ xem việc sử dụng tranh ảnh, kênh hình như một
đáp án sẵn mà không hề có một lí do giải thích. Giáo viên cũng không tạo ra
đươc cho học sinh những tình huống có vấn đề, những tình huống để các em
hoạt động và học tập. Vì vậy việc nhận thức kiến thức từ kênh hình giống như
việc được xem phim và chỉ cần xem xong là cũng quên hết. Không thấy mấy khi
những giờ học mà giáo viên yêu cầu đòi hỏi các em phải nghiên cứu lí giải và
18


khám phá. Năm học 2013-2014 tôi tiến hành khảo sát trên tổng số 18 giờ có tới
14 giờ việc làm này coi như xem qua. Cũng hiếm khi có giờ học mà các em
được tập trung đấu tranh suy luận yêu cầu mình phải thắc mắc, lí giải. Chính
điều đó khiến các em coi môn học Địa lí đơn điệu, không có tính thực tiễn mà lẽ
ra môn học phải có. Dẫn đến môn học trở thành không có sức lôi cuốn và hấp
dẫn với các em. Vô tình chung giáo viên đã lại quay ngược trở về phương pháp
dạy học truyền thống, thầy giáo giảng giải thuyết trình nặng về mô tả, liệt kê các
sự vật hiện tượng. Trong phần địa lí các vùng kinh tế lớp 9 Đòi hỏi các em phải
có những suy nghĩ vừa trí tuệ vừa thực tiễn, có tầm hiểu biết và vận dụng kiến
thức thông qua các hoạt động học tập, cần thiết được giải quyết các tình huống
khám phá tri thức. Để thẩm thấu và giải quyết được các mối liên hệ tương quan
giữa tư nhiên - xã hộị, giữa kinh tế - chính trị, giữa dân số - môi trường giữa
thuận lợi - khó khăn. Học sinh cần phải có sự tập hợp lại các kiến thức đã học từ
năm trước, những vấn đề cập nhật mang tính thời sự của xã hội. Thế nghĩa là
học sinh phải giải thích được bằng tư duy suy luận cùng với việc giải quyết là
phải thực nghiệm vấn đề. Như vậy để môn học đạt hiệu quả cao giáo viên phải
có phương pháp và đường đi cụ thể thiết thực tránh mơ hồ. Để thực hiện được
những yêu cầu nói trên, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giờ học, bằng cách
thực hiện phương pháp giáo dục thông qua hoạt động dự giờ thăm lớp các đồng
nghiệp trong và ngoài nhà trường, đối với những tiết học không được thực hiện
vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong khai thác kênh hình. Trước hết

tôi tiến hành khảo sát kết quả học tập ở các tiết học về những kiến thức liên quan
việc hiểu và vận dụng từ việc khai thác kênh hình. Sau đó tôi tiến hành dự giờ
các giờ dạy học môn Địa lí phần các vùng kinh tế ở các trường trong cụm thông
qua đợt giao lưu và trao đổi thảo luận. Trong các dịp học hỏi kinh nghiệm của
các đồng nghiệp. Kết quả thu về sau các tiết được dùng để kiểm nghiệm tổng số
là 15 tiết học thì kết quả có tới 11 tiết học chỉ đánh giá được là: Hoàn thành
chương trình. Vì chất lượng nắm bắt kiến thức của các em rất mơ hồ và hiệu quả
giờ học không thể coi là đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp. Không thể
chịu trách nhiệm được giao phó là giáo dục cần đi trước một bước. Thông qua
các tiết dạy cho thấy giáo viên mới chỉ truyền thông hệ thống kiến thức được
19


xây dựng trong chương trình. Giáo viên chưa hề cho học sinh giải quyết các vấn
đế còn bỏ ngỏ, cần các em có các kế sách, giải pháp và trách nhiệm của con
người làm chủ quê hương, đất nước. Nhìn chung hầu như việc khai thác kênh
hình trong sách giáo khoa hầu như còn mờ nhạt, học sinh chưa hiểu được bản
chất kiến thức từ kênh hình. Điều đó có nghĩa là dung lượng kiến thức của
chương trình đang bị đánh giá chưa đúng hết vai trò của nó. Nguyên nhân cơ
bản ở đây giáo viên sử dụng phương pháp trực quan, hoặc vấn đáp, đôi khi chỉ là
thuyết trình hoặc mô tả. Giáo viên chưa hề đưa ra các vấn đề bắt các em muốn
hiểu được thì cần phải động não, suy nghĩ, lí giải. Hậu quả là các em hiểu kiến
thức từ kênh hình trong sách giáo khoa còn thụ động chưa phát huy khả năng tự
học tự sáng tạo của mình. Nắm được nội dung ý nghĩa vai trò của kênh hình để
thu nhận kiến thức thể hiện còn mơ hồ trong suy nghĩ và nhận thức của học sinh.
Như thế có nghĩa là chưa xây dựng được con người độc lập sáng tạo. Chưa đáp
ứng yêu cầu đổi mới của ngành. Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng nắm bắt và
hiểu sâu sắc kiến thức từ kênh hình để lí giải thực tiễn ở 8 lớp học sau 2 năm
thực hiện kinh nghiệm và thu được kết quả cụ thể như sau:
Năm học 2011-2012:

Lớp

Tỷ lệ nắm được nội dung
kênh hình của học sinh
( Nhận biết)

Tỷ lệ hiểu sâu sắc kiến
thức kênh hình của học
sinh khi khai thác
( Thông hiểu)

Tỷ lệ tự tìm hiểu kiến
thức kênh hình
( Vận dụng)

9A
9B
9C
9D

72%
60%
57%
58%

34,4%
28,6%
26,2%
22,8 %


42%
36%
33 %
30%

Lớp

Tỷ lệ nắm được nội dung
kênh hình của học sinh
( Nhận biết)

Tỷ lệ hiểu sâu sắc kiến
thức kênh hình của học
sinh khi khai thác
( Thông hiểu)

Tỷ lệ tự tìm hiểu kiến
thức kênh hình
( Vận dụng)

9A
9B
9C
9D

88%
78%
77%
68%


44,4%
38,6%
36,2%
32,8 %

43%
36%
35 %
34%

Năm học 2012-2013:

20


Phân tích kết quả từ bảng trên chúng ta thấy được việc khai thác và nắm
bắt kiến thức từ kênh hình của học sinh chưa thực sự có hiệu quả, nó rất mâu
thuẫn. Từ kết quả bảng phản ánh và cho ta thấy đại trà đa số các em đều có thể
nhận biết được nội dung kiến thức được trình bày trong các tranh ảnh, lược đồ,
biểu đồ, sơ đồ, bảng số liệu...hoặc bảng biểu trong sách giáo khoa nhưng đáng
buồn nhất là việc nắm bắt kiến thức đó hoàn toàn là dạng nhận biết mà chưa hề
được thông hiểu. Tỷ lệ các em biết khá cao song nó mâu thuẫn với tỷ lệ em hiểu
quá lớn giữa 4 lớp: 9A,9B, 9C,9D. Và dù có sự thay đổi sau 2 năm khảo sát
nhưng kết quả đó cho thấy đây không được coi là kết quả ngành giáo dục ta cần.
Chúng ta đồng ý không phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
không có nghĩa là gạt bỏ tất cả các phương pháp dạy học truyền thống. Nhưng
để đáp ứng được yêu cầu của sự đổi mới thì những con người mà giáo dục đào
tạo ra phải là những người mới, thông minh, sáng tạo, thích ứng, thích ứng được
với yêu cầu mới của thời đại, có tri thức khoa học - công nghệ tiên tiến, có kĩ
năng, kĩ xảo vững chắc, có ý thức nghề nghiệp để giải quyết“ trúng, nhanh,

sáng tạo” các nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra.
Trong khi thực tế hiện tại các tiết dạy của các giáo viên đang thực hiện
chưa cho học sinh giải quyết được vấn đề, chưa thấy mình có sự mâu thuẫn
trong nhận thức cần được giải quyết. Vậy làm sao các em có thể hiểu được mối
thống nhất giữa kênh hình với kênh chữ trong sách giáo khoa chúng bổ sung và
nâng cao cho nhau để rồi hình thành khả năng vận dụng thực tiễn của các em?
Thế là nhận thức của các em vẫn mơ hồ, lúng túng trong việc học tập và liên hệ
ngoài thực tế. Mà hầu như là nội dung kênh hình trong sách giáo khoa chiếm tỷ
lệ khá lớn. Nó có vai trò hết sức quan trọng để phản ánh nội dung bài học vì
thực tế nội dung chương trình sách giáo khoa mới kiến thức đã ẩn sâu trong
kênh hình mang giá trị thực tiễn. Nên muốn hiểu và khắc sâu được, học sinh
phải biết xác định và tìm ra nội dung kiến thức đó một cách chủ động, tự giác và
tích cực thì các em mới có thể say sưa với môn học. Để rổi yêu thích môn học.
Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề có khả năng giúp các em nhận
thức vấn đế thêm sâu sắc. Vân dụng phương pháp này trong khai thác kênh hình
21


sách giáo khoa phần các vùng kinh tế sẽ giúp các em xóa bỏ tư tưởng lệch pha
ngược chiều coi thường môn học, cho là môn phụ. Và kết quả môn học sẽ đạt
được một kì vọng mới về mẫu người học sinh có được sau quá trình giáo dục.
Tôi đã tiến hành thực hiện và nghiên cứu và viết ra kinh nghiệm này.
II- CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
Tôi đã tiến hành thực hiện kinh nghiệm này như sau:
1. Điều tra và vận dụng các mức độ của phương pháp dạy học nêu vấn
đề để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa phần các vùng kinh tế trong
địa lí lớp 9.
1.1 Điều tra các loại kênh hình trong sách giáo khoa phần các vùng kinh
tế trong địa lý lớp 9
a. Điều tra các loại kênh hình:

Chương trình Địa lí lớp phần các vùng kinh tế được thống kê gồm các loại
kênh hình sau:
- Các lược đồ trong sách giáo khoa Địa lí Lớp 9 phần kinh tế Việt Nam từ
phần sự phân hóa lãnh thổ bắt đầu từ bài 17 trang 61Vùng Trung du và miền núi
Bắc Bộ cho đến bài 37 Thực hành vẽ và phân tích biểu đồ về tình hình sản xuất
của ngành thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long: Gồm có hình 17.1; hình 18.1;
hình 20.1;hình 21.1; hình 23.1; hình 24.3; hình 25.1; hình 26.1; hình 28.1; hình
29.2;hình 31.1; hình 32.2; hình 35.1; hình 36.2 và các lược đồ này đều được in
màu. Nó có vai trò cung cấp cho học sinh những kiến thức về vị trí, giới hạn,
hình dạng lãnh thổ, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, đặc điểm về
dân cư cũng như tình hình phát triển kinh tế xã hội của vùng,rèn kĩ năng phân
tích biểu đồ.
+Trong đó mỗi lược đồ lại có một nhiệm vụ và chức năng riêng: Có lược
đồ chỉ sử dụng để tìm hiểu về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên,
những lược đồ khác lại chủ yếu phục vụ để phân tích khả năng phát triển kinh tế
của vùng.
Ví dụ: Lược đồ hình 17.1 sách giáo khoa địa lí 9 trang 62
22


Lược đồ này có ý nghĩa quan trọng để cung cấp và bỏ sung việc định hình
kiến thức cho học sinh về: Vị trí địa lí lãnh thổ của vùng Trung du miền núi bắc
bộ và thông qua lược đồ này học có thể xác định được ý nghĩa quan trọng của vị
trí đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế của vùng. Học sinh cũng nhận
thức được các đặc điểm tự nhiên của vùng Trung du và miền núi bắc bộ, và hiểu
được đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của vùng và những thuận lợi,
khó khăn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Và lí giải được sự phân bố dân cư
của vùng cũng như các em sẽ giải thích được vì sao dân cư ở đây có sự khác
nhau giữa khu vực Đông bắc và Tây bắc. Từ đó xác định được do ảnh hưởng
của điều kiện tự nhiên mà chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở trung du và miền

núi bắc bộ đã cho thấy trình độ văn hóa, kĩ thuật của lao động còn thấp. Kinh tế
của vùng còn chậm phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.
23


+ Lược đồ hình : 18.1 Lược đồ kinh tế vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ:
Từ lược đồ giáo viên cần tổ chức cho học sinh thấy được thế mạnh kinh tế của
vùng thể hiện ở một số ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp: sự phân bố
của các ngành đó.
Cụ thể ngành công nghiệp: Học sinh phải thống kê được sự phân bố của
ngành công nghiệp, và giải thích được cơ cấu ngành công nghiệp đa dạng do
dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có của vùng ( Nhiệt điện Uông Bí gần vùng than
Quảng Ninh, Thủy điện Thác bà trên sông Chảy, Thủy điện Hòa Bình- trên sông
Đà, và thủy điện Sơn La...) Cho học sinh nhận xét ý nghĩa của việc xây dựng
thủy Điện Hòa bình: Góp phần phát triển kinh tế xã hội của vùng, kiểm soát lũ
cho đồng bằng sông Hồng, nuôi trồng thủy sản, du lịch,.. Học sinh cũng cần
nhận thức được Trung du Miền núi Bắc Bộ nhờ có điều kiện thuận lợi nên vùng
phát triển cơ cấu cây trồng, vật nuôi đa dạng gồm cả trồng trọt, chăn nuôi...và
24


từng bước tiến tới sản xuất hàng hóa...Tuy nhiên giáo viên cũng cần cho học
sinh khám phá và nhận xét về những khó khăn trong phát triển nông nghiệp của
vùng: Thiếu tính quy hoạch, Chưa chủ động được thị trường, một số cây công
nghiệp còn bị rớt giá dẫn đến tình trạng bị thua lỗ...
- Các biểu đồ: Trong sách giáo khoa hiện nay của chương trình trung học
cơ sở có nhiều biểu đồ khác nhau, như : Hình cột (Đứng, ngang, chồng), hình
tròn, đường, miền...Mỗi loại biểu đồ đều có nhiều chức năng thể hiện đối tượng,
nhưng do đặc tính riêng của mình nên mỗi loại biểu đồ có khả năng tốt hơn cho
việc thể hiện đặc điểm nào đó của đối tượng. Ví dụ biểu đồ đường thể hiện quá

trình vận động phát triển của sự vật: Biểu đồ tròn có ưu thế về thể hiện cơ cấu,
biểu đò hình cột có nhiều lợi thế trong biểu hiện số lượng và tình hình phát triển
của sự vật hiện tượng.Việc sử dụng biểu đồ trong dạy học địa lí ở trung học cơ
sở thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như quan sát, phân tích biểu đồ,
rút ra nhận xét theo yêu cầu, so sánh các biểu đồ cùng loại với nhau rút ra nhận
xét, từ biểu đồ chuyển thành bảng số liệu thống kê, từ bảng số liệu vẽ thành biểu
đồ và nhận xét,... dù dưới hình thức nào giáo viên cũng nên tập trung vào việc
giúp học sinh rút ra được những kiến thức chứa đựng trong các biểu đồ, trên cơ
sở đó hình thành rèn luyện kĩ năng sử dụng biểu đồ cho học sinh.
Nội dung và hình thức của các biểu đồ trong phần các vùng kinh tế vốn
thường là các biểu đồ cột và biểu đồ tròn. Có vai trò cung cấp tri thức về mật độ
dân số ví dụ như của Đồng bằng sông Hồng, Trung du và miền núi Bắc bộ như
hình 20.2 trang 73 sách giáo khoa biểu đồ này nhằm cung cấp cho học sinh sự
chênh lệch lớn về mật độ dân số đồng bằng sông Hồng so với các vùng khác của
cả nước. Từ đó hình thành kĩ năng phân tích những thuận lợi và khó khăn cho sự
phát triển kinh tế xã hội của vùng.
- Các bảng số liệu thống kê: 23 bảng:
Bảng 18.1- trang 69, bảng 20.2- trang 75, bảng- 21.1 trang 77 ; bảng 22.1,
bảng 26.1- trang 95, bảng 26.2 trang 97, 26.3 trang 99, bảng 27.1- trang 100,
bảng 28.3- trang 105, bảng 29.1 trang 108, bảng 29.2 trang 109, bảng 31.3 trang
116, bảng 32.1 trang 117, bảng 32.2 trang 119, bảng 32.3 trang 120, bảng 33.1
25


×