Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.2 KB, 15 trang )

ĐỀ TÀI:
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
Lý do chọn đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt bút viết những dòng đầu tiên của Tài liệu tuyệt đối bí mật (Di
chúc) vào một ngày tháng 5/1965, khi mà lịch sử lại đặt dân tộc ta trước một thử thách
cực kỳ nghiêm trọng hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó: tháng 2/1965 không quân Mỹ ồ ạt
leo thang đánh phá miền Bắc với dã tâm “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, tháng
3/1965 quân đội viễn chinh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, chính thức mở cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta. Thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ hơn ai hết tình hình sức khỏe
của mình và sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ mà dân tộc cần phải vượt qua. Nhưng
Người đã viết: "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng
lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà''. Trong những lần Chủ tịch Hồ Chí
Minh sửa chữa, bổ sung bản Di chúc sau đó, đoạn văn này không hề thay đổi. Đến bản
cuối cùng (tháng 5/1969), ý tưởng này được đưa thêm vào đoạn mở đầu Di chúc: “Cuộc
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa,
song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Đây không chỉ còn là
ngôn từ thuần tuý nữa mà là niềm tin, là khát vọng cháy bỏng, tình cảm thiêng liêng và
chí hướng phấn đấu của toàn dân tộc...
Hồ Chí và dân tộc Việt Nam có một sợi dây liên hệ đặc biệt. Dân tộc ta, nhân dân ta, non
sông đất nước ta đã sinh ra Người. Anh hùng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Nếu nói không quá thì Hồ Chí Minh chính là hình ảnh tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam
suốt hàng ngàn năm lịch sự. Trải qua cuộc đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, dân
tộc ta đã để lại vốn vốn luyến – bản sắc văn hóa hài hòa. Chính vì vậy thông qua bài luận
này tôi muốn nói lên đôi dòng suy nghĩ về văn hóa trong di chúc của Hồ Chí minh cũng
như quan niệm văn hóa của Người đã nêu ra. Đồng thời cùng đó sẽ bàn và phân tích kế
thừa di sản văn hóa tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay – tiến tới
xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam tiên tiến – đậm đà bản sắc dân tộc.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Thông qua bài luận, tác giả muốn khái quát sơ lược về quan điểm về văn hóa, con người


trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như lấy cơ sở tiền đề tìm hiểu về thế nào là khái niệm
văn hóa ?.


Cùng đó tìm hiểu giá trị nhân văn về văn hóa trong di chúc của Hồ chủ tịch - một bản di
chúc bất hủ…
Đưa ra những cơ sở luận – lý thuyết và thực tiễn mà Đảng vận dụng kế thừa và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa - xây dựng nền văn hóa tiên tiến - đậm đà bản sắc dân
tộc
Đưa ra những nhận định phù hợp về thành tựu – hạn chế - bài học kinh nghiệm của việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế hiện nay
Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Về mặt không gian: Bài luận lấy bối xã hội Việt Nam từ trong đất nước tiến tới quá trình
mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế, trao đổi, tiếp biến chọn lọc các nền văn hóa trên thế
giới.
Về mặt thời gian: Bài luận lấy mốc ngày chủ tịch Hồ Chí Minh viết di chúc cho đến hiện
nay (1965 – 2017) – xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến - đậm đà bản sắc dân tộc
kế thừa từ tư tưởng và di chúc cùa Hồ Chủ tịch.
Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình làm bài tiểu luận tôi sử dụng phương pháp
lịch sử và phương pháp logic là 2 phương pháp chính.
Ngoài ra còn một số phương pháp bổ sung trong quá trình thực hiện như : so sánh, phân
tích, liệt kê, và một số phương pháp liên ngành như văn hóa học...
Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiển qua 30 năm đổi mới (2015), nxb Chính
trị quốc gia – Sự Thật. Đây là quyển sách viết về quá trình đổi mới của Đảng và nhà nước
ta trên mọi lĩnh vực một cách toàn diện, phân tích các yếu tố về mặt lý luận và thực tiễn,
cũng như các thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Về phần văn hóa
các tác giả cũng để cập đến khá nhiều về chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến – đậm đà bản sắc dân tộc.
Di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (2009), nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. đây là bản di

chúc được nhà xuất bản Chính trị quốc gia tái bản và phát hành, bao gồm những bản duy
chúc của Hồ Chí minh soạn thảo và sửa đổi trong vòng nhiều năm, cùng đó là bài điếu
văn của ban chấp hành Trung ương đảng lao động Việt Nam… qua các bản sửa di chúc
của Hồ chủ tịch ta lại thêm một phần nào đó hiểu về Người, hiểu nỗi chăng trở văn hóa đi
đôi với con người…


Kỷ yếu hội thảo khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước (Trường ĐH Thủ Dầu Một). Đây là sự tập hợp các bài viết vể tư tưởng Hồ Chí
Minh do rất nhiều thầy cô, giảng viên từ nhiều trường, cơ sở giáo dục biên soạn trong hội
thảo. Ngoài các điểm nhấn về các lĩnh vực trong cuộc hội thảo có đề cập đến rất nhiều về
phần “ Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trên lĩnh vục
kinh tế - văn – giáo dục”.
GS.Đinh Xuân Lâm – PGS, TS. Bùi Đình Phong (2007), Văn hóa và triết lý phát triển
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb Chính trị quốc gia. Đây là cuốn sách rát hay tập hợp
chyên môn về văn hóa – triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua công trình
này ta sẽ hiểu rõ hơn về con người HCM, hiểu rõ hơn sự liên hệ mật thiết giữa Người với
toàn thể dân tộc Việt Nam. Biết thế nào là : văn hóa vừa là động lực vừa là mục đích, là
nội sinh của phát triển. Không dừng lại đó qua công trình các tác giả còn muốn gởi gấm
những suy nghĩ giữa việc bảo tồn nền văn hóa truyền thống và phát huy giá trị mới – làm
nên nền văn hóa Việt Nam tiên tiến – đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại hội nhập,
giao lưu quốc tế, cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
GS. TS. Bùi Đình Phong (2016), Hồ Chí Minh văn hóa soi đường cho quốc dân đi, nxb
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Qua công trình khoa học này ta càng thêm rõ hơn về
Hồ Chí Minh với văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại như thế nào. Đánh động lòng
người văn hóa kháng chiến - văn hóa hòa bình, văn hóa viết, nói, cân đo, công bộc… văn
hóa từ trong lòng chính trị. Đồng thời Người cũng chỉ rõ “từ chức” là một hiện hữu văn
hóa khi một người cán bộ Đảng viên phải biết để luôn hoàn thành tốt các trọng trách
nhiệm vụ mình được giao…
Nội dung tiểu luận:

I.

Khái niệm văn hóa – tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1 Khái niệm văn hóa
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa – con người

II.

III.

Kết luận

Giá trị nhân văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng nền văn
hóa tiên tiến – đậm đà bản sắc dân tộc
2.1 Giá trị nhân văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa
2.2 Đảng vận dụng kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa - xây dựng nền văn hóa tiên tiến - đậm đà bản sắc dân tộc
Thành tựu – hạn chế - bài học kinh nghiệm của việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế hiện nay


I.

Khái niệm văn hóa – tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

1.1 Khái niệm văn hóa
Cho đến nay người ta đã thống kê được hơn 400 định nghĩa – khái niệm về văn hóa. Để
xác định được nghĩa chính xác của văn hóa không đơn giản một chút nào bởi các học giả
điều xuất phát từ những cứ liệu – quan điểm riêng, mục đích riêng để phù hợp với vấn đề
mình nghiên cứu…

Theo tổ chứ của UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được
đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn
học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
thống và đức tin”. ( Khái niệm được lấy vào năm 2002)
Còn đối với Hồ Chí Minh (HCM) quan điểm về văn hóa đã có từ năm 1943 khi
Người ở trong nhà tù của Quốc Dân Đảng được ghi chép lại trong nhật kí trong tù: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sang tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những
công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở, và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt
cùng với những biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhầm đáp ứng nhu cầu của
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.” [5, tr.431].
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa – con người
Hồ Chí Minh sinh ra không phải để trở thành nhà văn hóa, mục đích sống và hoạt động
của Người cũng không phải muốn được vinh danh “nhà văn hóa lớn” của thế giới. Nhưng
tất cả cuộc đời Người với những nỗ lực sống, lao động, học tập, hoạt động cách mạng…
[3, tr.538] đã làm nên HCM một nhà văn hóa lớn. Không những vậy Người cũng chính là
hiện thân của những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Với định nghĩa về văn hóa năm 1943 của HCM đã khắc phục được quan niệm phiến diện
về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần, trong văn
nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình độ học vấn… Trên thực
tế[4, tr.230], văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà


loài người sang tạo ra, nhầm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài
người.
Hồ Chí Minh sớm đã có quan niệm và đề cập đến xây dựng một nền văn hóa mới – định
hướng xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.

2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự việc có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế” [5, tr.431]
Như vậy, ngày từ rất sớm Hồ Chí Minh đã quan tâm đế vấn đề văn hóa, đã thấy rõ vai trò,
vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau khi giành
được độc lập Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nển văn hóa mới ở
Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con
người, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
Người cho rằng văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng và
văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm
vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Không chỉ dừng lại vai trò và vị trí của
vắn hóa mà Người còn nói rõ về chức năng của văn hóa là:
-

Bồi dưỡng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh,
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.

Bên cạnh nội dung một nền văn hóa mới có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện: Văn hóa là một mặt trận, văn nghệ sĩ là một
chiến sĩ trên mặt trận ấy. Văn hóa là một mặt trận rất quan trọng như những mặt trận
khác, văn hóa văn nghệ có tính phức tạp nên phải có chiến lược, sách lược rõ rang. Văn
nghệ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa cho nên vị trí của họ rất cao – là một chiến sĩ cách
mạng. Vậy họ phải sử dụng ngồi bút của mình, tài năng nghệ thuật của mình để đấu tranh
cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy phải giáo dục, xây dựng đạo đức cho
họ để họ có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ “dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng
bị mất tự do. Văn nghệ muốn có tự do thì phải tham gia cách mạng”. Trong thời kì quá độ
“văn nghệ phải phê bình rất nghiêm khắc những thói xấu tham ô, lãng phí, lười biếng,



quan liêu… và cũng phải ca tụng chân thật những người mới – việc mới để làm gương
cho chúng ta ngày nay vào giáo dục cho con cháu chúng ta đời sau”.
Hồ Chí Minh luôn mong muốn xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam mang nội dung xã
hội chủ nghĩa và tính dân tộc sâu sắc. Văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa
xây dựng trên cơ sở khối liên minh công nông, là nền văn hóa được sự lãnh đạo của
Đảng, là nền văn hóa hiện thực phê phán (phê phán cái bảo thủ, cái lạc hậu, xấu xa, nó cỗ
vũ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa). Đồng thời nền văn hóa phải là
của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và phục vụ quần chúng nhân dân. Người khẳng
định: “ Chỉ có nhân dân nuôi dưỡng cho sáng tác nhà văn bằng những nguồn nhựa sống.
Còn nếu nhà văn quên điều đó người dân cũng sẽ quên anh ta”. Hồ Chí Minh cũng nhấn
mạnh rằng: “Công tác văn hóa phải lấy lợi ích nhân dân làm khuôn phép, nói chuyện
tuyên truyền khẩu hiệu, viết báo… phải xác định từ trong quần chúng mà ra, về sâu trong
quần chúng. [6, tr.201].
Như vậy từ tư tưởng Hồ Chí Minh một phần nào đó ta đã hiểu được rằng văn hóa phải
thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển nên đòi hỏi phải có một cơ chế
chính sách đảm bảo cho văn hóa – kinh tế cùng nhau phát triển song song nhầm đưa đất
nước ngày càng tiến lên bền vững…
II.

Giá trị nhân văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng nền văn
hóa tiên tiến – đậm đà bản sắc dân tộc

2.1 Giá trị nhân văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa
Phong cách Hồ Chí Minh chính là con người Hồ Chí Minh, bao gồm cả tư tưởng,
hành động, đạo đức, phong thái, truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây,
dân tộc và nhân loại, quá khứ - hiện tại – tương lai… nhưng rất Hồ Chí Minh, hết sức
Việt Nam và Á Đông. Hồ Chí Minh được thế giới xếp vào dòng tinh hoa của những con
người làm nảy nở và tăng cường mối tương tác văn hóa và sự giao tiếp giữa các quốc gia,

xích các dân tộc lại gần nhau. Người tiếp thu cái mới mà không mất cái gốc để luôn luôn
sẽ là con người hiện đại cho dân tộc Việt Nam. Chính trong những lúc cuối đời mình
người luôn nghĩ cho dân – cho nước – cho đảng… với nhiều lần chỉnh sửa di chúc tác
phong văn hóa Người luôn thể hiện nhất quán đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, việc riêng
vỏn vẹn đôi ba dòng… phong thái – văn hóa ấy – vĩ nhân liệu có bao nhiêu người ?.
Là anh hùng giải phóng dân tộc đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại một sự nghiệp văn hóa vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, cách mạng hóa và
hiện đại hóa nền văn học, nghệ thuật Việt Nam. Người là tác giả của hơn 250 bài thơ,
khoảng 2.000 bài báo, nhiều truyện ngắn, văn chính luận, tiểu phẩm văn học. Dù chỉ nhận


là nhà cách mạng chuyên nghiệp, nhưng trước tác của Người là tài sản tinh thần quý báu
của Đảng ta và nhân dân ta, minh chứng cho cuộc đời hoạt động phong phú, sôi nổi cũng
như tài năng của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, có giá trị về chính trị và văn hóa.
Với bản Di chúc lịch sử, dẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chỉ là “mấy lời... phòng
khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả
nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột...” [2, tr.36],
nhưng hơn bao giờ hết, gửi gắm trong đó là hết thảy ham muốn và tâm nguyện trọn cuộc
đời của Người. Di chúc là cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh, thể hiện tầm
nhìn văn hoá rộng lớn và trí tuệ văn hoá sâu sắc của người Cha già dân tộc. Cũng như
theo lời PGS.TS Hồ Trọng Hoài - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: “Các phẩm
chất cao đẹp đó kết tinh ở Hồ Chí Minh, chi phối nhận thức, tình cảm và hoạt động của
Người. Người trở thành nhà văn hoá chính trị. Người là nhà văn hoá chính trị bởi hành
trang của Người trước khi trở thành một lãnh tụ chính trị vĩ đại của dân tộc là hành trang
văn hoá. Các giá trị văn hoá đó, được quy tụ xoay quanh vấn đề con người, quê hương,
đất nước mà rộng lớn nhất là nhân loại, hình thành một nhân sinh quan, một thế giới quan
vì con người, thôi thúc Người hành động vì con người”[8].
Hay như lời nhận xét của TS Văn Thị Thanh Mai – Phó Tổng biên tập tạp chí Tuyên giáo
đã khẳng định bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trí tuệ văn hoá của Người.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi văn hóa là một yếu tố quan trọng cấu thành đời

sống xã hội, sự phát triển của văn hóa nằm trong mối liên hệ biện chứng với các yếu tố
kinh tế và chính trị. Người từng quan niệm về văn hóa rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hoá”[8].
Cũng vì thế, khi còn sống, Người đã đưa ra lời kêu gọi thi đua tới toàn dân không chỉ
chống giặc đói, giặc ngoại xâm, mà còn phải chống cả giặc dốt. Trong bản Di chúc,
Người vẫn nhấn mạnh: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[2, tr.37]. Người cũng gửi lời nhắc
nhở, căn dặn qua Di chúc: “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một
nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn đau đáu nỗi niềm trăn trở làm sao phải xây
dựng Đảng, củng cố Đảng thật trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là người lãnh
đạo, đày tớ trung thành của nhân dân, dễ hiểu tại sao trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại “trước hết nói về Đảng” mà cụ thể là về văn hoá Đảng. Từ góc độ văn hóa, đoàn


kết chính là giá trị, là sức mạnh và cũng là hạt nhân quan trọng của văn hóa Đảng: “Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, “nhờ đoàn kết chặt chẽ,
một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày
thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đối với Hồ Chí Minh, văn hóa Đảng
chính là trí tuệ, lương tâm và sự trong sạch của Đảng, Đảng phải “xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Để làm được điều đó, “trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình” và mỗi cán bộ, đảng viên phải “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng” cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cụm từ “đạo

đức cách mạng” được sử dụng đến hai lần và cả hai lần đều được in nghiêng cho thấy sự
quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới vấn đề này. Coi văn hóa đạo đức là nội
dung bên trong của lối sống nên Hồ Chí Minh coi trọng việc giáo dục, tu dưỡng rèn luyện
đạo đức cách mạng. Một khi cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng tất yếu sẽ
đoàn kết và “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Có đạo đức mới đoàn kết tốt; thực hiện đoàn kết tốt, chặt chẽ là đảng viên đã thấm nhuần
đạo đức cách mạng, sẽ làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trước hết là ở những giá
trị đạo đức của nó, ở phẩm chất đạo đức và nhân cách của những người cộng sản. Một
nền văn hóa có những con người có đạo đức, nhân cách, có lối sống cao đẹp như vậy thì
những cái xấu, cũ kỹ, hư hỏng nhất định sẽ bị quét sạch. Đó chính là mục đích của cuộc
cách mạng mà nhân dân phải tiếp tục tiến hành khi cả nước thống nhất, non sông liền một
dải như Người đã từng chỉ rõ năm 1967: phải “thay đổi triệt để những nếp sống, thói
quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”[6,
tr.493].
Quan tâm đến con người với ý nghĩa là chủ thể sáng tạo của mọi giá trị văn hoá, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm huyết chăm lo phần “công việc đối với con người”.
Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế
và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Suốt cuộc đời Bác đã
“hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”, lúc sắp ra đi,
không màng danh vọng, không ham bia đá, tượng đồng, Bác vẫn chỉ nghĩ đến việc chăm
lo hạnh phúc cho con người, tiết kiệm thì giờ và tiền bạc cho nhân dân: “Sau khi tôi qua
đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân...”. Lúc sinh
thời, Bác chỉ ở một ngôi nhà sàn đơn sơ, đi đôi dép cao su, mặc bộ quần áo kaki, ăn


những bữa cơm thanh đạm mang đậm đà mùi vị quê hương, khi qua đời, Bác chỉ đề nghị
xây trên mộ Người “một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người
thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi”. Những dòng Người gửi lại trong Di chúc về việc riêng

chính là bài học lớn cho mọi thế hệ về đạo đức “Cần - kiệm - liêm - chính, chí công vô
tư”.
Trong bản thảo tháng 5/1968, Bác đã vạch ra những dự kiến về việc xây dựng đất
nước sau chiến tranh, có tính đến từng đối tượng cụ thể: thương binh, gia đình liệt sĩ, bộ
đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, nông dân. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương cần
xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm để ghi nhận sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời
đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với những người đã dũng cảm hi
sinh một phần xương máu của mình hay đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt
sĩ, Người căn dặn “phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn”, “phải giúp đỡ
họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Đối với những chiến sĩ
trẻ tuổi và thanh niên xung phong ưu tú thì cần cho đi học thêm các ngành, các nghề để
đào tạo thành “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”. Đối với phụ nữ, “phải có kế hoạch thiết thực đề bồi dưỡng, cất nhắc và giúp
đỡ” để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo.
Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng những lời lẽ rất chí tình, với sự đồng cảm
sâu sắc từng đối tượng được nêu trên, và đặc biệt là Người đã đánh giá đúng tinh thần
thái độ và sự đóng góp của họ vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Thấm nhuần đạo lý
văn hoá truyền thống của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Tựu chung lại ta có thể thấy Hồ Chí Minh là một người rất quan tâm đến sự phát triển của
con người với ý nghĩa là chủ thể sáng tạo của mọi giá trị văn hóa. Vì thế, Người dành nội
dung dài nhất viết về “công việc đối với con người” trong Di chúc. Người chỉ ra rất nhiều
việc phải hành động, coi đó là một cuộc cách mạng chính nghĩa và nhân văn, xuất phát từ
lợi ích chính đáng của nhân dân và là hành trình đi đến những giá trị văn hóa đích thực
nhất.
2.2 Đảng vận dụng kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa - xây dựng
nền văn hóa tiên tiến - đậm đà bản sắc dân tộc
Trong hơn 30 năm đổi mới và kế thừa di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh kể từ ngày
người ra đi. Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị vể văn hóa mới chung,
về giáo dục, đào tạo, khoa học, báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật…nói riêng. Những
văn kiện đó đã thể hiện bước tiến về nhận thức lý luận của đảng về văn hóa [1, tr.91 -92].



Đảng đã xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực, là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển, về những đặc trưng cơ bãn của văn
hóa dân tộc và những định hướng về chủ trương, giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… được thể hiện qua các văn kiện của đảng từ năm
2006 về trước, đăc biệt là Nghị quyết trung ương năm khóa VIII , đến nay, về cơ bản vẫn
còn nguyên giá trị. Từ Đại hội IX đến Đại hội XII vẫn khẳng định tiếp tục xây dựng nền
văn hóa tiên tiến – đậm đà bản sắc dân tộc và Hội nghị Trung ương chín khóa XI đã ban
hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”.
Nhằm xác định tính chất của nền văn háo tiên tiến - đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà chúng ta phấn đấu xây dựng trong
thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã
nhấn mạnh các đặc trưng: dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Những đặc trưng này là
sự phát triển và hoàn thiện các đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng đã được Đảng ta
xác định trong đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, kết tinh những giá trị văn hóa, con
người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Thừa hưởng từ giá trị nhân văn tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mà đảng ta đã nhận
thức sâu sắc hơn về văn hóa với con người: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách
con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. Con người là chủ thể sáng
tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển. Xây dựng con
người có nhân cách, lối sống tốt đẹp là trọng tâm, cốt lõi của phát triển của văn hóa, mọi
hoạt động của văn hóa phải hướng tới xây dựng, phát triển con người. Đảng đã nêu rõ
định hướng phát triển con người toàn diện về tư tưởng trí tuệ, tâm hồn, thể chất, về đạo
đức, nhân cách, lối sống với các đặc tính cơ bản: yêu nước nhân ái, nghĩa tình trun thực,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo. [1, tr.93]. Xây dựng phát triển con người gắn chặt chẽ với việc
thực hiện, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, với thực hiện hiệu quả
tiến bộ, công bằng xã hội…
Trước sự tác động thường xuyên , phức tạp của cơ chế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập

quốc tế đến đời sống văn hóa và con người Việt Nam. Đảng ta đã nhấn mạnh yêu cầu xây
dựng môi trường văn hóa đồng bộ, lành mạnh phù hợp với bối cảnh, điều kiện mới,
trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng môi trường văn hóa trong hệ thống chính trị, văn
hóa trong gia đình, trong nhà trường, trong cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp, nhằm nuôi dưỡng hoàn thiện con người Việt Nam. Gắn kết xây dựng
môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái, với cuộc đấu tranh, phê phán, đẩy
lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu, các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực và khắc
phục những hạn chế của con người Việt Nam.


Nhận thức vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước,
Đảng ta đã chỉ rõ mối quan hệ khắn khít giữa xây dựng, phát triển văn hóa với các lĩnh
vực, các mặt hoạt động của đời sống xã hội, đặc biệt là quan hệ giữa chính trị - kinh tế văn hóa. Đồng thời nhấn mạnh yêu cầu xây dựng trong Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, hội viên, công chức,
viên chức.
Đối với những lĩnh vực quan trọng của văn hóa, nhận thức của Đảng có những bước phát
triển mới, nổi bật là hoàn thiện định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo,
đột phá cơ chế, chính sách để phát triển, ứng dụng khoa học – công nghệ, đẩy mạnh phát
triển văn hóa, nghệ thuật, báo chí, xuất bản, gắn kết bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống với sáng tạo các giá trị văn hóa mới, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế…
Hướng vào phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây dựng văn hóa, con người
Việt Nam…
Nhằm phát triển văn hóa đúng hướng. Đảng đã chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đang đối với văn hóa, bảo đảm định hướng chính trị, tư tưởng, không
buông lỏng, đồng thời tôn trọng, phát huy quyền tự do sáng tạo cá nhân, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với văn hóa, mở rộng nguồn lực đầu tư phát triển văn
hóa một cách toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng xây dựng đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hóa đáp ứng tốt yêu cầu của nhiệm vụ.
III.


Thành tựu – hạn chế - bài học kinh nghiệm của việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế hiện nay

Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy
có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân tộc. Và yếu tố dân tộc quyết
định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái “hồn”, là sức sống nội
sinh, là cái thẻ căn cước của mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó
nó có biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình trong quá trình giao lưu và
hội nhập [7, tr.249]
3.1 Thành tựu
Qua hơn 30 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã đạt được
những kết quả quan trọng. Những tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ,
sự khởi sắc trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thông đại chúng, bảo tồn, phát huy
các di sản văn hóa, sự tăng cường các thiết chế văn hóa cơ sở… làm cho đời sống tinh
thần của co người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân
từng bước được nâng lên.


Bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn, dân trí được nâng cao, tính tích cực cá nhân
và xã hội được phát huy.
Những nhân tố mới, của văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế từng bước được định hình trong đời sống.
Quyền tự do sáng tạo, quảng bá văn hóa, văn học, nghệ thuật được tôn trọng và sinh hoạt
tâm linh của nhân dân được quan tâm thực hiện.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”
và các phong trào xóa đói giảm nghèo, đờn ơn đáp nghĩa… đạt được những kết quả tích
cực, tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc.
Nhiều giá trị nhân văn truyền thống của cộng đồng các dân tộc được phát huy, đồng thời
xuất hiện những giá trị nhân văn mới.
Nguồn lực của nhà nước, của xã hội đầu tư cho văn hóa được nâng lên, hệ thống thiết bị

văn hóa từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng, từng bước hoàn thiện và phát huy tác
dụng.
Giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế vể văn hóa được mở rộng, bước đầu gốp phần làm
phong phú hơn đời sống văn hóa trong nước và quảng bá hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam ra nước ngoài.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa có tiến bộ, các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách
con người về văn hóa, con người từng bước được đổi mới và hoàn thiện, đội ngủ công tác
văn vắn có bước trưởng thành.
3.2 Hạn chế
So với những thành tựu đạt được về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh thì
thành tựu phát triển văn hóa, con người chưa tương xứng
Lĩnh vực xây dựng con ngưởi còn nhiều hạn chế và khuyết điểm, sự xuống cấp về văn
hóa, đạo đức trong xã hội. Đặc biệt là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp.
Hiện tượng phai nhạt lý tưởng, lối sống thực dụng, vị kỷ, vô cảm, sự vô trách nhiệm,
thiếu kỷ luật trong lao động, hoạt động trong công vụ, sự lệch lạc trong sáng tác, trình
diễn, cảm thụ văn học, nghệ thuật,… chưa được khắc phục.


Môi trường văn hóa bị ô nhiễm và có những diễn biến phức tạp. Những tệ nạn, tiêu cực
trong hoạt động, quản lý văn hóa chậm được ngăn chận.
Đời sống văn hóa tinh thần nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, sự chênh lệch vể hạ tầng
văn hóa, thiết chế văn hóa và khảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền có xu
hướng tăng lên.
Chất lượng, hiệu quả bảo tồn, phát huy các di sản còn nhiều mặt hạn chế, chưa gắn kết
với phát triển kinh tế - xã hội, chưa đáp ứng yêu cầu của giáo dục truyền thống, bồi đáp
niềm tự hào về văn hiến, văn hóa dân tộc.
Chất lượng sáng tác các giá trị văn hóa mới còn nhiều hạn chế, ít các công trình, tác
phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, khoa học cao…
Xu hướng thương mại hóa – bệnh thành tích, chạy theo số lượng, hình thức bề nổi…

chưa được khắc phục…
Lãnh đão quản lý văn hóa còn nhiều mặt bất cập. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
chưa đồng bộ, chưa xác thực tiễn. Nguồn lực đầu tư cho văn hóa còn hạn hẹp, đầu tư dàn
trải, hiệu quả thấp…
3.3 Bài học kinh nghiệm
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đi qua ngót 1/3 thế kỉ, những tư tưởng chiến lược của
Hồ Chí Minh vể văn hóa trong sự nghiệp cách mạng vẫn còn nguyên giá trị và được
Đảng ta vận dụng sáng tạo, đã mang lại những thành tựu đáng kể [4, tr.587]. Bản sắc văn
hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó không phải là một hằng số, là những giá trị bất
biến, mà còn có những giá trị mới được hình thành, bồi tụ trong quá trình hội nhập, tiếp
biến giữa các nền văn hóa. Vì vậy tùy theo cách nghiên cứu của mỗi người mà đưa ra
những bài học kinh nghiệm khác nhau, nhưng tựu chung lại là những điều xác đáng của
việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tạo ra những giá
trị mới dựa trên sự chọn lọc khoa học…
Một là, giữ vẫn độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc cũng chính là giữ gìn giá trị
văn hóa của dân tộc về quyền tự do và độc lập.
Hai là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – điều kiện để đảm
bảo giá trị văn hóa “ dân làm chủ”.


Ba là, chăm lo phát triển văn hóa – giáo dục, đồng thời phải xem văn hóa là động lực của
hội nhập quốc tế, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bốn là, thực hiện quan điểm: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực để giống giặc
ngoại xâm trong thời kì đổi mới…
Nam là, cùng đó ta phải hiểu được là văn hóa là đối ngoại, là sự xâm nhập, đan xem trao
đổi, tác động qua lại có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh.
Sáu là, không mở mang đầu óc với thế giới bên ngoài thì sớm hay muộn thì cũng sẽ bị

suy thoái. Nhưng cũng không phải cứ mở mang là tiến bộ và phát triển… về vấn đề này
ta cần có những bước đi, phân tích chiến lược đúng đắn, trọng tâm mà không dàn trải.
Bảy là, “biết người biết ta” để giữ gìn và chắc lọc… biết “ mở cửa” và “đóng cửa” thì ắt
sẽ thành công….
Kết luận
Nước có độc lập rồi mà dân chưa được ấm no, hạnh phúc đó là điều chăn trở cả đời của
Hồ chủ tịch. Cho nên nấc thang văn hóa thứ 3 mà Hồ Chí Minh muốn đem lại cho nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng chính là chăm lo sự nghiệp phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo làm cho dân có ăn , có mặc, dân hết đói nghèo thì xã hội mới yên bình. Tiếp
đến người mong muốn phải làm cho dân được học hành, được phát huy hết năng lực cá
nhân để xây dựng đất nước. Với bản di chúc bất hữu mà Người để lại ta nên hiểu cặn kẻ
một nền văn hóa tiên tiến - dậm đà bản sắc dân tộc, là nền văn hóa cần được bảo tồn,
chấn hưng nền văn hóa dân tộc để làm định hướng cơ sở cho việc mở rộng giao lưu văn
hóa quốc tế. Đồng thời phải kết hợp một cách chặt chẽ, khoa học, tinh tế, có lý, có tình
giữa “pháp trị” – mà đặc biệt là vai tró quản lý của nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế
- xã hội – với “đức trị” mà chủ yếu là tính giáo dục nhân văn, đạo đức. Cùng đó ta phải
nhận thức được rằng con người là chủ thể của văn hóa mới làm nên một nền văn hóa Việt
Nam phát triển bền vững trong quá trình giao lưu hội nhập.


Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiển qua 30 năm đổi mới (2015),
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.


nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật.
Di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (2009), nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Kỷ yếu hội thảo khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước (Trường ĐH Thủ Dầu Một)
Hồ Chí Minh (2011) toàn tập, Tập 3, nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2011) toàn tập, Tập 8, nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
GS.Đinh Xuân Lâm – PGS, TS. Bùi Đình Phong (2007), Văn hóa và triết lý phát
triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb Chính trị quốc gia.
/>%C3%BAcH%E1%BB%93Ch%C3%ADMinhl%C3%A0dis%E1%BA%A3nv
%C4%83nh%C3%B3aqu%C3%BDgi%C3%A1c%E1%BB%A7ad%C3%A2nt
%E1%BB%99c.aspx (Truy cập 22/01/2017).



×